RƠI
NƯỚC MẮT VỚI BỮA ĂN NHÁI VÀ ỄNH ƯƠNG CỦA THẦY CÔ
Kỳ 1: Bữa ăn đáng nhớ
Chúng tôi háo hức ngược lên miền Tây xứ Thanh trong những ngày đẹp trời. Đường sá, cảnh quan, núi đồi, cuộc sống cũng có rất nhiều thay đổi tích cực, nhưng chúng tôi muốn đến những nơi sâu xa nhất, còn nhiều gian khổ nhất.
Từ cửa khẩu Na Mèo, chúng tôi ngược theo con đường không thể đặc trưng hơn để vào bản Mông xã Sơn Thủy (huyện Quan Sơn, Thanh Hóa). Thỉnh thoảng lại gặp một dốc đá cheo leo, ngoằn ngoèo cần vài chục phút cài xe số 1 gằn máy vượt qua.
Non nửa ngày toát mồ hôi hột qua hết những cánh rừng cháy, đồi đá lở thì thấp thoáng những mái nhà lợp gỗ đen xỉn ẩn hiện dưới những tán mận xanh xanh. Bản Mùa Xuân dần hiện ra bên dòng suối xiết Xơ Lước (tên bản gốc vốn đặt cùng tên dòng suối).
|
Một
góc bản Mùa Xuân
|
Đám trẻ con
đang lúi húi bên suối thấy khách lạ thì dừng tay trố mắt nhìn. Hầu như chẳng đứa
nào giao tiếp được bằng tiếng phổ thông, nên việc hỏi thăm vào nhà trưởng bản là
không thể. Chúng lại tiếp tục chia nhau những con cá đuôi cờ bé bằng ngón tay,
cho vào vỏ chai nhựa.
Thật may, đúng lúc đó thì ngôi nhà gạch màu vàng hiện ra, dấu hiệu của trường học vùng cao đang được đầu tư kiên cố hóa. Đó hình như là ngôi nhà duy nhất trên bản này dùng tấm lợp phibro xi măng. Bốn bề trong thung, trên sườn đồi chỉ lúp xúp toàn những mái nhà gỗ và tranh tre nứa lá.
Có 3 thầy cô giáo vừa xong buổi dạy đang vội vã chuẩn bị bữa cơm trưa trong căn nhà gỗ chật chội nhìn lên thấy ánh nắng. Thầy giáo Hà Văn Xiện nhanh tay rót nước, rồi đề nghị chúng tôi nghỉ lại, ăn trưa.
|
|
|
Những
chú nhái, ễnh ương béo mầm chuẩn bị được lên đĩa thết khách
|
Bởi ban ngày chưa chắc trưởng bản đã ở nhà, còn bận lên nương
hay ra suối bắt cá đến tối mịt. Mà quanh vùng này, có tìm thêm hai năm nữa cũng
không có một quán cơm, phòng trọ.
Hai cô giáo mầm non nhìn nhau, rồi hỏi đi hỏi lại chúng tôi có ăn cơm không để họ còn lấy thêm gạo. Dĩ nhiên chúng tôi chẳng khách sáo gì, xăng xái cùng vào căn bếp trống hoác tham gia việc củi lửa. Không khí trò chuyện trở nên thân tình ấm áp hơn rất nhiều.
Cô Ngân Thị Vui nhanh nhẹn xách chậu đựng thức ăn tươi ra, chuẩn bị đãi khách. Lưng lửng chậu toàn nhái đồng nhái suối, bé bằng đầu ngón tay, ngón chân đang chen chúc cố ngoi lên mặt nước xâm xấp. Cô cười hồn hậu: “Chắc các anh ít ăn món này, nhưng ngon đáo để đấy”.
Rồi cả Vui và Hà Thị Hồng mỗi người một thanh cật nứa thoăn thoắt làm thịt nhái. Rạch một đường giữa bụng, vớt mạnh tay chiếc cật nứa là lục phủ ngũ tạng của con nhái tuột xuống chậu. Thân con nhái, còn nguyên đầu, da, móng chân được ném vào chiếc xô đựng nước suối sạch hơn.
Hai cô giáo mầm non nhìn nhau, rồi hỏi đi hỏi lại chúng tôi có ăn cơm không để họ còn lấy thêm gạo. Dĩ nhiên chúng tôi chẳng khách sáo gì, xăng xái cùng vào căn bếp trống hoác tham gia việc củi lửa. Không khí trò chuyện trở nên thân tình ấm áp hơn rất nhiều.
Cô Ngân Thị Vui nhanh nhẹn xách chậu đựng thức ăn tươi ra, chuẩn bị đãi khách. Lưng lửng chậu toàn nhái đồng nhái suối, bé bằng đầu ngón tay, ngón chân đang chen chúc cố ngoi lên mặt nước xâm xấp. Cô cười hồn hậu: “Chắc các anh ít ăn món này, nhưng ngon đáo để đấy”.
Rồi cả Vui và Hà Thị Hồng mỗi người một thanh cật nứa thoăn thoắt làm thịt nhái. Rạch một đường giữa bụng, vớt mạnh tay chiếc cật nứa là lục phủ ngũ tạng của con nhái tuột xuống chậu. Thân con nhái, còn nguyên đầu, da, móng chân được ném vào chiếc xô đựng nước suối sạch hơn.
|
Các
cô giáo mầm non đang làm thịt nhái, ễnh ương...
|
|
...
chỉ bằng một chiếc cật nứa
|
Rất thành thục, nên mỗi con nhái các cô chỉ mất chừng nửa phút
đã “xử lý” xong. Anh bạn đồng nghiệp chọn một con nhái to nhất giơ lên để chụp
ảnh, lớ ngớ thế nào nó nhảy phắt đi. Lục bắt lại mãi không được, cô giáo Vui
buồn rầu quay lại với đám nhái nhỏ còn lại trong xô.
Thỉnh thoảng tôi cũng có vài lần la cà theo đám bợm nhậu nhấm nháp món nhái “thể hình”, nhái chiên bột ở vỉa hè Hà Nội, nên xăng xái muốn phụ các cô giáo chế biến, nhưng các cô gạt đi: “Các anh không quen nấu nướng món này đâu, cứ để bọn em làm cho”.
|
Thịt nhái được ướp gia
vị...
|
Những con nhái được rửa sạch, cho vào nồi nhôm đáy đen muội bếp.
Mẻ, muối, một chút rau thơm và rất nhiều ớt được trộn lẫn. Thêm một chút nước.
Rồi đặt lên ba ông đầu rau, chất củi khô đốt.
Tôi phụ giúp việc trông nồi nhái đang sôi ùng ục. Mỗi lần mở nồi, lẫn trong mùi thơm gia vị, thoáng thấy những chân nhái quăn queo lại, teo tóp dần đi, da nhái chuyển dần từ màu xanh rớt sang màu vàng nhạt.
Tôi phụ giúp việc trông nồi nhái đang sôi ùng ục. Mỗi lần mở nồi, lẫn trong mùi thơm gia vị, thoáng thấy những chân nhái quăn queo lại, teo tóp dần đi, da nhái chuyển dần từ màu xanh rớt sang màu vàng nhạt.
|
...
cho thêm ít rau thơm
|
Chừng dăm bảy phút lửa to thì nồi nhái chín, có vẻ nhanh hơn so
với kho cá. Cô Vui hỏi: “Chia làm hai hay chỉ để một đĩa to?”. Hồng tỏ vẻ quán
xuyến, bảo: “Nhà đông người, có mỗi món này thì cứ chia hai ra cho dễ gắp”.
Thầy giáo Phạm Thế Tư, trưởng khu lẻ Mùa Xuân của Trường Tiểu học Sơn Thủy về nhà vừa lúc bữa cơm đã dọn ra trên chiếc bàn gỗ độc nhất đặt giữa nhà. Chiếc bàn cũ kỹ có lẽ được các thầy cô trưng dụng cho đủ các mục đích sử dụng: Soạn giáo án, chấm bài, tiếp khách, ăn cơm…
Thầy giáo Phạm Thế Tư, trưởng khu lẻ Mùa Xuân của Trường Tiểu học Sơn Thủy về nhà vừa lúc bữa cơm đã dọn ra trên chiếc bàn gỗ độc nhất đặt giữa nhà. Chiếc bàn cũ kỹ có lẽ được các thầy cô trưng dụng cho đủ các mục đích sử dụng: Soạn giáo án, chấm bài, tiếp khách, ăn cơm…
|
Thầy Tư là người Thái, có thâm niên trong ngành giáo dục, bảo:
“Các thầy cô giáo ở xã cứ hai năm luân chuyển một lần, để cùng chia sẻ với
những điểm trường xa, khó khăn. Nhưng có lẽ chẳng đâu khó khăn như các bản
người Mông này.
Ở đây, ngoài giờ giảng dạy, các thầy cô đều phải chật vật cho bữa ăn như những người dân địa phương. Không trồng được rau, chúng tôi lên rừng tìm bẻ măng, ra nương rỡ rau má. Đến bữa nào thì lo bữa đó.
Đám học sinh sau buổi học cũng vội lên rừng, ra suối. Các thầy cô ai cũng đều có thể ra suối bắt cá, bắt nòng nọc, bắt nhái về làm chất dinh dưỡng. Cá thì đi bắt ở con suối xa cách đây chừng 6km đường rừng. Bữa nhái này tôi vừa bắt ở suối tối qua thôi, còn tươi lắm”.
Ở đây, ngoài giờ giảng dạy, các thầy cô đều phải chật vật cho bữa ăn như những người dân địa phương. Không trồng được rau, chúng tôi lên rừng tìm bẻ măng, ra nương rỡ rau má. Đến bữa nào thì lo bữa đó.
Đám học sinh sau buổi học cũng vội lên rừng, ra suối. Các thầy cô ai cũng đều có thể ra suối bắt cá, bắt nòng nọc, bắt nhái về làm chất dinh dưỡng. Cá thì đi bắt ở con suối xa cách đây chừng 6km đường rừng. Bữa nhái này tôi vừa bắt ở suối tối qua thôi, còn tươi lắm”.
|
Hai
đĩa nhái thơm ngon
|
Tôi thử ăn một miếng nhái, thấy không ngon và quen miệng như
mình tưởng. Nó không giòn, hơi cay, có chút tanh tanh do đã nguội thì phải. Cô
giáo Vui cũng chỉ ăn được bụng và đôi chân, còn đầu và “tay” nhái thì cô ngắt
bỏ vào bát các đồng nghiệp.
Chỉ có một chút xíu bắp cải nấu đặt trong chiếc tô nhỏ xíu, hai đĩa nhái và niêu cơm cho 8 người.
Có lẽ chén rượu nồng và sự chân tình khiến các thầy cô không nhận ra, chúng tôi hầu như không đụng đũa, dù biết rằng, đó là những món ăn ngon miệng giúp các thầy cô đủ sức đứng trên bục giảng suốt thời gian qua.
Có cái gì đó cứ nghèn nghẹn nơi cổ họng.
Chỉ có một chút xíu bắp cải nấu đặt trong chiếc tô nhỏ xíu, hai đĩa nhái và niêu cơm cho 8 người.
Có lẽ chén rượu nồng và sự chân tình khiến các thầy cô không nhận ra, chúng tôi hầu như không đụng đũa, dù biết rằng, đó là những món ăn ngon miệng giúp các thầy cô đủ sức đứng trên bục giảng suốt thời gian qua.
Có cái gì đó cứ nghèn nghẹn nơi cổ họng.
CHUYỆN
LẠ XỨ THANH: THẦY CÔ
MÒ
NÒNG NỌC DƯỚI SUỐI ĐỂ ĂN
Kỳ 2: Đặc sản nòng nọc
Buổi chiều cuối tuần, các em học sinh được nghỉ sớm. Chúng tôi không bỏ lỡ cơ hội theo chân thầy cô giáo đến các triền đồi, dòng suối để cải thiện bữa ăn chiều. Vui nhất có lẽ là theo chân các cô giáo mầm non đi bắt nòng nọc về làm món kho mặn.
Lúc theo chân cô giáo Hà Thị Hồng vào bản, cô bảo: “Bà con vùng này cũng chăn nuôi được nhiều gà, lợn. Nhưng họ chỉ thường dùng trong dịp lễ Tết, cúng tế thôi, ngày thường chẳng ăn bao giờ.
Họ không ăn nhưng cũng không bán, kể cả chúng già hoặc bị dịch chết hết. Các thầy cô giáo muốn cải thiện, vào bản mua một con gà để ăn cũng rất khó, nên chúng em toàn tự tìm món ăn ở rừng, ở suối thôi”.
Buổi chiều cuối tuần, các em học sinh được nghỉ sớm. Chúng tôi không bỏ lỡ cơ hội theo chân thầy cô giáo đến các triền đồi, dòng suối để cải thiện bữa ăn chiều. Vui nhất có lẽ là theo chân các cô giáo mầm non đi bắt nòng nọc về làm món kho mặn.
Lúc theo chân cô giáo Hà Thị Hồng vào bản, cô bảo: “Bà con vùng này cũng chăn nuôi được nhiều gà, lợn. Nhưng họ chỉ thường dùng trong dịp lễ Tết, cúng tế thôi, ngày thường chẳng ăn bao giờ.
Họ không ăn nhưng cũng không bán, kể cả chúng già hoặc bị dịch chết hết. Các thầy cô giáo muốn cải thiện, vào bản mua một con gà để ăn cũng rất khó, nên chúng em toàn tự tìm món ăn ở rừng, ở suối thôi”.
|
Học
sinh tranh thủ đi bắt cá suối sau buổi học
|
Vạt rừng và con suối chúng tôi chuẩn bị bữa chiều cách điểm
trường chừng 6km, bên bản Xía Nọi của người Mông, gần ngọn núi đá hoa nổi tiếng
trong sử sách từ hàng trăm năm trước. Trên đường vượt đèo dốc, chúng tôi gặp
khá nhiều người dân, học sinh đang hăm hở hướng về lối đó.
Hai đứa bé Thao Văn Kệnh, Sung Văn Pó (cùng học lớp 3) đã dẫn nhau đi bộ từ lúc nào, đang tung tăng đeo giỏ, xách ná trên con đường dốc. Nhìn hai chiếc giỏ tre nhỏ xíu đan nong mốt, biết ngay chúng đi bắt cá. Nhưng cây ná là lạ, bé xíu có ba mũi tên bằng nan hoa thì bắn được thứ gì?
Hai đứa bé Thao Văn Kệnh, Sung Văn Pó (cùng học lớp 3) đã dẫn nhau đi bộ từ lúc nào, đang tung tăng đeo giỏ, xách ná trên con đường dốc. Nhìn hai chiếc giỏ tre nhỏ xíu đan nong mốt, biết ngay chúng đi bắt cá. Nhưng cây ná là lạ, bé xíu có ba mũi tên bằng nan hoa thì bắn được thứ gì?
|
Ngoài
giờ lên lớp, thầy giáo tranh thủ đan chài để cải thiện cuộc sống
|
Thầy Phạm Văn Tư cười hiền: “Các thầy ngoài dạy học đều có thêm
nghề đan chài lưới, bán cho bà con cũng được vài trăm ngàn một cái chài. Người
lớn dùng chài bắt cá, ở chỗ nước sâu, được cá to. Tôi được coi là người sát cá
nhất vùng này đấy.
Trẻ con thì dùng ná để bắn cá. Chúng cứ ngụp đầu xuống nước, soi trong kẽ đá, thấy con cá nào thì dùng tay chộp. Cá nằm sâu quá thì chĩa ná vào bắn, mũi tên có dây buộc lại nên không mất cá. Thường thì chúng chỉ bắn được cá bống nhỏ như ngón tay”.
Qua con suối Khua, nơi đám học sinh ùa xuống bắn cá thì chúng tôi chia tay. Thầy Tư đeo chài xách dao đi sâu 4km về nơi thâm u hơn của suối, ít người tới, hy vọng có nhiều cá to. Chúng tôi ngược dốc sang suối Xỉa, xem các cô giáo hái măng và bắt nòng nọc.
Trẻ con thì dùng ná để bắn cá. Chúng cứ ngụp đầu xuống nước, soi trong kẽ đá, thấy con cá nào thì dùng tay chộp. Cá nằm sâu quá thì chĩa ná vào bắn, mũi tên có dây buộc lại nên không mất cá. Thường thì chúng chỉ bắn được cá bống nhỏ như ngón tay”.
Qua con suối Khua, nơi đám học sinh ùa xuống bắn cá thì chúng tôi chia tay. Thầy Tư đeo chài xách dao đi sâu 4km về nơi thâm u hơn của suối, ít người tới, hy vọng có nhiều cá to. Chúng tôi ngược dốc sang suối Xỉa, xem các cô giáo hái măng và bắt nòng nọc.
|
Các
cô giáo mầm non bắt nòng nọc dưới suối
|
Chúng tôi gửi xe ở trường mầm non Xía Nọi rồi rủ thêm cô giáo
Ngân Thị Chiện đi hái măng, bắt nòng nọc. Cô Chiện bảo: “Măng thì phải đi vào
rừng rất sâu mới còn. Nòng nọc hả? Lúc sáng em đã bắt, nhưng giờ các anh chị ra
suối chắc vẫn còn nhiều”.
Rồi các cô hăm hở xách đồ nghề ra suối Xỉa. Nước trong xanh, nhiều vũng sâu quá gối, thấp thoáng những bóng đen đen ngọ nguậy dưới đáy nước. Chiện nhanh tay xúc vào vũng sâu, rút được hai ống nứa tươi, bên trong nòng nọc đã chui vào đầy.
Hì hục khá lâu dưới suối, ướt hết quần áo, tay bắt đầu tím vì lạnh, cuối cùng 3 cô giáo cũng được kha khá nòng nọc, đủ loại có chân và chưa có chân. Những con vật béo nần nẫn, nhơn nhớt, bụng to, quẫy lích rích trong chiếc xô nhỏ.
Rồi các cô hăm hở xách đồ nghề ra suối Xỉa. Nước trong xanh, nhiều vũng sâu quá gối, thấp thoáng những bóng đen đen ngọ nguậy dưới đáy nước. Chiện nhanh tay xúc vào vũng sâu, rút được hai ống nứa tươi, bên trong nòng nọc đã chui vào đầy.
Hì hục khá lâu dưới suối, ướt hết quần áo, tay bắt đầu tím vì lạnh, cuối cùng 3 cô giáo cũng được kha khá nòng nọc, đủ loại có chân và chưa có chân. Những con vật béo nần nẫn, nhơn nhớt, bụng to, quẫy lích rích trong chiếc xô nhỏ.
|
Nòng
nọc béo mầm vừa bắt lên từ suối Xỉa
|
|
Những
con nòng nọc vừa bắt lên từ suối Xỉa
|
Chúng tôi đem về bếp của cô Chiện để giữ cho chúng sống lâu hơn,
tranh thủ đi kiếm thêm rau cỏ. Cô giáo Vui vào bếp lục nồi, thấy còn thừa một
ít con nòng nọc đã kho chín, cười hớn hở: “Em phải chén vài con đã, nó mềm và
ngon như cá khoai”.
Rồi cô nhanh nhẹn gắp mấy con nòng nọc cho vào miệng, nhai ngon lành. Lát sau, khi chúng tôi đã xách dao gậy chuẩn bị đi núi, cô lại chạy vào bếp: “Em làm thêm ít con nữa. Chờ đến tối mới được ăn món này thì thèm quá”.
Nhóm chúng tôi trở về trường sớm hơn thầy giáo Tư, nhưng có vẻ như chuyến đi của thầy hiệu quả hơn. Thầy bắt được khá nhiều cá suối, lại tiện tay quăng chài được đám ve sầu đang uống nước.
Nhưng nhờ cô giáo Chiện hào phóng tặng thêm một túi ni lông to nòng nọc đang quẫy đạp để đãi khách, nên nhóm chúng tôi cũng không lép vế lắm. Đám khách xúm vào làm cá suối. Thầy Tư, thầy Xiện lại dùng hai chiếc cật nứa khoét ruột nòng nọc như các cô giáo làm thịt nhái ban sáng.
Không lấy được măng, lại làm rơi mất hoa chuối rừng, tôi lại theo hai cô giáo ra đồng rỡ rau má. Cỏ mọc hoang tàn, cây dại lúp xúp, nhưng chỉ độ một giờ cặm cụi chúng tôi cũng kiếm được nửa bao tải rau má, rau dại và mấy củ khoai nhỏ.
Hôm nay nhờ xin hái được ở đám tốt của dân, các cô giáo định hái thêm chút nữa, nay mai còn có khách đến họp chuyên môn, nhưng sắp tối rồi, nên cả nhóm đành cùng về bếp nổi lửa, sửa soạn bữa ăn. Đám học sinh cũng về đến nơi, ríu rít khoe chiếc giỏ nhỏ chứa những con cá suối bí tẹo.
Lựa lúc các cô giáo không để ý, tôi mạnh tay rót thêm chút dầu ăn vào chiếc nồi rán ve sầu và cho thêm ít mỳ chính vào nồi kho cá. Có vẻ hai món này các đồng nghiệp của tôi sẽ quen miệng hơn so với những món nòng nọc, ngóe, ễnh ương mà các thầy cô giáo tiếp đãi.
Tôi cũng cho thêm nhiều ớt tươi và măng vào món nòng nọc, nhưng quả thật không rõ nó mặn nhạt thế nào, vì thú thực rằng tôi không nếm thử. Cùng cô giáo Hồng rửa kỹ càng rau má, thế là có thêm rau xanh cho bữa cơm chiều đầm ấm.
Rồi cô nhanh nhẹn gắp mấy con nòng nọc cho vào miệng, nhai ngon lành. Lát sau, khi chúng tôi đã xách dao gậy chuẩn bị đi núi, cô lại chạy vào bếp: “Em làm thêm ít con nữa. Chờ đến tối mới được ăn món này thì thèm quá”.
Nhóm chúng tôi trở về trường sớm hơn thầy giáo Tư, nhưng có vẻ như chuyến đi của thầy hiệu quả hơn. Thầy bắt được khá nhiều cá suối, lại tiện tay quăng chài được đám ve sầu đang uống nước.
Nhưng nhờ cô giáo Chiện hào phóng tặng thêm một túi ni lông to nòng nọc đang quẫy đạp để đãi khách, nên nhóm chúng tôi cũng không lép vế lắm. Đám khách xúm vào làm cá suối. Thầy Tư, thầy Xiện lại dùng hai chiếc cật nứa khoét ruột nòng nọc như các cô giáo làm thịt nhái ban sáng.
Không lấy được măng, lại làm rơi mất hoa chuối rừng, tôi lại theo hai cô giáo ra đồng rỡ rau má. Cỏ mọc hoang tàn, cây dại lúp xúp, nhưng chỉ độ một giờ cặm cụi chúng tôi cũng kiếm được nửa bao tải rau má, rau dại và mấy củ khoai nhỏ.
Hôm nay nhờ xin hái được ở đám tốt của dân, các cô giáo định hái thêm chút nữa, nay mai còn có khách đến họp chuyên môn, nhưng sắp tối rồi, nên cả nhóm đành cùng về bếp nổi lửa, sửa soạn bữa ăn. Đám học sinh cũng về đến nơi, ríu rít khoe chiếc giỏ nhỏ chứa những con cá suối bí tẹo.
Lựa lúc các cô giáo không để ý, tôi mạnh tay rót thêm chút dầu ăn vào chiếc nồi rán ve sầu và cho thêm ít mỳ chính vào nồi kho cá. Có vẻ hai món này các đồng nghiệp của tôi sẽ quen miệng hơn so với những món nòng nọc, ngóe, ễnh ương mà các thầy cô giáo tiếp đãi.
Tôi cũng cho thêm nhiều ớt tươi và măng vào món nòng nọc, nhưng quả thật không rõ nó mặn nhạt thế nào, vì thú thực rằng tôi không nếm thử. Cùng cô giáo Hồng rửa kỹ càng rau má, thế là có thêm rau xanh cho bữa cơm chiều đầm ấm.
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment