Buồn vui thời điêu linh ở V.N: Đổi
tiền
Đồng tiền nối
liền khúc ruột cho nên mọi sự
thay đổi về tiền tệ từ phía chính quyền trong bất kỳ thời kỳ nào cũng có ảnh
hưởng sâu đậm đến người dân sống trong tầm chi phối của nhà cầm quyền đó.
Tính từ năm 1975, lịch sử Việt Nam đã có đến 3 lần đổi tiền: các
năm 1975, 1978 và 1985.
Vào thời điểm
cuối tháng 4/1975, lượng tiền mặt tại miền Nam do Ngân hàng Quốc
gia Việt Nam phát hành và lưu trữ trong ngân khố VNCH được tính
khoảng hơn 1.000 tỷ đồng, tương đương hơn 2 tỷ USD. Tuy nhiên, trên thực tế,
lượng tiền mặt trong lưu thông trên thị trường niền Nam vào lúc đó
chiếm khoảng 615 tỷ đồng.
Tại Sài Gòn,
ngay chiều 30/4/1975, hầu hết các Ngân hàng của VNCH ở khu vực Sài Gòn – Gia
Định – Chợ Lớn đều đã được niêm phong, bộ đội tiếp quản toàn bộ kho tiền và
các ngân hàng. Sáng 1/5, Uỷ Ban Quân quản của Chính phủ Cách mạng Lâm thời ra
lệnh quốc hữu hoá toàn bộ hệ thống ngân hàng cũ.
Mặt trước giấy bạc 100đ, phát hành tại miền Nam năm
1955
Mặt sau giấy bạc 100đ, phát hành tại miền Nam năm
1955
Tại miền Nam,
từ năm 1953, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đã lưu hành đồng tiền được
sử dụng trên toàn cõi Việt Nam Cộng hòa. Đặc điểm dễ nhận nhất của các loại
tiền giấy phát hành tại miền Nam trước năm 1975 là trên đồng tiền luôn luôn
có câu “Hình luật phạt khổ sai những kẻ nào làm giả mạo giấy bạc do Ngân
hàng Quốc gia Việt Nam phát ra”.
Trên các giấy
bạc còn có 2 chữ ký của Tổng kiểm tra và Thủ quỹ
Trung ương. Đến năm 1968, đổi là chữ ký của Tổng kiểm soát và Giám
đốc Sở phát hành; đến năm 1970, đổi sang chữ ký của Tổng kiểm
soát và Thống đốc; năm 1971 đổi là chữ ký của Một quản
trị viên và Giám đốc Phát hành.
Trong năm 1975,
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam in giấy bạc 5.000 và 10.000 đồng với chữ ký củaTổng
kiểm soát và Thống đốc. Tuy nhiên, 2 loại giấy bạc này
chưa được phát hành trên thị trường thì đã đến ngày miền Nam thất
thủ.
Mặt trước giấy bạc 5.000 đồng của VNCH
in năm 1975 nhưng chưa
kịp phát hành
Mặt sau giấy bạc 5.000 đồng của VNCH
in năm 1975 nhưng chưa
kịp phát hành
Mặt trước giấy bạc 10.000 đồng của VNCH
in năm 1975 nhưng chưa
kịp phát hành
Mặt sau giấy bạc 10.000 đồng của VNCH
in năm 1975 nhưng chưa
kịp phát hành
Sau khi Chính
phủ Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ hoàn toàn và được thay thế bằng chính phủ Cộng
hòa Miền Nam Việt Nam, qua danh nghĩa Chính phủ Cách mạng Lâm thời
Cộng hoà miền Nam Việt Nam, đã tổ chức đổi tiền trên qui mô toàn miền Nam
để đưa đồng tiền mới lấy tên là "Tiền Ngân hàng Việt Nam" (còn gọi
là tiền ‘giải phóng’). Tiền này được sử dụng tại miền Nam cho đến
khi đổi tiền năm 1978 nhằm thống nhất tiền tệ hai miền Nam Bắc.
Ngày 6/6/1975,
Chính phủ cách mạng lâm thời đã ra Nghị định số 04/PCT-75 về việc thành lập
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam do Ông Trần Dương làm Thống đốc. Thông qua danh
nghĩa là cơ quan đại diện chính thức của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, ngân
hàng này thừa kế vai trò hội viên của Ngân hàng VNCH trong các tổ chức tài
chính quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Á châu
(ADB) và Ngân hàng Thế giới (WB).
Cũng chiếu theo
Nghị định 04, đến ngày 22/9/1975 thì tiền VNCH có mệnh giá trên 50 đồng bị
cấm lưu hành tại miền Nam và phải đổi sang tiền mới của Chính phủ Cách mạng
Lâm thời. Tiền mới được in tại Tiệp Khắc từ năm 1966 (!), không mang chữ ký,
gồm 8 mệnh giá: 10 xu, 20 xu, 50 xu, 1 đồng, 2 đồng, 5 đồng, 10 đồng và 50
đồng. Tỉ giá hối đoái vào thời điểm ban hành Nghị định 04 là 1 USD tương
đương với 1,51đ Cộng hòa Miền Nam.
Điều đáng nói
là giá trị chuyển đổi của đồng tiền mới không thống nhất về mặt địa lý mà
thay đổi theo từng vùng theo Nghị định 04:
- Từ Quảng Nam,
Đà Nẵng trở xuống miền Nam, giá trị tiền đổi được tính theo tỉ lệ 500đ
VNCH tương đương với 1đ tiền mới.
- Từ Thừa Thiên
Huế trở lên miền Bắc, tỉ lệ đổi tiền là 1.000đ VNCH tương đương với 3đ tiền
mới.
Việc thu đổi
tiền VNCH được bắt đầu lúc 6g sáng ngày 22/9/1975 và chấm dứt vào lúc 6g
chiều cùng ngày tại Sài Gòn. Riêng tại các tỉnh xa xôi thuộc phía Nam,
việc đổi tiền có hạn chót là ngày 30/9/1975. Định mức đổi tối đa không quá
100.000đ tiền VNCH cho nhu cầu sinh hoạt của mỗi gia đình; các hộ kinh doanh
được phép đổi từ 200.000đ đến 1.000.000đ tiền VNCH sang tiền mới.
Đối với người
dân miền Nam, việc đổi tiền năm 1975 là cú xốc đầu tiên mà chính quyền mới
dành cho vùng đất. Còn đang bàng hoàng trước những thay đổi về thể chế chính
trị từ ngày 30/4/1975, chỉ chưa đầy 2 tháng sau là một sự kiện kinh tế-tài
chính có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày tại miền Nam.
Xét về mặt quản
lý kinh tế-tài chính, việc đổi tiền là một điều tất yếu đối với một đất nước
vừa được thống nhất trong đó lưu hành 2 thứ tiền: tiền VNCH và tiền miền Bắc.
Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách đó như thế nào là cả một vấn nạn đáng mổ
xẻ. Rất nhiều câu hỏi được đặt ra và cho đến bây giờ vẫn chưa có câu trả lời
thỏa đáng. Người dân miền Nam chỉ thấy sau khi Nghị định 04 được
ban hành, túi tiền của họ bỗng trở nên teo tóp một cách đáng kể.
Giấy bạc miền Bắc, phát hành năm 1965
(Có in cả chữ Hán)
Giấy bạc miền Bắc, phát hành năm 1973
===
Cuộc đổi tiền
lần thứ hai được diễn ra vào năm 1978. Ngoài mục đích thống nhất tiền tệ giữa
hai miền Nam Bắc, đổi tiền lần thứ hai được coi là một trong những phương
thức tiến hành cuộc cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam Việt Nam. Với
quyết tâm xóa bỏ hình thức kinh tế tư bản hiện hữu tại miềnNam, chính quyền
mới đã thực thi mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa trên cả nước.
Theo nghị quyết
khóa III, nhà nước chủ trương xóa bỏ tư sản mại bản, cải tạo xã hội chủ nghĩa
đối với tư sản dân tộc, thí điểm xây dựng hợp tác xã, cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với thủ công nghiệp và thương nghiệp nhỏ. Đổi tiền là một bước
trong quá trình đó. Hiện tượng này trong quá khứ đã từng được thực hiện một
cách bất ngờ ở các nước cộng sản như Liên Xô, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên nhằm
tịch thu tài sản và giảm thiểu nền kinh tế chợ đen.
Theo Sắc lệnh
của Thủ tướng Chính phủ mang số 88 CP, ký ngày 25/4/1978 thì lệnh đổi tiền
được giữ kín cho đến ngày 3/5/1978 là thời điểm công bố trên toàn quốc. Sắc
lệnh quy định tiền tệ cũ của cả hai miền Nam Bắc bị cấm lưu hành, những ai sở
hữu tiền cũ thì phải đem đổi lấy tiền mới.
Ở miền Bắc, một
đồng mới trị giá bằng một đồng cũ, loại tiền này được phát hành từ năm 1958.
Riêng ở trong Nam, một đồng mới đổi được 0,80 đồng cũ (8 hào) phát hành
năm 1975 qua đợt đổi tiền lần thứ nhất.
Dân thị thành
được đổi tối đa 100 đồng cho mỗi hộ 1 người; 200 đồng cho mỗi hộ 2 người; hộ
trên 2 người thì từ người thứ 3 trở đi được đổi 50 đồng/người. Hạn mức tối đa
cho các hộ thành phố bất kể số người là 500 đồng mỗi hộ.
Dân vùng quê
được phép đổi theo hạn ngạch 100 đồng cho mỗi hộ 2 người (50 đồng mỗi người);
hộ trên 2 người thì người thứ 3 trở đi được đổi 30 đồng/người. Tối đa cho mọi
hộ vùng quê, bất kể số người, là 300 đồng.
Số tiền sở hữu
trên mức tối đa phải khai báo và ký thác vào ngân hàng. Khi cần dùng thì tiền
đó có thể rút ra nếu… có lý do chính đáng. Một điều kiện nữa là người dân
phải chứng minh rằng số tiền trên mức tối đa là tiền kiếm được bằng ‘lao động
cá nhân’ chân chính chứ không phải tiền trục lợi qua lao động của người khác.
Cũng như lần
đổi tiền năm 1975, cuộc đổi tiền năm 1978 đã phá giá đồng tiền của Cộng hòa
Miền Nam Việt Nam đang lưu hành tại miền Nam. Tuy nhiên, tại miền Bắc, giá
trị của đồng tiền vẫn giữ nguyên.
Tại miền Nam,
dù đã qua một lần đổi tiền vào năm 1975 nhưng đa số người dân vẫn bị bất ngờ
vì lệnh đổi tiền lập lại 3 năm sau đó. Chính sách đổi tiền lần này chủ yếu
nhắm vào giới tư sản miền Nam, nhưng trên thực tế, cuộc sống của mọi người,
nhất là những người sinh sống tại miền Nam, đều bị ảnh hưởng.
Năm 1978 nhà
nước vẫn duy trì chính sách quản lý người dân bằng hộ khẩu, nói một cách
khác, hộ khẩu kiểm soát lương thực qua chế độ tem phiếu. Đến khi đổi tiền, hộ
khẩu quyết định tiêu chuẩn định mức tiền được đổi nên bi thảm nhất là những
gia đình bỏ về từ những vùng kinh tế mới. Họ không còn hộ khẩu tại thành phố
nên cũng không đủ tiêu chuẩn để đổi tiền, cuộc sống hàng ngày vốn đã khốn khổ
phải tạm trú nơi mái hiên, gầm cầu đến lúc đổi tiền lại không có giấy tờ hợp
pháp.
Vào thời điểm
1978, mức sống của dân miền Nam vẫn còn cao hơn miền Bắc nên tỷ lệ
sở hữu tiền tiết kiệm của từng gia đình tại Sài Gòn, nói chung, vẫn cao hơn
tại Hà Nội. Biện pháp ‘đổi tiền có giới hạn’ chính là một hình thức ‘cào
bằng’ giữa hai miền. Tuy nhiên, đa số người miền Nam vẫn có thói
quen mua vàng hoặc đô la thay vì giữ tiền mặt dù việc mua bán vàng và ngoại
tệ vẫn bị nhà nước nghiêm cấm vào thời điểm đó.
Số lượng vàng
còn lại tại miền Nam sau 1975 vẫn còn là một ẩn số nhưng qua các vụ
vượt biên người ta có thể nói ‘tiềm lực vàng’ của người miền Nam vẫn
còn rất mạnh. Trung bình một người vượt biên phải trả cho chủ tầu khoảng 3
‘cây’ (một danh từ phổ biến để chỉ 1 lạng vàng), nếu làm một con tính nhẩm
với gần nửa triệu người đến được bến bờ tự do hoặc bỏ thây ngoài biển cả ta
sẽ thấy một số vàng khổng lồ có trị giá hàng tỷ Mỹ kim mà người miền Nam đã
đổ vào các cuộc vượt biên. Có người còn vượt biên nhiều lần, điều này chứng
tỏ ‘tiềm lực vàng’ của người dân miền Nam là rất lớn.
Sự kiện ‘nạn
kiều’ của người Việt gốc Hoa ra đi bán chính thức bằng đường bộ và đường thủy
năm 1979 với giá trên 10 cây vàng một đầu người cũng là một minh chứng việc
‘đánh tư sản’ không đạt được kết quả như mong muốn. Trong Chợ Lớn không thiếu
gì những trường hợp người buôn bán nhỏ lẻ, thậm chí hành nghề ve chai, bán
dạo vẫn có vàng để trả cho các chuyến vượt biên bán chính thức.
Giấy bạc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(Phát hành năm 1984)
===
Lần đổi tiền
thứ ba diễn ra vào ngày 4/9/1985 với việc phát hành tiền mới có mệnh giá 10 đồng, 20 đồng, 50
đồng. Như vậy, trong vòng
10 năm (1975-1985) Việt Nam đã có ba lần đổi tiền. Điểm nổi bật của
lần đổi tiền năm 1985 là 10 đồng tiền cũ đổi được 1 đồng tiền mới. Người dân
bình thường nhận thấy tiền của họ khi đổi sang tiền mới chỉ cần bớt một con
số không. Chẳng hạn, một tô phở trước khi đổi tiền có giá 1.000đ nay chỉ còn
100đ tiền mới.
Tuy nhiên, đối
với những chuyên gia kinh tế, thực tế phức tạp hơn những gì người bình thường
suy nghĩ. Cuộc đổi tiền năm 1985 đã khiến đồng tiền lưu hành tại Việt Nam vào
thời điểm đó bị giảm đi 10% trong khi đồng Việt Nam vẫn chưa ‘có khả năng
chuyển đổi’ (transferable) trên thị trường hối đoái quốc tế. Đồng tiền Việt Nam vẫn
là tiền ‘có khả năng tự do chuyển đổi thấp’, chưa trở thành đồng tiền
dùng trong thanh toán quốc tế.
Giấy bạc mệnh giá 500 đồng được phát hành năm 1987
Tháng 11/2009,
Chính phủ Việt Nam quyết định phá giá 5% đồng tiền Việt Nam,
đồng thời tăng lãi suất lên 8%. Chính sách này được xem như là hành động làm
căng thẳng thị trường tài chính Châu Á, vì các nền kinh tế trong vùng đang
tranh nhau tạo ưu thế với thị trường Âu Mỹ.
Ngày 11/2/2010,
Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam định lại mức tỷ giá bình quân liên ngân
hàng giữa tiền đồng Việt Nam và đôla Mỹ, qua đó, một đôla Mỹ ăn
18.544 đồng. Nếu so với mức tỷ giá 17.941 đồng một ngày trước đó, đồng tiền
Việt Nam bị giảm giá 3,4% so với đôla Mỹ. Ngày 28/2/2010, mức tỷ
giá ở thị trường chợ đen là 19.500 đồng.
Ngày 18/08/2010
Ngân hàng Nhà nước nâng tỷ giá từ mức 18.544 đồng/USD lên mức 18.932 đồng/USD
(tương đương tăng 388 đồng). Ngày 11/02/2011 Ngân hàng Nhà nước công bố quyết
định tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa USD với VND, từ 18.932 VND lên
20.693 VND (tăng 9,3%), cùng với đó là thu hẹp biên độ áp dụng cho tỷ giá của
các ngân hàng thương mại từ +/- 3% xuống còn +/- 1%. Tuy nhiên, đến ngày
19/02/2011 tỷ giá USD ở thị trường chợ đen là 22.300 đồng.
Những diễn biến
vừa nêu trên cho thấy sự bất ổn của đồng tiền Việt Nam. Đồng tiền hiện
đang lưu hành trên thị trường Việt Nam có mệnh giá cao nhất là 500.000 đồng,
nhiều người nghĩ một ngày nào đó sẽ xuất hiện tờ giấy bạc 1.000.000 đồng
nhưng không ai nghĩ Việt Nam sẽ soán ngôi ‘đơn vị tiền tệ thấp giá nhất’ của
Zimbabwe với mệnh giá 100 nghìn tỷ đô la.
Kỷ lục thế giới: giấy bạc 100 nghìn tỷ đô la của Zimbabwe
Về phần những
người bi quan, họ lại nghĩ ngay đến cuộc đổi tiền lần thứ 4 tại Việt Nam trong
tương lai!
|
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment