Việt
Nam với nhất nguyên và đa nguyên
Nguyễn Quang Duy
Gửi tới BBC từ Úc
GIẢI PHÓNG MIỀN NAM CHO AI
VÀ VÌ AI?
Cập nhật: 15:47 GMT -
thứ tư, 3 tháng 9, 2014
Ông Võ Văn Kiệt từng
đề nghị đổi 'tập trung dân chủ' thành 'dân chủ tập trung'
Sau 30 tháng 4 năm 1975,
những trại cải tạo, những khu kinh tế mới, những chiến dịch cải tạo xã hội…
cũng nằm trong sách lược biến miền Nam thành một xã hội nhất nguyên.
Nhưng hoạch định của
những người cộng sản đã không bao giờ đạt được.
Các bài liên quan
- Thủ tướng và ngọn cờ
dân chủ
- Bị khai trừ vì không
muốn Đảng chỉ đạo?
- ‘Đảng viên không còn
tha thiết CNXH’
Chủ đề liên quan
Hàng triệu người miền
Nam bỏ nước ra đi, những người ở lại vẫn tự xem mình có trình độ phát triển xã
hội và dân chủ cao hơn miền Bắc.
Người miền Nam theo cộng
sản quan sát xã hội miền Bắc bắt đầu phủ nhận chủ nghĩa Marx và con đường cộng
sản.
Người miền Bắc tự chuyển
biến tư tưởng khi tiếp xúc với xã hội đa nguyên miền Nam.
Ngay trong Bộ Chính Trị
đảng Cộng sản các tư tưởng đa nguyên chính trị cũng đã hình thành.
Ông Võ Văn Kiệt đặt vấn
đề cần chuyển “tập trung dân chủ” thành “dân chủ tập trung”, tôn trọng và bảo
vệ ý kiến của thiểu số, chấm dứt việc "đảng hóa" xã hội và sự lạm
quyền của Bộ Chính Trị.
Theo ông Kiệt mọi chính
sách thay vì từ Bộ Chính Trị đưa xuống, phải phát xuất từ Trung Ương Đảng hay
từ đa số đảng viên đưa lên. Khi đã có dân chủ trong đảng sẽ mở rộng dân chủ
ngòai dân.
Ông Trần Xuân Bách có
một tầm nhìn chính trị rõ hơn:
“Dân chủ không phải là
ban ơn, không phải là mở rộng dân chủ (mở rộng). Đó là quyền của dân, với tư
cách là người làm nên lịch sử, không phải là ban phát, do tấm lòng của người
lãnh đạo này hay người lãnh đạo kia. Thực chất của dân chủ hóa là khơi động trí
tuệ của toàn dân tộc để tháo gỡ khó khăn và đưa đất nước đi lên kịp thời đại.”
Ông Trần Xuân Bách cũng
cho rằng hai lãnh vực chính trị và kinh tế phải được phát triển nhịp nhàng,
không chân trước chân sau, không tấp tểnh đi một chân.
"Thực chất của dân
chủ hóa là khơi động trí tuệ của toàn dân tộc để tháo gỡ khó khăn và đưa đất
nước đi lên kịp thời đại"
Trần Xuân Bách
Tiếng kêu hai ông Võ Văn
Kiệt và Trần Xuân Bách là những tiếng kêu lẻ loi từ phía bên trên của thể chế
nhất nguyên đảng trị.
Đa Đảng hình thức
Trước năm 1986, đảng Dân
Chủ và đảng Xã Hội được đảng Cộng sản lập ra để tô điểm cho thể chế nhất
nguyên.
Đứng trước đổi mới kinh
tế và đòi hỏi đa nguyên, hai đảng này trở thành nỗi đe dọa cho giới cầm quyền
nên đều bị giải tán.
Tại Trung Quốc, ngoài
Đảng Cộng sản vẫn còn tám đảng hay tổ chức “chính trị”. Các tổ chức này không
giữ vai trò đối lập.
Như các tổ chức trong
Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, họ chỉ góp ý đường lối do Đảng Cộng sản đề ra.
Về đa đảng đối lập,
Giáo sư Nguyễn văn Bông (1929-1973) đối lập chính trị cần có ba đặc điểm:
Trước nhất, đối lập phải
có sự bất đồng về chính trị, có chiến lược và chính sách đối lập.
Thứ hai, đối lập chỉ có
khi nào sự bất đồng chính kiến mang tính cách tập thể và biểu hiện qua hành
động có tổ chức: chính đảng đối lập.
Thứ ba, đối lập phải
hoạt động trong vòng pháp luật. Các chính đảng dùng võ lực hay phải hoạt động
âm thầm trong bóng tối thì chỉ được xem là những hành động đối kháng.
Dựa trên ba đặc điểm vừa
nêu ra Giáo sư Bông giải thích:
“…đối lập phát sinh ở sự
thực hành chính trị và liên quan đến lịch trình biến chuyển của chế độ Đại
Nghị. Nói đến đối lập tức là nói đến cái gì ở ngoài đa số, ngoài chính phủ. Đối
lập là khía cạnh nghị viện của vấn đề…”.
"Chữ 'chúng ta' ông Sang dùng là để trao đổi
với các phe cánh trong đảng cầm quyền"
Còn về phe phái trong
Đảng Cộng sản, thì khi một đảng đã thâu tóm hết quyền lực và quyền lợi thì
người gia nhập đảng đa phần cũng chỉ vì lợi ích cá nhân.
Từ lợi ích cá nhân mới
sinh ra lợi ích nhóm tạo ra các phe cánh trong đảng.
Trong dịp 2 tháng 9 năm
nay, ông Trương Tấn Sang gởi một thông điệp nhìn nhận:
“Chúng ta không sợ bất
cứ một thế lực nào, dù là hung bạo nhất. Chúng ta chỉ sợ nhân dân mất niềm tin
vào Đảng, Nhà nước, chế độ ta.”
Chữ “chúng ta” ông Sang
dùng là để trao đổi với các phe cánh trong đảng cầm quyền.
Đại Hội 12 cận kề, thực
tế cho thấy các phe cánh chưa thể thu xếp lại quyền lực và quyền lợi.
Họ cũng chưa thể thống
nhất quan điểm và phương cách giải quyết nhiều vấn đề cả đối nội lẫn đối ngọai.
Vì thế họ mới tố nhau
phe lợi ích, phe bảo thủ, hay tự xưng phe cải cách, nhưng các phe đều cùng
chung mục đích là bảo vệ độc quyền đảng trị và chống lại diễn biến hòa bình.
Ngày 16 tháng 8 vừa qua,
ông Nguyễn Tấn Dũng đã nhắc nhở Lực lượng công an:
“Các thế lực thù địch,
phản động chưa hề từ bỏ âm mưu, hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam; ráo
riết thực hiện diễn biến hòa bình, triệt để lợi dụng xu thế toàn cầu hóa, dân
chủ hóa, hội nhập quốc tế để tác động, chuyển hóa nội bộ, hỗ trợ, kích động
chống phá nhằm gây mất ổn định chính trị, xã hội.”
Những tuyên bố, những
nghị quyết, những bài báo, những tài liệu chống diễn biến hòa bình, cho thấy
đây chính là nỗi quan tâm hàng đầu của những người cầm quyền Việt Nam.
Nhưng đó cũng là dấu
hiệu cho thấy đa nguyên chính trị có cơ hội bộc phát từ bên trong Đảng Cộng sản
và có thể sẽ dẫn đến thay đổi thể chế chính trị một cách hòa bình.
Phát triển xã hội đa
nguyên
Càng ngày Đảng Cộng sản
càng mất dần khả năng kiểm sóat các tổ chức dân sự, gồm cả các tổ chức do đảng
lập ra, các tổ chức bị bắt buộc tham gia Mặt Trận Tổ Quốc và tổ chức dân sự độc
lập.
"Khi thể chế nhất nguyên còn tồn tại, các tổ
chức chính trị, các tổ chức dân sự độc lập không thể xem là tổ chức hay lực
lượng đối lập"
Các tổ chức dân sự độc
lập là các tổ chức đang đấu tranh để giành lại những quyền tự do, như quyền tự
do tín ngưỡng, quyền tự do báo chí, quyền tự do nghiệp đoàn, quyền tự do chính
trị… những quyền cơ bản được Quốc Tế công nhận.
Các tổ chức dân sự độc
lập khác với các đảng chính trị có mục đích rõ ràng là đấu tranh giành quyền
lực với đảng cầm quyền cộng sản.
Khi thể chế nhất nguyên
còn tồn tại, các tổ chức chính trị, các tổ chức dân sự độc lập chỉ là những tổ
chức đấu tranh chính trị, không thể xem là tổ chức hay lực lượng đối lập.
Các tổ chức đấu tranh
chính trị đang đóng góp xây dựng ý thức dân chủ cho xã hội cũng như sẽ vận động
xã hội tham gia các sinh họat chính trị, tham gia bầu cử, tham gia ứng cử khi
thể chế đa nguyên đa đảng đã được hình thành.
Nếu ý thức dân chủ của
xã hội chưa đầy đủ, thể chế nhất nguyên cộng sản có thể sẽ được thay bằng một
thể chế nhất nguyên độc tài khác.
Vì thế vai trò của các
tổ chức đấu tranh chính trị vô cùng quan trọng.
Nói tóm lại đa nguyên chính trị là khởi đầu và
cũng là nền tảng cho tự do dân chủ.
"Đảng phải giải
trình về hội nghị Thành Đô'
Cập nhật: 13:31 GMT -
thứ năm, 4 tháng 9, 2014
Media Player
Chính quyền Việt Nam
phải giải trình cho người dân rõ về những gì mà họ đã ký kết với
Trung Quốc tại Hội nghị Thành Đô cách nay hơn 20 năm, một số vị tướng
tá về hưu trong quân đội và công an Việt Nam vừa lên tiếng.
Hiện có những đồn đoán
về nội dung Hội nghị Thành Đô liên quan tới chủ quyền và được đăng tải trên
truyền thông Trung Quốc.
Trao đổi với BBC, Đại
tá Bùi Văn Bồng, người từng là cán bộ cao cấp trong báo Quân đội
nhân dân, nói rằng chính vì phía Trung Quốc có thông tin như thế nên
chính quyền có trách nhiệm phải giải thích với người dân.
“Chủ quyền đất nước
là của toàn dân chứ không phải của các nhà lãnh đạo Đảng,” ông nói,
“Cho nên với cương vị lãnh đạo Đảng mà quyết định vận mệnh, lãnh
thổ quốc gia là sai hoàn toàn.”
Tuy nhiên ông nói ông
cần phải có căn cứ rõ ràng mới tin được thông tin do truyền thông
Trung Quốc đưa ra là thật hay giả.
“Hội nghị Thành Đô
vẫn đang là một tấm màn bí mật,” ông nhận định.
“Từ khi hội nghị
Thành Đô xong, hầu như đường lối đổi mới của Đảng xoay chuyển hẳn.
Trong 24 năm vai trò của Đảng ngày càng yếu, uy tín kém đi.”
Về kiến nghị xác
định rõ ràng bạn thù, ông Bồng nói ông không rõ quân đội Việt Nam
hiện nay xác định bạn thù như thế nào nhưng bản thân ông cho rằng
‘Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp của Việt Nam vì họ luôn lăm le xâm
lược Việt Nam’.
“Pháp với Mỹ là kẻ
thù của thời loạn, của hoàn cảnh thế giới nằm trong kế hoạch của
các nước tư bản đế quốc một thời,” ông nói thêm.
'Lãnh đạo VN cần biết rõ
bạn và thù'
Cập nhật: 13:23 GMT -
thứ năm, 4 tháng 9, 2014
Kiến nghị nói Việt
Nam nên kết bạn với các nước phương Tây từng là cựu thù
Chính quyền Việt Nam
phải giải trình cho người dân rõ về những gì mà họ đã ký kết với
Trung Quốc tại Hội nghị Thành Đô cách nay hơn 20 năm, một số vị tướng
tá về hưu trong quân đội và công an Việt Nam vừa lên tiếng.
Đây là một trong bốn
điểm mà 20 vị tướng tá ký tên vào bản kiến nghị đề ngày 2/9 gửi
đến Chủ nước Trương Tấn Sang và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu.
Các bài liên quan
- Đảng viên lão thành
kêu gọi thoát Trung
- Vận động thành lập 'Văn
đoàn Độc lập VN'
- Tiến sỹ Hà Vũ ‘sẽ
tiếp tục tranh đấu’
Chủ đề liên quan
Trao đổi với BBC, Đại
tá Bùi Văn Bồng, người từng là cán bộ cao cấp trong báo Quân đội
nhân dân, đã xác nhận tính xác thực của bản kiến nghị này.
Ông Bồng cũng bình luận
về những đồn đoán liên quan tới nội dung thỏa thuận giữa hai bên từ Hội nghị
Thành Đô.
“Chủ quyền đất nước
là của toàn dân chứ không phải của các nhà lãnh đạo Đảng,” ông nói,
“Cho nên với cương vị lãnh đạo Đảng mà quyết định vận mệnh, lãnh
thổ quốc gia là sai hoàn toàn.”
“Hội nghị Thành Đô
vẫn đang là một tấm màn bí mật,” ông nhận định.
“Từ khi hội nghị Thành
Đô xong, hầu như đường lối đổi mới của Đảng xoay chuyển hẳn. Trong 24
năm vai trò của Đảng ngày càng yếu, uy tín kém đi.”
Kiến nghị được đưa ra
vào lúc này, theo ông Bồng, là nhân lúc Đảng đang chuẩn bị văn kiện
cho Đại hội 12 để đóng góp ý kiến cho Đảng.
Ngoài điểm về Hội
nghị Thành Đô, các vị cựu tướng tá còn thúc giục giới lãnh đạo cam kết
cho điều họ gọi là "không được dùng quân đội và công an đàn áp nhân
dân, ghi nhận thỏa đáng sự hy sinh của các thương binhh liệt sỹ trong
cuộc chiến năm 1979 với Trung Quốc, và xác định chính xác bạn và
thù."
“Chúng tôi (những
người ký kiến nghị) muốn có sự đổi mới trong các lãnh đạo sao cho
có dân chủ, có lợi cho dân và đúng với bản chất truyền thống của
quân đội và công an,” ông Bồng nói.
‘Kẻ thù truyền kiếp’
Quân đội Việt Nam
phải trung thành với Đảng theo quy định Hiến pháp
Ông giải thích là
những vấn đề nêu lên trong các kiến nghị là ‘bức xúc từ lâu lắm
rồi’, nhất là việc công an và quân đội được trưng dụng để ‘đàn áp
dân’ trong các vụ cưỡng chế thu hồi đất.
Về kiến nghị xác
định rõ ràng bạn thù, ông Bồng nói ông không rõ quân đội Việt Nam
hiện nay xác định bạn thù như thế nào nhưng bản thân ông cho rằng
‘Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp của Việt Nam vì họ luôn lăm le xâm
lược Việt Nam’.
“Pháp với Mỹ là kẻ
thù của thời loạn, của hoàn cảnh thế giới nằm trong kế hoạch của
các nước tư bản đế quốc một thời,” ông nói thêm.
Hội nghị Thành Đô 1990
Tổng Bí thư Giang Trạch
Dân và Thủ tướng Lý Bằng hoan nghênh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười thăm Thành Đô, Tứ Xuyên từ ngày 3 đến ngày 4/9 năm
1990, họ cũng hoan nghênh Cố vấn Trung ương Đảng Phạm Văn Đồng cùng đi.
Bản kiến nghị thu
hút được 20 chữ ký của các tướng tá về hưu, đứng đầu là Trung
tướng Lê Hữu Đức, cựu cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu.
Ngoài ra còn có năm
vị thiếu tướng quân đội khác cũng tham gia ký tên, bao gồm các ông
Trần Minh Đức, cựu phó tư lệnh Hậu cần ở Thừa Thiên-Huế, Huỳnh Đắc
Hương, cựu tư lệnh kiêm chính ủy Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào, Lê
Duy Mật, cựu tư lệnh kiêm phó tham mưu trưởng Quân khu 2, Bùi Văn Quỳ,
cựu phó tư lệnh chính trị Bộ đội Tăng-thiết giáp và Nguyễn Trọng
Vĩnh, cựu chính ủy Quân khu 4, cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc.
Đại tá Bồng nói
rằng 20 chữ ký này ‘chỉ là sự tập hợp điển hình’ bởi vì các ông
‘không có thời gian kêu gọi vận động mọi người’.
“Trong tâm tư của các
cựu chiến binh thì họ ủng hộ đông lắm nhưng khi lên tiếng ủng hộ thì
họ sợ sệt thế này thế kia. Có khi bị cho là suy thoái tư tưởng,” ông
Bồng nói.
Xem thêm tư liệu không phải
của BBC về 'BấmHội nghị Thành Đô 1990'.
Hiến pháp: của ai, do
ai, vì ai?
TS Đoàn Xuân Lộc
Gửi cho BBC từ London
Cập nhật: 13:42 GMT -
thứ bảy, 9 tháng 11, 2013
Đa số đại biểu Quốc hội
Việt Nam là đảng viên đảng cộng sản
Năm 2009, Trung tâm
Thông tin, Thư viện và Nghiên cứu Khoa học, Văn phòng Quốc hội Việt nam đã biên
soạn cuốn sách: ‘Tuyển tập Hiến pháp của một số nước trên thế giới’.
Năm bản hiến pháp được
chọn biên dịch và giới thiệu là của Mỹ, Nga, Nhật, Pháp và Trung Quốc.
Các bài liên quan
- Đại biểu Quốc hội lo
lắng về Hiến pháp
- 'Đảng chưa ra khỏi
cái bóng của mình'
- 'Hiến pháp và quan tài'
Chủ đề liên quan
Và ba năm sau đó, Trung
tâm này lại giới thiệu Tập 2 của Tuyển tập Hiến pháp. Bốn Hiến pháp được chọn
lần này là của Ba Lan, Hàn Quốc, Ý và Tây Ban Nha.
Thử so sánh Bản dự thảo
sửa đổi Hiến pháp 1992 (hay Hiến pháp sửa đổi) vừa được trình Quốc hội xem xét
và sẽ thông qua với Hiến pháp của Mỹ, Pháp, Nhật và Hàn Quốc – bốn nước dân chủ
và phát triển – để xem có gì khác biệt.
Theo Chỉ số Dân chủ của
The Economist Intelligence Unit (Anh), năm 2012 Hàn Quốc, Mỹ và Nhật là những
nước ‘dân chủ toàn diện’, trong khi đó Pháp thuộc vào nhóm các nước ‘dân chủ
khiếm khuyết’. Còn Chỉ số Tự do của Freedom House năm 2013 đều xếp bốn nước này
vào những nước tự do. Do do, có thể nói bốn nước này là những quốc gia dân chủ
và tự do.
Về kinh tế, Mỹ, Pháp,
Nhật và Hàn quốc đều là những nước giàu, phát triển. Ba nước đầu thuộc nhóm G8
và Hàn Quốc là thành viên của nhóm G20. Cũng nên nhắc lại rằng, sau Chiến tranh
thế giới thứ nhất, Nhật là một nước bại trận với một nền kinh tế kiệt quệ. Nam
Hàn lúc ấy cũng không phát triển gì, thậm chí được cho rằng còn thua kém miền
Nam Việt Nam trong những năm 1950.
Về Hiến pháp, ngoại trừ
Mỹ có Hiến pháp lâu đời – được soạn thảo vào năm 1787 và có hiệu lực từ năm
1789 – Hiến pháp hiện hành của Nhật, Hàn Quốc và Pháp tương đối mới.
Hiến pháp Nhật được ban
hành năm 1946 và Hiến pháp Hàn Quốc được thông qua năm 1948.
Riêng Hiến pháp Hàn
quốc, từ năm 1948 đến giờ đã được sửa đổi đến tám lần, với lần sửa cuối cùng
vào năm 1987. Còn Hiến pháp hiện tại của Pháp, thuộc nền Cộng hòa thứ năm, được
thông qua vào năm 1958.
'Thuộc về nhân dân'
"Cả bốn Hiến pháp
cũng không nêu cụ thể tên một đảng phái chính trị hay một nhân vật lịch sử nào,
hoặc quy định một đảng phái, giai cấp nào đó là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và
xã hội"
TS Đoàn Xuân Lộc
Dù ra đời vào những thời
điểm khác nhau, trong những bối cảnh khác nhau và nội dung cũng có nhiều điểm
khác nhau, Hiến pháp của bốn quốc gia này đều là những Hiến pháp tiến bộ, dân
chủ, được soạn thảo (và sửa đổi) nhằm bảo đảm quyền lợi của người dân và giúp
đất nước phát triển, phồn thịnh.
Lướt qua ngôn từ, nội
dung hay mục đích của bốn bản Hiến pháp này có thể thấy rõ điều đó.
Lời nói đầu của Hiến
pháp Mỹ – một Hiến pháp nổi tiếng, được nhiều quốc gia tham khảo, tiếp thu vì
rất khoa học, tiến bộ và nhân bản – thật ngắn gọn nhưng nêu rõ năm mục đích của
Hiến pháp, trong đó có việc xây dựng một Liên bang hoàn hảo hơn, thiết lập công
lý, thúc đẩy sự thịnh vượng và giữ vững nền tự do.
Còn Lời nói đầu của Hiến
pháp Pháp nêu rõ rằng nhân dân Pháp ‘thiết tha gắn bó với các quyền con người
và các nguyên tắc chủ quyền thuộc về nhân dân như đã được quy định trong Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền 1789, được khẳng định và bổ sung trong Lời nói đầu
của Hiến pháp năm 1946’.
Tương tự, trong Lời nói
đầu của mình, Hiến pháp Nhật cũng ‘khẳng định chủ quyền thuộc về nhân dân ...
Chính phủ là nơi nhân dân trao quyền lực của mình, thay mặt cho nhân dân và hoạt
động vì lợi ích của nhân dân. Đó là nguyên tắc cơ bản, là nền tảng của bản Hiến
pháp này’.
Điều 1 của Hiến pháp Hàn
quốc cũng ghi rõ ‘chủ quyền Cộng hòa Hàn Quốc thuộc về nhân dân, và tất cả các
quyền lực nhà nước phải được bắt nguồn từ nhân dân’.
Nguyên tắc ‘chủ quyền
thuộc về nhân dân’ – một nguyên tắc nền tảng của bốn Hiến pháp trên – còn được
thể hiện qua việc Lời mở đầu của bốn Hiến pháp ấy đều được bắt đầu bằng: ‘Chúng
ta, nhân dân ...’, hoặc ‘Chúng ta, những người dân ...’, hoặc ‘Chúng tôi, nhân
dân ...’ hay ‘Nhân dân ...’.
Điều này cũng chứng tỏ
rằng quyền hiến định ở bốn quốc gia đó hoàn toàn thuộc về nhân dân.
Hơn nữa, không một Hiến
pháp nào trong bốn Hiến pháp ấy lấy một hệ tư tưởng, chủ nghĩa nào đó làm ‘ánh
sáng’ chỉ đường hay làm tư tưởng nền tảng cho mình. Cả bốn Hiến pháp cũng không
nêu cụ thể tên một đảng phái chính trị hay một nhân vật lịch sử nào, hoặc quy
định một đảng phái, giai cấp nào đó là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Trong bốn nước này, chỉ
có Nhật là một nước có chế độ quân chủ lập hiến. Tuy vậy, Hiến pháp Nhật hiến
định rõ Nhật Hoàng chỉ ‘là biểu tượng của quốc gia và cộng đồng dân tộc’ và ‘vị
trí của Hoàng đế xuất phát từ ý chí nguyện vọng của người dân’. Hơn nữa, ‘mọi
hoạt động của Hoàng đế liên quan đến quốc gia phải tham khảo ý kiến và được Nội
các thông qua’.
Một điểm khác đáng lưu ý
của bốn Hiến pháp này là chúng được xây dựng trên nguyên tắc – hay theo mô hình
– tam quyền phân lập. Nguyên tắc phân quyền này nhằm giúp ba nhánh có thể kiểm,
giám sát lẫn nhau, tránh tình trạng một cơ quan hay cá nhân nào nắm quyền lực
tuyệt đối trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Việc bộ máy
Nhà nước được tổ chức theo mô hình này cũng là một cách để giúp các cơ quan Nhà
nước thực sự hoạt động vì lợi ích của nhân dân.
'Hiến pháp của Đảng?'
Hiến pháp sửa đổi vẫn
khẳng định Đảng Cộng sản VN là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội
Nếu bốn Hiến pháp trên
không nêu tên một đảng phái hay một cá nhân nào, Hiến pháp sửa đổi của Việt Nam
nhắc đến Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCS), Chủ tịch Hồ Chí Minh và những ‘gian
khổ’, ‘hy sinh’, ‘thắng lợi’, ‘thành tựu’ của ĐCS và của Hồ Chí Minh ngay trong
Lời nói đầu.
Một điểm khác biệt khác
nữa là Lời nói đầu của Hiến pháp sửa đổi này lại trịnh trọng nhắc đến chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh – được coi là ‘ánh sáng’ chỉ đường hay ‘tư
tưởng nền tảng’ cho Việt Nam.
Lời nói đầu của một Hiến
pháp thường được coi là điểm cốt lõi của Hiến pháp ấy vì nó diễn tả những
nguyên tắc, bản chất, mục đích chính yếu của Hiến pháp đó. Nhận định này rất đúng
với bốn bản Hiến pháp trên và cũng đúng với Hiến pháp sửa đổi của Việt Nam.
Dù Điều 2 của Hiến pháp
sửa đổi quy định ‘Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân’, Điều 4 lại nêu
rõ ‘Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội’.
Điều 4 này còn khẳng
định ĐCS là ‘đội tiên phong ... của dân tộc Việt Nam’ và ‘đại biểu trung thành
lợi ích của ... cả dân tộc’. Đây là một điều gây nhiều tranh cãi và phản đối
trong quá trình góp ý sửa đổi Hiến pháp. Chẳng hạn, kiến nghị của Nhóm 72 nhân
sỹ, trí thức hay góp ý của Hội đồng Giám mục Việt Nam đã nêu lên những phi lý,
bất cập của quy định này.
Quy định đó được coi là
nghịch lý vì chỉ với khoảng hơn ba triệu đảng viên – lại lấy chủ nghĩa
Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và không được bầu lên qua một cuộc bầu cử nào –
ĐCS khó có thể – nếu không muốn nói là không thể – được xem là ‘đại biểu trung
thành lợi ích ... của cả dân tộc’ và ‘là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội’
trong một đất nước có đến 90 triệu dân, thuộc nhiều tôn giáo, tín ngưỡng khác
nhau.
Những quy định tương tự
như thế đã không được ghi trong bốn Hiến pháp trên và chắc cũng không thể được
đưa vào trong bất cứ Hiến pháp của một nước dân chủ nào.
Lời nói đầu của Hiến
pháp Ba Lan có đề cập đến di sản Kitô giáo. Nhưng di sản ấy được nhắc đến vì từ
bao đời này đa số người dân Ba Lan là Công giáo. Hơn nữa, Lời nói đầu ấy cũng
đề cập đến những giá trị phổ quát phát sinh từ những nguồn gốc khác.
'Sao chép Trung Quốc'
"Lời nói đầu...
Hiến pháp Trung Quốc cũng liệt kê vô số những hy sinh, công lao, thắng lợi của
Đảng CSTQ, của Mao Trạch Đông và khẳng định TQ ‘sẽ tiếp tục dưới sự lãnh đạo
của ĐCS dưới chỉ đạo của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông’"
Vì hiến định Đảng Cộng
sản là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, toàn bộ bộ máy Nhà nước – từ Quốc
hội, Chính phủ đến Tòa án – hiển nhiên đều phải chịu sự điều khiển, lãnh đạo
gián tiếp hay trực tiếp của ĐCS. Đây cũng là một điểm khác biệt lớn nữa giữa
Hiến pháp sửa đổi của Việt Nam và Hiến pháp của các nước dân chủ.
Và cũng vì trao cho Đảng
Cộng sản quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lại chọn chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, phải chăng bản Hiến pháp sửa đổi này
vẫn là một văn bản hiến pháp ‘của’, ‘do’ và ‘vì’ Đảng Cộng sản Việt nam hơn là
‘của’, ‘do’ và ‘vì’ Nhân dân Việt Nam?
Còn có nhiều điểm khác
biệt lớn nữa giữa Hiến pháp Mỹ, Pháp, Nhật và Hàn Quốc và Hiến pháp sửa đổi của
Việt Nam.
Hiến pháp Việt Nam hiện
hành có rất nhiều điểm tương đồng với Bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp của Việt
Nam và Hiến pháp hiện hành của Trung Quốc, có hiệu lực từ năm 1982.
Chẳng hạn, Lời nói đầu
dài đến bốn trang của Hiến pháp Trung Quốc cũng liệt kê vô số những hy sinh,
công lao, thắng lợi của Đảng Cộng sản Trung quốc, của Mao Trạch Đông và khẳng
định Trung Quốc ‘sẽ tiếp tục dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, với sự chỉ đạo
của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông’.
Và vì vậy, dù đã trở
thành cường quốc kinh tế thứ hai của thế giới (tính theo sản lượng quốc gia),
giống như Việt Nam, Trung Quốc vẫn bị The Economist Intelligence Unit liệt vào
các nước có chế độ độc đoán khi xếp nước này thứ 142 và Việt Nam thứ 144 trong
số 167 nước vào năm 2012.
Còn theo Freedom House
năm 2013, cả Việt Nam và Trung Quốc đều không có tự do.
Daniel Webster
(1782-1852), một Thượng Nghị sỹ và từng là Bộ trưởng Ngoại giao của Mỹ, đã có
câu nói nổi tiếng vào năm 1837: ‘One country, one constitution, one destiny’
(tạm dịch là ‘một đất nước, một hiến pháp, một định mệnh’).
Câu nói ấy có thể đúng
vì, như thực tế cho thấy, phần lớn bản chất của Hiến pháp của một quốc gia sẽ
quyết định số phận của quốc gia ấy.
Nhờ có một bản Hiến pháp
tiến bộ, văn minh và khoa học nước Mỹ thành đã trở thành một quốc gia giàu
mạnh, dân chủ, tự do. Từ một quốc gia bại trận, Nhật đã trở thành một cường
quốc kinh tế. So với Bắc Hàn, Nam Hàn vượt trội trên tất cả mọi mặt. Có được
những thành công như vậy một phần – nếu không muốn nói là phần lớn – cũng vì
hai nước này biết xây dựng Hiến pháp của mình trên nền tảng dân chủ, tự do.
Đúng vậy, nếu có một
Hiến pháp thực sự khoa học, tiến bộ và nhân bản, chắc chắn quốc gia ấy sớm hay
muộn sẽ tiến tới giàu mạnh, tự do, dân chủ.
'Có thực tham khảo?'
Quốc hội Việt Nam dự
kiến thông qua hiến pháp sửa đổi trong vòng 3 tuần tới
Khi soạn thảo Tuyển tập
Hiến pháp, Trung tâm Thông tin, Thư viện và Nghiên cứu Khoa học muốn cung cấp
‘một tài liệu tham khảo bổ ích cho các độc giả, nhất là các đại biểu Quốc hội
phục vụ cho quá trình thực hiện các nhiệm vụ của mình’.
Đặc biệt, Tập 2 được
biên soạn chủ yếu nhằm giúp các các đại biểu Quốc hội, các nhà nghiên cứu và
độc giả có một tài liệu để tham khảo trong quá trình nghiên cứu và sửa đổi Hiến
pháp 1992.
Câu hỏi đặt ra là có bao
nhiêu đại biểu Quốc hội và bao nhiều người trong Ban soạn thảo Bản sửa đổi Hiến
pháp hay trong giới lãnh đạo Việt Nam nói chung thực sự tham khảo các Hiến pháp
ấy và đặc biệt dám mạnh dạn tiếp nhận những điểm tiến bộ của chúng?
Xem ra con số đó không
nhiều vì hầu như những điểm quan trọng – chẳng hạn Điều 4 hay quy định về sở
hữu đất đai – được giới nhân sỹ, trí thức và người dân góp ý, không được đưa ra
thảo luận một cách nghiêm túc hay hoàn toàn bị bác bỏ.
Đó cũng là điều làm nhiều
người thất vọng và – khác với thời gian đầu – không còn mặn mà với việc Hiến
pháp sửa đổi được trình Quốc hội xem xét và thông qua.
Và đâu đó cũng có người
cho rằng với tình hình chính trị hiện nay không thể trông chờ vào những người
cộng sản tự nguyện xây dựng một Hiến pháp phục vụ lợi ích của toàn dân tộc, mà
phải hoàn toàn trông chờ vào người dân Việt Nam. Cũng theo ý kiến này để có một
Hiến pháp như vậy phải chờ đến lúc người dân hiểu biết quyền lợi của mình và
dám đứng lên đòi hỏi quyền lợi ấy và đó là một tiến trình rất xa.
Nếu vậy, Việt Nam vẫn
còn phải chờ. Có điều thế giới luôn thay đổi, thay đổi rất nhanh và không ai
chờ mình. Nếu giới lãnh đạo và người dân Việt Nam không nắm bắt cơ hội và xây
dựng một Hiến pháp như thế lúc này thì Việt Nam vẫn phải chờ và tiếp tục tụt
hậu
Dân chủ, hòa giải, giải
phóng
Tiến sĩ Jonathan London
Gửi cho BBC Tiếng Việt
từ Hong Kong
Cập nhật: 13:22
GMT - thứ tư, 30 tháng 4, 2014
Lịch sử xã hội không bao
giờ mất đi sự quan trọng của nó mà lại không mất đi sự phức tạp. Muốn hiểu tình
trạng của một xã hội đương đại bắt buộc phải hiểu một cách đầy đủ và sắc thái
về con đường mà xã hội đó đã đi từ trước đến nay. Muốn đối phó với những thách
thức lớn của hôm nay phải hiểu một cách sâu hơn về nguồn gốc của những thách
thức đó.
Mặt khác, năng lực của
chúng ta để đề cập những thách thức của hôm nay luôn luôn tồn tại trong vòng
những hạn chế về thể chế và những cách suy nghĩ do chính lịch sử xã hội tạo ra.
Hơn nữa, trong bất cứ xã hội nào luôn luôn có những thành phần muốn giữ hiện
trạng của hôm nay chính vì họ được hưởng quyền lợi của hiện trạng đó.
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Trong dịp ngày 30 tháng
4 năm 2014 tôi xin trân trọng đề nghị để hòa giải dân tộc, nhân dân Việt Nam ở
hai bên phải đối mặt lịch sử theo một cách mới. Phải có đủ dũng cảm để thực
hiện những bước đi cho đến nay vẫn chưa thực hiện được. Phải nhận ra rằng giải
phóng thực sự cho toàn quốc Việt Nam sẽ chỉ có nếu toàn dân Việt Nam thực sự
thống nhất về một số nguyên tắc thiết yếu do chính người dân Việt Nam và mọi
người dân Việt Nam quyết định hay có sự ưng thuận thực sự của họ.
Trong 39 năm qua, đặc biệt
là từ đầu thập kỷ 90, người dân Việt Nam ở khắp nơi (kể cả ở ngoài nước) đã
thấy những thay đổi sâu sắc trong xã hội của đất nước mình. Từ một mô hình kế
hoạch tập trung Việt Nam đã chuyển sang một mô hình dựa vào kinh tế thị trường.
Từ một nước đói nghèo, Việt Nam đã lên đường công nghiệp hóa.
Rõ ràng sự phát triển
của đất nước có nhiều yếu tố rất hứa hẹn bên cạnh những thách thức rõ nét. Vấn
đề hòa giải là một trong những thách thức lớn đó. Cách trả lời câu hỏi này hoàn
toàn phù thuộc vào quan điểm của mọi người đối với một câu hỏi lớn hơn nữa:
Chúng ta muốn có một Việt Nam như thế nào?
Những lý do để ủng hộ
một quá trình hòa giải ở Việt Nam được nói đến nhiều nhất chính là để mở rộng
điều kiện của mọi người tham gia một cách tích cực vào sự phát triển của đất
nước. Tuy nhiên sự thực rằng chúng ta vẫn đang bàn, tranh cãi, và suy ngẫm về
hòa giải ở Việt Nam sau gần 40 năm kể từ ngày 30/4/1975 chứng tỏ rằng cách tiếp
cận vấn đề hòa giải đến nay vẫn còn nông cạn và hoàn toàn chưa được.
Muốn có một quá trình
hòa giải thực sự phải cam kết nỗ lực để đầy mạnh một “xã hội mở,” một “xã hội
bao gồm” mà trong đó ai cũng đều có cơ hội để tham gia và không có việc bị loại
trừ vì tư duy hay những tin tưởng của mình. Phải có những thể chế và hành vi
dân chủ như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nêu trong thông điệp đầu năm.
Kinh nghiệm quốc tế cho
thấy vấn đề hòa giải chưa bao giờ là một chuyện đơn giản và không thể diễn ra
theo hướng một chiều. Muốn hòa giải phải có đủ dũng cảm chính trị để tưởng
tượng và đấu tranh cho một tương lai khác hẳn với hiện nay.
Có ai dám tưởng tượng
rằng chính phủ Việt Nam và Đảng Cộng sản sẽ gửi lời xin lỗi chính thức tới hàng
triệu người ở bên thua cuộc bị xúc phạm hay phân biệt đối xử trong nhiều năm
trong thời hậu chiến? (Có người bảo tôi chuyện đó không bao giờ có! Chưa chắc!
Có ai dám tưởng tượng Ủy Ban Sự Thật và Hòa Giải ở Nam Phi? )
Có ai dám tưởng tượng
rằng chính phủ Việt Nam sẽ công nhận những bà mẹ (hay bà má) mất con cái trong
chiến tranh ở bên thua cuộc cũng là những bà má anh hùng (nếu nghĩ về quá khứ
vì nhiều thập kỷ chiến tranh của Việt Nam là một bi kịch lớn cho cả nước, cả
dân tộc), và sẽ chu cấp cho họ một khoản tiền hàng tháng để công nhận cuộc
chiến tranh của ngày xưa là một bi kịch cho toàn dân? (Trước khi loại trừ khả
năng xin cho biết đã và đang có những nỗ lực ở một số cộng đồng ở miền nam Việt
Nam để đề cập chính vấn đề này).
Có ai ở bên thua cuộc
chấp nhận dành thời gian để chia sẻ những bước đầu họ cần làm trong một quá
trình hòa giải? Tham gia những bàn tròn trên TV về hòa giải? (YouTube còn hoàn
toàn miễn phí.)
Có ai ở cả hai bên thành
lập một tạp chí do người đại diện cho các bên cùng biên soạn để đề cập những
vấn đề phải đề cập? (Lập một trang blog có gì phức tạp đâu!)
Bao giờ hết hình ảnh
người Việt ở Mỹ phản đối chính quyền ở Việt Nam?
Có ai dám thành lập một
quỹ chu cấp hòa giải hàng tháng? (Có quỹ Hoàng Sa rồi và nỗ lực đó có vẻ khá
thành công)
Có ai dám tưởng tượng sẽ
có một lá cờ hòa giải mà những người ủng hộ hòa giải đều có thể treo trước nhà
trong những năm tới để bày tỏ tình yêu nước và người anh chị em Việt Nam? (Có
bao nhiêu người Việt Nam thật có tài về nghệ thuật, cần chờ gì nữa?)
Có ai trong Đảng Cộng
sản Việt Nam dám nghĩ đến một cách công khai những cải cách chính trị mà có thể
mang lại dân chủ thực sự ở Việt Nam? (Ông Nguyễn Tấn Dũng đã phát biểu rất hay
rồi, dù chưa thấy bước quyết định nào. Vì sao?)
Nếu câu trả lời là không
và những đề nghị này là hoàn toàn vô lý và không khả thi thì chúng ta không nên
nói về hòa giải nữa. Hãy để cho những vết thương cứ mãi mãi không lành, duy trì
một Việt Nam bất hòa muôn năm. Một kết quả đáng buồn và đáng tiếc.
Tôi hiểu rằng đã qua một
năm mà Quốc Hội Việt Nam (tức Đảng Cộng Sản Việt Nam) vẫn quyết định giữ nguyên
hiện trạng và vì thế tâm trạng trong và ngoài nước đối với vấn đề hòa giải thì
rõ ràng điều này là không được tốt lắm. Thậm chí có người đã khuyên tôi đừng
nói đến hòa giải nữa vì đau quá.
Thuyết định mệnh không
bao giờ là một con đường hứa hẹn. Mới hôm qua có một cựu bộ trưởng tuyên bố xã
hội dân sự phải được chấp nhận và bảo vệ. Đó là một bước đầu hết sức hứa hẹn.
Vì không có xã hội dân sự thì không thể nào có một quá trình hòa giải thực sự.
Phải hiểu rằng xã hội dân sự của Việt Nam là phức tạp. Nó không chỉ bao gồm
những người ngoài bộ máy, mà còn có nhiều người có chân trong và ngoài bộ máy.
Những người mà có đầu mà chưa thấy miệng vì những hạn chế và rủi ro cụ thể của
họ.
Lịch sử không bao giờ quyết
định tương lai. Nhưng những điều kiện của hôm nay – từ vật chất và thể chế cho
đến cách suy nghĩ của chúng ta đều là sản phẩm của những quá trình lịch sử.
”Hội chứng chấn thương tâm lý” (PTSD) không chỉ xảy ra với bên thua cuộc mà là
ở cả hai bên, từ những người dân thường đến những lãnh đạo các cấp.
Đó là một sự thật nước
Việt Nam đã phải chịu đựng gần 40 năm trời nhưng vẫn chưa được công nhận. Những
dấu hiệu của hội chứng này không chỉ xuất hiện ở khía cạnh tâm lý cá nhân mà về
cả hành vi chính trị. Nhưng, khác so với rối loạn stress sau sang chấn thường
loại, trường hợp của Việt Nam bao gồm cả xã hội, điều này đã và đang vẫn còn
ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của đất nước.
Đã gần 40 năm rồi. Người
dân Việt Nam muốn tạo điều kiện để mọi người tham gia một cách tích cực vào sự
phát triển của đất nước, người Việt Nam phải nỗ lực để thực hiện một quá trình
hòa giải cụ thể, không chỉ nói từ hòa giải.
"Tôi nghĩ rằng muốn hòa giải thì phải có dân chủ, dù dân chủ đó
phải do chính người dân tạo ra. Tôi nghĩ rằng xã hội dân sự đang phát triển ở
Việt Nam là lực lượng cần thiết để đạt được một quá trình hòa giải thực sự. "
Khác với đất nước Triều
Tiên, Việt Nam không còn bị chia cắt nữa. Nhưng cũng khác so với Hàn Quốc hay
Đài Loan, toàn dân Việt Nam thực sự chưa được thống nhất đối với những giá trị
chính trị và dân sự thiết yếu. Chỉ khi mọi người dân Việt Nam từ mọi phía và
mọi quan điểm chính trị đều thống nhất, như thế thì mới có giải phóng thực sự ở
Việt Nam.
Có không ít người bảo
tôi đặt quá nhiều niềm tin vào Đảng Cộng sản một cách thái quá. Họ bảo: “Khi mà
những cuộc biểu tình ôn hòa về vấn đề cướp đất của nông dân, vẫn bị trấn áp một
cách thô bạo. Những người bất đồng chính kiến vẫn bị bỏ tù, thì làm sao có hòa
giải được?” Vâng, ai đã đọc những bài blog của tôi đều biết tôi đồng ý.
Thực sự tôi nghĩ gì về hòa
giải ở Việt Nam? Tôi nghĩ rằng muốn hòa giải thì phải có dân chủ, dù dân chủ đó
phải do chính người dân tạo ra. Tôi nghĩ rằng xã hội dân sự đang phát triển ở
Việt Nam là lực lượng cần thiết để đạt được một quá trình hòa giải thực sự. Vì
muốn hòa giải thì sẽ phải có sự tham gia của mọi người ở đủ các bên. Và tất
nhiên, nếu muốn hòa giải thì nhân quyền sẽ phải được bảo vệ và thúc đẩy từ mọi
phía. Đó chỉ là những ý kiến cá nhân của tôi.Sau cùng, để có một quá trình hòa
giải và hòa hợp người dân Việt Nam sẽ cần phải có những hành động cụ thể.
Các bạn thân mến, khi viết
những bài blog, một khó khăn tôi luôn luôn phải đối phó xuất phát từ việc phải
viết cho nhiều đối tượng độc giả và nhiều người trong số họ có khả năng sẽ
không đồng ý với nhau. Một dân tộc còn nhiều bất hòa chưa được giải quyết. Tôi
biết khi viết về chính trị mình sẽ phải “khéo léo” một chút. Về mặt đó chắc là
tôi chưa hoàn thiện. Tôi muốn tiếp tục làm việc ở Việt Nam và đóng một vai trò
có tính xây dựng thông qua nghiên cứu và phân tích chính sách. Những bài viết
như thế này cũng có chủ định xây dựng mà thôi….
Tôi không muốn mình sẽ phải
viết một bài như thế này nữa vào năm sau, đúng dịp 40 năm. 40 năm là đã quá lâu
rồi, đúng không ạ? Chỉ khi có hòa giải thực sự Việt Nam mới được giải phóng,
các bạn có đồng ý với tôi không?
Tác giả là giáo sư người Mỹ
đang dạy ở Đại học Thành Thị Hong Kong. Ông đã nghiên cứu về Việt Nam từ đầu
thập niên 1990 về những vấn đề chính trị xã hội và kinh tế, và đặc biệt quan
tâm những lĩnh vực giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội. Tác giả cho biết đây là bản
"dài hơn và có nội dung tranh cãi hơn" bản được đăng ở báo Lao Động
tại Việt Nam hôm 29/4.
Blogger VN thách thức
chế độ độc đảng
Cập nhật: 10:25
GMT - thứ tư, 21 tháng 8, 2013
Sau những năm
xung đột và khó khăn, Việt Nam dần nổi lên ở châu Á như nền kinh tế công nghiệp
hóa mới nhất. Nhưng những thay đổi xã hội và kinh tế hiện tại lại thách thức sự
cai trị của nhà nước độc đảng, trong đó có sự phát triển sôi động của không
gian blog. Chuyên gia về Việt Nam Jonathan London phân tích phản ứng của nhà
nước với các blogger trong trường đấu chính trị đang thay đổi ở Việt Nam.
Hai thập niên trước, cứ
10,000 người Việt Nam mới có chưa đầy một cái điện thoại, một tỉ lệ thuộc hàng
thấp nhất thế giới. Ngày nay, ở đất nước 90 triệu dân, cứ mỗi 100 công dân thì
lại đếm được tới 135 chiếc điện thoại.
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Tỷ lệ tiếp cận Internet
cũng đã cất cánh. Cứ ba người thì có hơn một người nối mạng so với tỉ lệ một
trên 33 của một thập niên trước. Lịch sử rõ ràng đã tăng tốc ở Việt Nam, mang
đến cả cơ hội và những rủi ro.
Tác động của internet
đối với văn hóa chính trị của Việt Nam trở nên đột ngột và quan trọng. Cho tới
gần đây, việc tiếp cận thông tin, tin tức, quan điểm không bị kiểm duyệt về
Việt Nam vẫn chỉ giới hạn trong phạm vi quan chức có quyền.
Tình hình đã thay đổi
sâu sắc. Có lẽ nổi bật nhất là việc viết blog về chính trị nay trở nên phổ biến
ở Việt Nam, bất chấp những nỗ lực của nhà nước muốn nhổ rễ nó.
Hình thức viết blog
chính trị ở Việt Nam cũng đa dạng.
Một số blogger có nguyện
vọng thành nhà báo độc lập. Người khác lại tập trung vào các vụ scandal và đồn
đoán, nhất là nếu chúng liên quan tới các đầu lĩnh chính trị của đất nước.
Những người khác quảng
bá cho đối mới chính trị và cảnh ngộ của các tù nhân lương tâm đang dần tiều
tụy trong nhà tù Việt Nam. Những người này được vô số blogger trên các trang
mạng xã hội khác như Facebook tán thưởng và tham gia.
Khi họ bị bịt miệng, qua
việc bắt bớ hay cách nào khác, lại có các blogger khác nhanh chóng thay thế và
dồn dập cơn bão chỉ trích trên internet phản đối chiến thuật đàn áp của nhà
nước.
Khát khao thay đổi
Lên tiếng về chính trị ở
Việt Nam kèm theo nhiều rủi ro.
Trong năm qua, một số
blogger đã chịu án tù dài theo luật hà khắc nhằm làm im tiếng các nhà bất đồng
chính kiến và gieo sợ hãi trong dân chúng.
Điều kiện tù đày ở Việt
Nam có thể khắc nghiệt. Trong tù, hành hạ thể xác và tinh thần – và cả chết sớm
– là chuyện thường tình. Bên ngoài, phân biệt đối xử với người thân của họ cũng
đã thành lệ.
Mời quý vị đến với Việt
Nam của đầu thế kỷ 21, quốc gia chín mọng tiềm năng nhưng đang rạn nứt vì gánh
nặng của một hệ thống chính trị không hiệu quả.
Một đất nước khao khát
hiện đại nhưng chính nhà nước của nó lại thẳng tay trừng trị những kêu gọi thay
đổi căn bản.
Các blogger của Việt Nam
chỉ là một phần quan trọng của một chiến dịch chưa từng có, tuy vẫn chỉ tổ chức
lỏng lẻo. Nó nhắm tới việc cổ động, thậm chí thuyết phục chính quyền độc đảng
của Việt Nam thực hiện đổi mới chính trị một cách căn bản.
Bị miệt thị là “kẻ thù”
và “thế lực thù địch” bởi những yếu tố bảo thủ trong chế độ, thường xuyên bị đe
dọa, họ kiên quyết muốn thấy đất nước mình phát triển những thể chế xã hội càng
đa nguyên, minh bạch và dân chủ.
Không còn giấu giếm
Chủ tịch Trương Tấn Sang
gặp Tổng thống Obama ở Nhà Trắng hồi tháng Bảy
Trong quá khứ, blogger
của Việt Nam giấu mình dưới những cái tên giả trên mạng để tránh bị bắt và để
bước một bước trước chính quyền.
Nhưng ngày càng có nhiều
người Việt Nam lên mạng công khai để được lắng nghe. Họ vẫn tiến hành cẩn trọng
nhưng với sự tự tin và quyết tâm.
Thực vậy, trong một thời
gian ngắn, bất đồng chính kiến một cách công khai đã trở thành một đặc tính
chắc chắn của xã hội Việt Nam. Văn hóa chính trị của đất nước này đã thay đổi
trên những khía cạnh cơ bản.
Và công khai kêu gọi đổi
mới cũng không chỉ dừng ở giới trẻ thạo công nghệ.
Đầu năm nay, 72 viên
chức và nhà phân tích, còn làm việc và đã về hưu, công khai kêu gọi kết thúc
chế độ độc đảng ở Việt Nam. Kiến nghị 72 là bước bạo dạn và tới nay đã có được
14.000 chữ ký, rất nhiều người trong số đó vẫn nằm trong bộ máy của đảng – nhà
nước.
Mặc dù bị nhà nước bác
bỏ, bản kiến nghị vẫn tự do lưu truyền trên mạng. Cuộc bàn luận công khai trên
mạng đã là một bước ngoặt không tranh cãi được trong sự phát triển chính trị
của đất nước.
Thế nhưng, những sự kiện
trên không thể xảy ra nếu đã không có các thay đổi quan trọng trong chế độ.
Thực vậy, chính trị bên
trong Đảng Cộng sản thường rất ảm đạm, thậm chí chán nản, nhưng đã trở thành
thú vị, Nó thể hiện một mức độ bất trắc chưa từng thấy kể từ những năm 1940.
Chính trị bè phái mà đã
kiềm giữ được trong quá khứ nay đã nhường chỗ cho một cuộc đấu tranh công khai,
phản ánh cuộc khủng hoảng lãnh đạo.
Kinh tế trì trệ
Bản thân cuộc khủng
hoảng này là sản phẩm của nhận thức rằng các nhóm lợi ích và sự kém cỏi trong
đảng làm xói mòn tương lai của đất nước. Để hiểu được cuộc khủng hoảng này,
người ta chỉ cần nhìn vào kinh tế.
Trong nhiều thập niên,
Việt Nam là quốc gia nghèo nhất châu Á. Chiến tranh và cấm vận của Mỹ và Trung
Quốc khiến đất nước này nhìn chung bị cô lập khỏi thương mại thế giới.
"Rõ ràng là có
nhiều người sáng láng, có trình độ và quyết tâm trong và ngoài đảng và nhà nước
đang đấu tranh vì lợi ích của một trật tự xã hội mới công khai và minh bạch
hơn."
Thế nhưng đổi mới thị
trường cuối thập niên 1980 và đầu những năm 1990 làm bùng nổ tăng trưởng kinh
tế. Lao động ở Việt Nam vẫn tương đối rẻ, cộng với việc gần với Trung Quốc và
các thị trường Đông Á khác, và mối quan hệ ngày càng phát triển với châu Âu và
châu Mỹ khiến đất nước này trở thành nam châm thu hút đầu tư nước ngoài.
Trong giai đoạn này,
Việt Nam đã cải thiện mức sống một cách đáng kể, dù không đồng đều.
Tuy nhiên trong 5 năm
qua, quỹ đạo tăng trưởng của Việt Nam đã dần chậm lại do quản lý kinh tế sai
lầm. Sai lầm quản lý là do các nhóm lợi ích mà sản phẩm chính của nó là trác
táng và lãng phí.
Trong khi kinh tế Việt
Nam vẫn phát triển và sẽ tiếp tục phát triển ở tỉ lệ vừa phải, năng suất của nó
khá yếu ớt. Những đổi mới được đề xướng từ thập niên 90 đã mất đi đà tiến.
Nhà nước thất bại trong
việc giải quyết các vấn đề cơ bản một cách đầy đủ, chẳng hạn như bế tắc trong
cơ sở hạ tầng, nhu cầu về lực lượng lao động có kỹ năng và minh bạch trong quản
lý và điều tiết kinh tế.
Trong khi đó, quyền lực
của nhà nước quá thường xuyên được những người đứng đầu sử dụng cho chính họ và
đồng minh của họ. Đất nước trở nên bức bối.
Kiềm chế blog
Cho tới gần đây, câu trả
lời thường lệ của chính quyền đối với các kêu gọi đổi mới là trấn áp. Điều này
đã làm vấy tên tuổi của Việt Nam và làm yếu đi những nỗ lực tăng cường quan hệ
với những quốc gia như Hoa Kỳ.
Không có dấu hiệu cho
thấy các vụ đàn áp đang giảm đi. Nhưng nỗ lực công khai thuyết phục đổi mới cũng
không giảm.
Nhưng liệu tình hình có
đang đến lúc dầu sôi lửa bỏng?
Trong những tháng gần
đây, chính quyền đã sử dụng Điều 258 bộ luật Hình sự Việt Nam, quy định nhiều
năm giam giữ đối với tội danh “lợi dụng các quyền tự do dân chủ” và xâm phạm
“lợi ích nhà nước”.
Tháng trước, cảm thấy có
cơ hội chính trị từ cuộc gặp giữa Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang và Tổng
thống Hoa Kỳ Barack Obama, 103 blogger đã viết kiến nghị phản đối điều 258.
Chỉ vài ngày sau cuộc
gặp, chính quyền Việt Nam ra Nghị định 72, sẽ có hiệu lực vào ngày 01/09.
Nghị định này có vẻ giới
hạn chặt chẽ việc viết blog chính trị bằng cách cấm người dùng internet không
được nhắc tới các “thông tin tổng hợp,” trích lại “thông tin từ các hãng thông
tấn nhà nước hoặc các trang web,” hay “cung cấp thông tin chống Việt Nam; gây
phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; phá hoại khối đại đoàn
kết dân tộc".
Nhưng mục tiêu chính xác
mà nghị định nhắm tới và khả năng thi hành của nó vẫn không rõ ràng.
Tình hình khó đoán
Nhu cầu đọc tin qua
internet ngày càng tăng
Chỉ vài tuần trước, một
nhà hoạt động dũng cảm người Việt Nam kể lại cách cô trốn khỏi nhà từ 4:30 sáng
để tránh bị công an giữ, để tham gia chiến dịch ủng hộ quyền chính trị.
Trong khi đó, hôm
13/08/2013, một nhóm nhỏ thanh niên Hà Nội, những người khá năng nổ về chính
trị trên mạng, bị đàn áp bạo lực, điện thoại và máy tính xách tay của họ cũng
bị tịch thu.
Cũng trong tuần đó, một
nhân vật khá nổi trội của đảng Cộng sản thúc giục đồng đội trước kia của mình
ra khỏi Đảng để cùng tham gia đảng Dân chủ - Xã hội mới chưa được thành lập.
Cuối tuần đó, trong một
quyết định bất ngờ và kịch tính, nhà nước trên thực tế đã bỏ án tù nhiều năm
đối với hai nhà hoạt động trẻ. Một người 21 tuổi, Phương Uyên, thậm chí còn
được thả cho rời tòa, sau khi đã phê phán tòa án.
Những diễn biến như thế
không bình thường ở Việt Nam. Nó cho thấy bộ máy nhà nước đang chịu áp lực
khổng lồ và một khung cảnh chính trị mới thú vị và khó đoán trước đang đến.
Những thay đổi này nhắc
tôi nhớ tới chính trị chống chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam gần một thế kỷ trước.
Khi đó, những người Việt Nam yêu nước có địa vị khác nhau cùng họp lại để đấu
tranh nhiều thập niên cho quyền tự quyết, nhiều tự do hơn và một nền kinh tế
công bằng hơn.
Ngày nay, người Việt ở
các tầng lớp khác nhau đang cùng đứng dậy cho rất nhiều lý tưởng tương tự.
Nhưng họ phải giáp mặt với tầng lớp trên mà tính chính danh đã bị xói mòn vì
đấu đá chính trị nội bộ, quản lý kinh tế sai lầm và các nhóm lợi ích.
Chính trị Việt Nam giờ
dễ thay đổi. Liệu có xảy ra những thay đổi căn bản hay không thì chưa chắc
chắn. Tuy nhiên, rõ ràng là có nhiều người sáng láng, có trình độ và quyết tâm
trong và ngoài đảng và nhà nước đang đấu tranh vì lợi ích của một trật tự xã
hội mới công khai và minh bạch hơn.
Ở khắp các tầng lớp
trong xã hội Việt Nam đang có khát khao thay đổi. Khát khao ấy không bắt nguồn
từ các lực lượng thù địch mà từ những người Việt Nam khác nhau yêu đất nước của
họ và muốn có tương lai tốt đẹp hơn càng sớm càng tốt.
Đời Mồ Côi
Em sinh ra đã không hề biết mẹ
Hàng ngày Em theo chị để ăn xin
Ngày đầu đường đêm ghế đá công viên
Sống lay lắt nhờ đồng tiền thiên hạ.
Nhiều khi đói sữa thay bằng nước lã
Hai chị em vật vã dạ cồn cào
Dế ve Sầu nướng lót dạ đêm thâu
Mong trời sáng xin cơm thừa hàng quán.
Cha chết sớm mẹ bị người ta bán
Sang bên Tàu vào động bán dâm
Nhà cửa ruộng nương
Đảng qui hoạch chẳng bồi thường
Nghe người nói cán bộ phường chia chác
Mình sống được nhờ tấm lòng cô bác
Nín đi nào chị sẽ hát ầu ơ
Mất mẹ cha đời đói rét bơ vơ
Đừng khóc nữa em thơ xin hãy hiểu.
Chuyện xui xẻo đẩy đưa đời cô lựu
Chị bị tông xe nằm ngất bên đường
Khi mọi người đưa chị đến nhà thương
Chị đã chết từ trên đường nhập viện.
Kẻ tông chị là đảng viên say xỉn
Sợ liên quan chúng đã biến vào đêm
Hết họ hàng giờ chỉ còn mình em
Nên ánh mắt mới buồn lên đến thế.
Anh xin lỗi mấy tháng rổi mới kể
Chỉ mong sao ánh mắt bé vơi buồn
Trẻ ăn mày không được đảng yêu thương
Nhưng còn có những trại cô nhi viện
Đây
là thời đại siêu xa lộ tin tức, đâu phải chúng muốn làm gì thì làm.
Linh Nguyên
Cán Ngố Gộc đi thanh tra kiểm soát ....Pó tay pó tay ! hết ý hết ý
Cùng nếm, ngửi, gõ với các bộ trưởng: Kim Tiến -
Khôi Nguyên - La Thăng:
Anh Phạm Khôi Nguyên, bộ chưởng bộ Tài Nguyên và
Môi trường và bầu đoàn đi kiểm tra chất lượng môi trường"
Chỉ bọn quan chức Việt Nam mới có hành
động kỳ quặc và ngu xuẩn thế này!
Ối trời ơi là ông Tiến sĩ ! Ông nghè Phạm Khôi
Nguyên ơi
Anh Đinh La Thăng, bộ chưởng bộ Rao Thông
đi kiểm tra độ lún của mặt đường
CHÂN
DUNG 'CÁC ĐẦY TỚ NHÂN DÂN'
Ngạo
mạn, dâm ô chính là Lê Duẩn
Già
mà lắm con là lão Đỗ Mười
Mưu
mô quỷ quyệt là Lê Đức Anh
Nhẫn
nhục sống lâu là Võ Nguyên Giáp
Chưa
nói đã cười là Nguyễn Minh Triết
Giả
danh Mác xít là Lê Khả Phiêu
Cái
gì cũng nhặt là Tô Huy Rứa
Không
bộ nào chứa là Nguyễn Thiện Nhân
Vì
gái quên thân là Nông Đức Mạnh
Thức
thời, né tránh là Nguyễn Hải Chuyền
Miệng
lưỡi dịu mềm là Vương Đình Huệ
Thiểu
năng trí tuệ là Đinh La Thăng
Ghét
trung yêu nịnh là Lê Hồng Anh
Phát
biểu lăng nhăng là Phạm Vũ Luận
Quen
đánh giặc miệng là Trương Tấn Sang
Hán tặc chính danh là Hoàng Trung Hải
*
Thầy
gét bạn khinh là Hồ Đức Việt
Đổi
trắng thay đen là Trương Vĩnh Trọng
Triệt
suy phù thịnh là Trần Đình Hoan
Đã
dốt lại tham là Lê Thanh Hải
Ăn
vụng nói dại là Đinh Thế Huynh
Juda
phản chúa là Nguyễn Đức Tri
Tình
duyên lận đận là chị Kim Ngân
Vừa
béo vừa dâm là Tòng Thị Phóng
Dối
gian lật lọng là Vũ Văn Ninh
Lên
chức nhờ cha là Nguyễn Thanh Nghị
Mặt
người dạ thú là Phạm Quý Ngọ
Tính
tình ba phải là Phạm Gia Khiêm
Chưa
từng thanh liêm là Nguyễn Thế Thảo
Ăn
tiền tàn bạo là Nguyễn Đức Nhanh
Chạy
trốn an toàn là Dương Chí Dũng
Nghìn
tỉ tham nhũng là Vinashin
‘Bà
con’ Thủ Tướng là Phạm Thanh Bình
Chiến tranh biên giới Việt
Trung năm 1979
Battlefield Vietnam - Part 01: Dien Bien Phu
The Legacy
SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI ÁC CỘNG SẢN (P1)
SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI ÁC CỘNG SẢN (P2)
SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI ÁC CỘNG SẢN (P3)
Coi Tây Tạng trong tay Tầu để chuẩn bị cho VN
rồi mai cũng trong tay Tầu
Preview
by Yahoo
|
|||||
Bà con hãy tìm đường chạy ra nước ngoài cho sớm như hồi
1975 kẻo bọn Tàu cộng đến cai trị thì chạy không kịp nữa!
Một vị ni sư bị đối xử tàn nhẫn:
Coi Tây Tạng trong tay Tầu để chuẩn bị cho VN
rồi mai cũng trong tay Tầu ...
Chiến
tranh biên giới Việt Trung năm 1979
Battlefield Vietnam - Part 01: Dien Bien Phu The Legacy
SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI
ÁC CỘNG SẢN (P1)
SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI
ÁC CỘNG SẢN (P2)
SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI
ÁC CỘNG SẢN (P3)
|
|
Ha ha ha !
Hố hố hố !
Không biết làm thịt em nào trước đây?
HTTP://DANLAMBAOVN.BLOGSPOT.COM/2014/05/HANG-VAN-CONG-NHAN-BINH-DUONG-INH-
Sốc - Lính Trung cộng hành
hạ tra tấn tù binh VN vô cùng tàn bạo dã man
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment