Cái tâm đang bị… bỏ quên
Tô Văn Trường
Sức mạnh phát triển đất
nước chính là “nhân” – là con người, là nhân tâm. Phải có nhân hòa
thì mới có nội lực. Làm thế nào để có nhân hòa?
Người ta thường nói tới
“Sự thông minh của trái tim”, chính là để nói về cái tâm. Vì cái tâm đó, Việt
Nam đã đánh thắng những đế quốc mạnh nhất, bởi đã tìm ra những phương án thông
minh, mà chính TS Henry Kissinger (đã từng làm việc cho ba đời Tổng thống Mỹ)
cũng đã phải thú nhận.
Cái tâm chỉ còn là lợi
ích cá nhân, lợi ích nhóm?
Nhưng phải nói sau chiến
tranh, và nhất là từ khi bước vào kinh tế thị trường, cái “chữ tâm” đó đang
nhạt dần và bị… bỏ quên.
Hầu hết khi phân tích
chiến lược, người ta sử dụng phương pháp phân tích SWOT
(Strength-Weakness-Opportunity-Threats: Mạnh, yếu, cơ hội và thách thức). Nhìn
rộng ra một đất nước thì vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, con người, hệ
thống thể chế thuộc về nội lực, còn thời cơ và thách thức chính là ngoại lực.
Nội lực đúng là toàn bộ
nguồn lực bên trong, sẽ được bổ sung tự nhiên hay tổn thất trong quá trình xây
dựng và phát triển, tùy thuộc vào hiệu quả vận hành tương tác với nguồn lực bên
ngoài. Nhưng nội lực phải coi là yếu tố quan trọng nhất, mang ý nghĩa quyết
định sự thành bại của quá trình này.
Ngày trước, trong sách
Tam Quốc, nói đến Tôn Quyền có địa lợi, Tào Tháo có thiên thời, Lưu Bị chỉ có
nhân hòa mà cũng ngang ngửa thiên hạ. Đủ biết nội lực, trong đó, con người với
chữ tâm quan trọng dường bao.
Những yếu tố làm nên nội
lực, gồm nhiều thứ nhưng có lẽ cơ bản nhất vẫn là con người và thể chế gắn
những con người đó với nhau. Tài nguyên tất nhiên là một phần của nội lực nhưng
không phải là cái quan trọng nhất. Ở các nước OECD thì 80% tài nguyên của họ là
con người.Thiên thời là một cái gì đó khách quan gồm cơ hội hoặc thách thức.
Cũng có ý kiến cho rằng
nội lực của Việt Nam, phần cứng là tài nguyên thiên nhiên, phần mềm là con
người hay nói cách khác nội lực Việt Nam chính là thiên thời, địa lợi, nhân
hòa.
Theo thiển nghĩ của
người viết bài, phần mềm còn là tư tưởng chi phối xã hội và hệ thống thể chế
gắn kết xã hội, văn hóa… như một hệ điều hành (ví dụ như thể chế kinh tế thị
trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự hoặc tam quyền phân lập).
Lâu nay, ta dùng các hệ
điều hành làm chủ tập thể, kinh tế quốc doanh là chủ đạo, đất đai là sở hữu
toàn dân, tư duy lợi dụng nhiệm kỳ hay còn gọi tư duy trục lợi (tư duy thò lò),
chuyên chính vô sản, để vận hành đất nước. Sự phát triển đất nước hiện nay là
kết quả, là sản phẩm của hệ điều hành này.
Có điều, trong quá trình
phát triển, tự lúc nào, trong kinh tế, đã xuất hiện lợi ích nhóm, mang tính
chất đặc quyền đặc lợi, rất ảo nhưng cái di hại lại rất cụ thể. Khi đó, cái tâm
con người chỉ còn ý nghĩa là… lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm của mình.
Chính nhóm đặc quyền,
đặc lợi này nhờ hệ điều hành còn có những khuyết tật, lỗ hổng ấy mới muốn níu
giữ nó vì rời nó ra là họ khó sống.
Đừng quên rằng, chính cố
Tổng Bí thư Trường Chinh khi còn sống, là một trong những lãnh đạo rất ủng hộ
Đổi mới phát biểu tại Đảng bộ Hà Nội 19/10/1986 đã chỉ rõ “Lãnh
đạo đã phạm những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính
sách lớn. Nguyên nhân là do tả khuynh, ấu trĩ, duy ý chí, trái quy luật khách
quan… đã mắc sai lầm lại bảo thủ, trì trệ, không dũng cảm sửa chữa…”
(Văn kiện Đảng toàn tập; tập 47, trang . 270.)
Để đấu tranh chống bá
quyền, bành trướng, đưa dân tộc vượt qua những cam go, thách thức hiện nay,
Việt Nam phải phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Ý kiến khác nhau, quan
niệm khác nhau là một tất yếu khách quan, có tính quy luật. Nhưng nếu để kéo
dài thực trạng đó một cách không bình thường, kéo dài thực trạng lợi ích nhóm
sẽ dẫn đến phá vỡ sức mạnh đoàn kết toàn dân.
Dựa vào đâu?
Việt Nam không thể dựa
vào tài nguyên thiên nhiên để phát triển được vì tài nguyên khoáng sản của nước
ta rất nhỏ bé, manh mún. Thậm chí không có khoáng sản nào có lợi thế để cạnh
tranh có hiệu quả (nhập khẩu còn rẻ hơn khai thác), trừ than, dầu, khí, nước
ngọt, cát, đá, sỏi và đất. Than, dầu khí thì sắp hết (30 năm nữa là đóng cửa bể
than Quảng Ninh). Nước ngọt 70% phụ thuộc nguồn nước đầu nguồn xuất phát từ cao
nguyên ở Vân Nam của Trung Quốc (hệ thống sông Hồng và sông Cửu Long).
Đất, chủ yếu là nông
nghiệp, phụ thuộc thiên nhiên, nguồn tưới phụ thuộc nước ngọt của các hệ thống
sông cũng không phải nhiều. Ngay cả đá vôi làm xi măng, trữ lượng khai thác
được và có hiệu quả cũng chỉ có khoảng 2 tỷ tấn. Còn lại chỉ làm đá rải đường.
Tài nguyên sinh học (flora & fauna) cũng nhỏ bé, lại đang ngày càng “teo”
đi nhanh chóng.
Điều đó là một hạn chế
nhưng có đáng sợ không? Thế giới, không thiếu những nước tài nguyên khoáng sản
nghèo nàn, nhưng đã trở thành nước rất giàu có, nhờ cái tâm con người cũng rất
.. giàu. Có thể thấy như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Hồng Công,
v.v.
Ngược lại cũng có những
nước giàu có khoáng sản nhưng đã không giữ được uy thế đó của mình. Như Hà Lan
chẳng hạn. Cho dù vẫn là quốc gia phát triển, nhưng Hà Lan đã không duy trì
được vị trí đứng đầu thế giới về phát triển công nghệ điện tử, chỉ vì ỷ lại quá
nhiều vào dầu ở biển Bắc (hiện thua xa Nhật Bản và Hàn Quốc). Cái gọi là “căn bệnh
Hà Lan” ngày xưa cũng chính là “lời nguyền của tài nguyên khóang sản” ngày nay.
Đủ hiểu, sức mạnh phát
triển đất nước chính là “nhân” – là con người, là cái nhân tâm. Nhưng phải có
nhân hòa thì mới có nội lực. Làm thế nào để có nhân hòa? Xưa, Vua Trần Nhân
Tông đã là một tấm gương sáng về tập hợp lòng dân chống giặc ngoại xâm, và hòa
giải, đoàn kết dân tộc sau chiến thắng, làm nên một Đại Việt hùng cường.
Nước Nhật, người Nhật
chẳng hề được ưu đãi chút nào từ cái “thiên” và “địa”, những họ đã chẳng hề mảy
may ca thán về những rủi ro, bất hạnh. Nước Nhật không có rừng vàng, biển bạc,
chỉ có sức mạnh từ lòng yêu nước và tự trọng của người Nhật. Đầu hàng Mỹ và
chịu nhận Mỹ làm đồng minh ngay sau khi thua trận đại chiến thế giới lần thứ hai
là một quyết định sáng suốt của Nhật Hoàng, với sự ưng thuận của toàn bộ nội
các Nhật. Và việc không truy cứu trách nhiệm Nhật Hoàng trước chiến tranh cũng
thông minh không kém, từ cả phía người Nhật và người Mỹ.
Nội lực của người Nhật
chính là tự cường, chính là “nhân hòa”.
“Nhân hòa” trong nội lực
nước Việt
Thể chế văn minh là mảnh
đất và môi trường để nội lực đất nước phát triển. Để người Việt có thể tìm thấy
hạnh phúc bằng chính lao động chân chính được gieo trên mảnh đất này
Bàn về cái nhân, là thứ
“nhân định” mà chúng ta hoàn toàn có thể tạo lập được, người viết bài chỉ xin
nêu ra những cái khiếm và những cái khuyết để có thể cùng nhau khắc phục.
Chuyển hướng nhận thức chính
mình
Để có được nội lực,
trước hết người Việt phải chuyển hướng nhận thức của chính mình, để thoát khỏi
óc nô lệ – nô lệ vào cái dốt, cái yếu kém, cái viển vông, mơ hồ và cả nô lệ vào
học vấn. Vì cái gì cũng có giới hạn, chỉ có sự ngu dốt, nếu không chịu học hỏi
là… vô giới hạn!
Chiến lược Nhà nước cho
sự phát triển 5 hay 10 năm tới không phải khó lắm. Khó nhất là đạt được bằng
cách nào? Như Mác nói đại ý “Thời đại này khác thời đại trước không phải sản
xuất ra được cái gì, mà là dùng cái gì để sản xuất”. Bây giờ, mở rộng ý
tưởng ấy là hợp tác với ai để có vốn, công nghệ, nguyên liệu để sản xuất và bán
cho thị trường nào. Đó là “nhiệm vụ chính trị” số một.
Xác định ta, bạn, thù,
đối tác cũng phải trên cơ sở đó mà nhìn nhận. Nhiệm vụ bảo vệ độc lập chủ quyền
toàn vẹn lãnh thổ là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt, quốc gia nào cũng phải thực hiện,
không chỉ có Việt Nam. Nước Việt đang hội nhập thế giới văn minh, hiện đại mà
xem tư bản là kẻ thù thường xuyên thì chuyện xác lập quan hệ đối tác chiến lược
sẽ ra sao? Ta mà còn không tin thì làm gì “cả hai ta” đều có “niềm tin chiến
lược”!
Một nhược điểm rất rõ,
là đa phần giới có trình độ học vấn, thì mắc bệnh “hàn lâm”, chỉ chăm nhằm vào
những cái đích rất cao siêu, rất oách như kỹ thuật na-nô, những thứ siêu việt
mà giới khoa học thế giới đang ồn ào, trong khi nội hàm năng lực, hoàn cảnh và
phương tiện đều thiếu thốn và yếu kém.
Trong khi thực tiễn đất
nước đòi hỏi người Việt, nhất là tầng lớp trí thức, có học vấn cần moi đầu, vắt
óc nhắm vào những thứ thật bình thường, bình dị như hạt lúa, củ khoai, con cá…
xem có cách nào cho tốt hơn, cho bà con nông dân được nhờ.
Đó là những những thứ
bình thường mà chẳng tầm thường chút nào.
Vậy nên, có người đã nói
theo kiểu “cười ra nước mắt”: Cái sự khoa học ở xứ ta đang trở thành khóa hóc
(!) – chẳng mở được gì cả, đặc biệt là khoa học về các lĩnh vực công nghệ, khoa
học kỹ thuật, khoa học chính trị xã hội.
Hiện tượng “có đoàn mà
không có kết” cũng khá phổ biến khắp mọi lĩnh vực. Mạnh ai nấy làm, giống như
bàn tay xòe ra, bẻ ngón nào gãy ngón nấy, chẳng chịu cụm lại thành nắm đấm cho
đủ sức mạnh và vững chắc. Ở xứ người, nhiều cộng đồng các dân tộc càng đông
càng mạnh, còn cộng đồng người Việt ở nước ngoài thì sao? Nếu người Việt chỉ gắng
sức từng bộ phận mà không có sự phối hợp đồng bộ, tổng thể thì bị … chuột rút
(vọp bẻ) cũng là lẽ đương nhiên!
Anh hùng tạo nên thời
thế
Nhân hòa ở nước Việt
thời nay còn là cái phải nỗ lực, và giải quyết tốt các mâu thuẫn nảy sinh trong
quá trình vận động và phát triển mới hy vọng nội lực nước Việt mạnh lên. Mâu
thuẫn giữa lợi ích nhóm và lợi ích của đa số nhân dân. Mâu thuẫn giữa những
người muốn cách tân đất nước và những người thủ cựu, gắn với lợi ích nhóm.
Lợi
ích nhóm là một trong những “vật cản” mà nước Việt phải chiến đấu lâu dài và chế
ngự.
Lenin nói: “Đào
xuống, lật ra, xới tung lên những hàng chữ dày đặc đủ thứ lý thuyết, ta sẽ thấy
đằng sau đó lồ lộ hiện ra cái gốc quyền lợi trơ trọi, thô thiển!”. Cái
cần đào đó, cũng đang nằm sâu trong lòng xã hội nước Việt.
Nước Việt đang rất cần
những anh hùng tạo nên thời thế.
Hai thứ đầu tiên là
“thiên” và “địa” vốn dĩ là những thứ nằm ngoài “nhân”, nên chỉ có thể lựa theo,
nương theo quy luật khách quan của nó để thích nghi, để mà tạo lợi thế cho “nhân
hòa”, không thể can thiệp, tác động vào được.
Còn “nhân hòa” là yếu tố
cơ bản của nội lực, thì không ai khác, người Việt, những những có trọng cách,
phải tạo được ra. Lâu nay, ta nói nhiều về “lỗi hệ thống” và tính lạc hậu, xơ
cứng của tư duy phát triển, nhưng nói cho cùng thì hệ thống và tư duy xơ cứng
đó là của chúng ta…. tạo ra.
Vì vậy, nếu muốn đất
nước phát huy được nội lực thì mỗi người Việt Nam, trước tiên là các nhà lãnh
đạo phải quyết tâm vượt qua chính mình chứ không phải ngồi chờ sự thay đổi. Sự
vượt qua chính mình đó, đòi hỏi cả trí tuệ, ý chí, bản lĩnh và sự kiên trì,
lòng tin ở những giá trị văn minh, văn hóa.
Lợi ích dân tộc, chủ
quyền quốc gia, Nhà nước pháp quyền, xã hội dân chủ, đất nước giàu mạnh là mục
tiêu trên hết. Thể chế văn minh là mảnh đất và môi trường để nội lực đất nước
phát triển. Để người Việt có thể tìm thấy hạnh phúc bằng chính lao động chân
chính được gieo trên mảnh đất này.
T. V. T.
Tác giả gửi BVN.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment