Saturday, December 1, 2012

Ông Đạo Nhỏ


Hôm nay tôi xin gởi tiếp tài liệu Ông Đạo Nhỏ để anh em tham khảo .

  Ông Đạo Nhỏ (Viết theo lời kể của Thiếu

Tướng Nguyễn văn Chức).

       Năm 1968 sau trận Tết Mậu Thân,vị Tư lịnh Quân đoàn IV bấy giờ là Thiếu Tướng Nguyễn viết Thanh có rước một ông Đạo từ trên Hồng Ngự xuống.

Ông Đạo nầy lúc đó chỉ 8 tuổi nên được gọi là Ông Đạo Nhỏ.
 
Ông là con của ông Trần kim Qui, Hiệu trưởng một trường học ở quận Hồng Ngự, người theo đạo Phật Giáo Hòa Hảo.

Buổi chiều nọ, khi tới dự bữa cơm tối tại tư dinh Thiếu Tướng Tư lịnh Quân Đoàn IV tôi thấy ngồi ở đầu bàn là một người còn nhỏ tuổi, quanh đó có mặt các ông Đai tá và Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh Tư lịnh phó lãnh thổ của Quân đoàn.
 
Trong chín ông Đại tá có cả Đại tá Nguyễn văn Ánh là Tư lịnh Sư Đoàn 4 Không Quân (ông nầy sau đó lên Thiếu Tướng và bị tử nạn máy bay).
 
Khi mọi nguời vào bàn ăn thì được ông Tư lịnh Quân đoàn giới thiệu :“Đây là Ông Đạo Nhỏ ở Hồng Ngự được mời tới đây để ăn cơm với chúng ta”.
 
Tiếp theo, ông giới thiệu từng thực khách với Ông Đạo Nhỏ một cách hết sức trân trọng. Chỉ với người khoảng 8 tuổi mà tôi thấy Tướng Nguyễn Viết Thanh đối xử trang trọng lắm.
 
Mọi người đều dùng cơm chay vì Ông Đạo Nhỏ không ăn mặn. Sau khi cơm nước xong xuôi, mỗi người được phân phát một tờ giấy và một cây viết chì.

Tướng Thanh nói rằng :“Ông Đạo Nhỏ biết rất rành quá khứ vị lai (tức chuyện về trước, chuyện về sau) nhưng vì không nói chuyện được nên chỉ trao đổi bằng giấy viết”. Vậy là mỗi người viết câu hỏi mà mình

muốn hỏi lên tờ giấy rồi chuyền tay đưa tới Ông Đạo Nhỏ. Đầu tiên là ông Tư lịnh Quân Đoàn Nguyễn Viết Thanh viết một câu hỏi đưa qua, Ông Đạo Nhỏ cầm viết, viết rào rào (nghiã là viết rất nhanh) bằng chữ Quốc Ngữ, xong rồi đưa lại cho ông Thanh.

Ông Thanh coi xong bèn úp tờ giấy xuống mặt bàn. Sau đó là tới lượt ông Chuẩn tướng Nguyễn hữu Hạnh vì ông và ông Thanh ngồi hai bên Ông Đạo Nhỏ …Ông Đạo Nhỏ viết câu trả lời toàn bằng thơ, tôi ngồi gần nên liếc thấy hầu hết là thơ ngụ ngôn (mỗi câu năm chữ) sau ông Đai tá Ánh, Tư lịnh Sư đoàn 4 KQ là các ông Đại tá khác trong đó có Đại tá Huỳnh văn Lạc Tham mưu trưởng (sau nầy cũng lên Tướng và đang sống ở Sacramento, CA.).

Tôi nhường hết cho mọi người chờ đến lượt cuối cùng, tôi viết trong giấy là :“Xin Ông Đạo Nhỏ cho biết tương lai vận mệnh của tôi trong cuộc chiến tranh nầy ?” Tôi đưa cho ông Thanh, ông Thanh coi qua một chút rồi chuyển cho Ông Đạo Nhỏ.

Ông Đạo Nhỏ viết xuống mấy chữ chuyền tới lui thì ra ông viết rằng “đưa về nhà rồi sẽ cho sau”; ông không cho liền trong khi mấy ông kia thì trả lời ngay.  

      Sau đó, Ông Đạo Nhỏ tỏ ý muốn đi ra đằng sau chơi, ông Tướng đích thân dẫn Ông Đạo Nhỏ ra phía sau hàng ba để Ông đi lại
nơi cái bàn có cái ghế và ngồi chơi một mình. Số người còn lại trong nầy chuyền tay nhau những tờ giấy có câu trả lời của Ông Đạo Nhỏ, không ai dấu diếm.

Tôi đọc bài thơ của ông Thanh thì câu cuối cùng mà Ông Đạo Nhỏ viết là “Tu mau đi kẻo muộn !”.. Còn bài thơ của ông Đại tá Ánh, của ông Đại tá Trưởng phòng Nhì cũng viết là “Tu mau đi kẻ muộn !” (cả ba ông đều có một câu kết như nhau).

Riêng của ông Hạnh thì Ông Đạo Nhỏ cho một bài thơ Đường luật gồm 8 câu 7 chữ, câu cuối cùng là “Thân bại danh liệt tướng miền Tây” tôi chỉ nhớ câu chót thôi không thể nhớ hết nguyên bài.

Mấy người còn lại trong đó có một ông Đại tá người Huế làm bên Tiếp vận Vùng 4 cũng được một bài thơ nhưng bình thường thôi,không có gì đặc biệt. Sau khi bàn luận qua lại một hồi rồi giải tán.

Thiếu tướng Thanh nói với tôi là Ông Đạo Nhỏ muốn về nhà của tôi và sau đó nhờ tôi đưa Ông Đạo Nhỏ về Hồng Ngự. (vì tôi có một chiếc trực thăng riêng muốn sử dụng lúc nào cũng được).

Tôi chở Ông Đạo Nhỏ về nhà rồi kêu chú lính trực đem một cái ghế bố với đầy đủ mùng mền cho ông nghỉ ngơi ngay tại phòng khách (ban tối,chú lính mở ghế bố ra rồi đến sáng thì thu dọn lại sạch sẽ). 

   Khi tôi xuống Cần Thơ làm việc, vợ tôi giao cho tôi đứa con gái lớn đang học lớp Bảy nên phải xin chuyển trường cùng với ba đứa con trai nhỏ nhứt (còn mấy đứa lớn đang học ở Saigon) gồm đứa 7 tuổi, 6 tuổi và 5 tuổi.

Mỗi ngày, đứa con 7 và 6 tuổi thì đi học còn đứa 5 tuổi vẫn còn ở nhà chơi với Ông Đạo Nhỏ nhưng Ông nầy lại không thích chơi giởn.

Sáng dậy,tôi và Ông Đạo điểm tâm bằng cháo trắng, trong khi tôi ăn với đường hay thịt cá
thì Ông ăn ba chén đàng hoàng nhưng với muối. Đặc biệt là dù trời lạnh hay nóng Ông cũng đều thích ra ngồi phiá sau nhà, nơi nầy tôi có che một cây dù nhà binh, ông huớng mắt về phía Nghiã trang Quân Đội ngồi yên, không nói gì cả cho tới trưa khi tôi đi làm về thì vào ăn cơm chay với tôi.

Sau bữa ăn cơm tối, tôi viết mấy câu nhắc lại câu hỏi của tôi lúc trước thì Ông trả lời là “hãy đợi đến ngày Rằm” tức là khoảng 7, 8 bữa nữa. Trong thời gian lưu ngụ đó, nhiều khi con tôi đi học về đến nắm tay, nắm chân kéo ra ngoài chơi giỡn nhưng Ông cứ ngồi im thin thít không nói, không rằng và không thích vui đùa như mấy đứa con nít cùng trang lứa.

 Đến ngày Rằm, tôi cho mấy đứa con đi ngủ
sớm, đóng cửa phòng không cho ra ngoài, rồi chuẩn bị vào phòng khách để đàm đạo với Ông Đạo. Ông Đao viết lên giấy biểu tôi đốt hai cây đèn cầy đỏ thật lớn để trên hai cái chân đồng và tắt hết đèn điện..

Sau đó, Ông biểu tôi lấy ra một tập giấy học trò 200 trương và một cây viết nguyên tử. Ông bắt đầu viết lên tờ giấy :“Ông cứ đặt câu hỏi và viết lên đây mỗi trang giấy là một câu hỏi !” Còn nhớ, khi Ông cho mấy ông Tướng Tá kia thì mỗi người chỉ được một bài thơ còn riêng tôi thì cả một cuốn tập 200 trương.

Đại ý những điều Ông viết về vận mệnh cho tôi như thế nầy là :“Khi tôi về già, cái mệnh của tôi cũng như Ông Khương Thượng (tức Khương Tử Nha) đời nhà Châu giúp vua Châu diệt nhà Thương (hoàn toàn được viết bằng những bài thơ).

Về già, tôi sẽ đảm nhận vai trò giống như ông Khương Tử Nha ngồi câu trên sông Vị thủy chờ Châu văn Vương tới rước làm Đại tướng quân cầm quân đánh vua Trụ chớ không phải như lúc còn trẻ”.

Ông còn viết thêm là “ông có quyền hỏi tất cả những gì mà ông muốn biết”.

Thế là, tôi lật trang kế tiếp, tôi hỏi về chuyện quốc gia, đến khi hết chuyện quốc gia là đã lên tới 100 trương rồi nhưng ông cứ cho hỏi hoài từ 7 giờ tối tới 12 giờ khuya.

Tôi hỏi đâu, ông cho đó …đặc biệt, tất cả đều trả lời bằng một bài thơ chớ không phải văn bình thường. Tôi không hiểu tại sao một người chỉ mới 8 tuổi mà làm thơ đủ vần, đủ điệu như vậy. Tôi thử ông tới những bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú luôn cả bài toàn chữ B.

Ông cũng cho tôi bài thơ Quốc Ngữ khởi đầu
toàn là chữ B mà lại viết liền không cần suy nghĩ, thật là một người có bộ óc thông minh kinh hồn không thể tưởng tượng được. Về chuyện trong nước thì cuối cùng ông phán trong một bài thơ, đại ý là :“Miền Nam không đứng vững, không đủ khả năng đánh bại miền Bắc”. 

     Kế đó tôi hỏi về chuyện Thế giới thì được trả lời đến gần 100 bài nữa, trong đó có hai bài hỏi về Hội Long Hoa.

Tôi hỏi “Hội Long Hoa thành lập ở đâu, do ai chủ trì và giải quyết chuyện gì ?” Vấn đề nầy ông không trả lời nhưng ông vẽ một cái hình lên trên tờ giấy.

Ông vẽ một khán đài rồi vẽ một cái vòng tròn, ông vẽ một mũi tên chỉ vô để “người” tức là
nhiều người ngồi trên đó, rồi phía dưới ông vẽ hình người mà cả hàng ngàn, hàng ngàn người ngồi ghế bên dưới.

Còn vùng đó là vùng có núi mà là núi thấp; ông không nói địa điểm chỗ nào nhưng nhìn xa xa thấy toàn là núi, còn chỗ hội họp là giữa hai cái núi, ông vẽ sơ sơ vậy thôi. Sau đó, ông vẽ cái dấu tròn phiá trước, kế đó là cái dấu tròn thứ hai; cái dấu đầu tức là có người ngồi trước, rồi ông vẽ một mũi tên chỉ vào dấu thứ hai đó, ông viết chữ “ông” tức là tôi sẽ là người thứ nhì ngồi ở Hội Long Hoa.

Đến nay, khi tôi kể lại tôi còn cảm thấy run cả người bởi vì Hội Long Hoa là một chuyện trọng đại và phi thường giải quyết cả một vận hội thế giới chớ không phải cho riêng nước mình thôi đâu. 

       Rồi khi tôi hỏi đến chuyện thế giới chiến tranh thứ III thì ông cho bài thơ trả lời, đại ý là chuyện đó sẽ phải xảy ra và
thế giới cũng bị tận diệt rồi sau đó mới lập Hội Long Hoa (nghiã là khi chiến tranh Thế Giới thứ III chấm dứt mới có Hội Long Hoa).

Sau đó tôi kêu chú lính chạy đi lấy cho tôi một bản đồ Thế Giới rất lớn mang đến và cả bản đồ Việt Nam, tôi phải trải từng khúc lên bàn, theo ý muốn của ông. Ông cầm cây viết mỡ lên sẵn sàng giải đáp.

Đầu tiên, tôi hỏi :“xin ông cho biết ảnh hưởng về Việt Nam và Trung Quốc sẽ đi tới đâu ?” Ông cầm cây viết mỡ vẽ một lằn từ bên Tàu phía trên Hồng Kông từ ngoài biển kéo vô một lằn tới dãy Himalaya (Hy-mã-lạp-sơn)
rồi ông kéo trở lại cắt ngang phía Bắc Việt Nam từ miền Thượng du Bắc Việt tức
vùng Cao bằng- Lạng sơn ra tới phía Bắc của Hải phòng.

Rồi ông lấy viết xanh ông gạch gạch rồi cho biết “tất cả chỗ đó sẽ trở thành biển”, ông viết một chữ “biển” lên đó.

Nguyên phần đất nầy sẽ tan biến, tức là ranh giới giữa Trung Quốc và Việt Nam sẽ thành một cái biển lớn. Hồng Kông không còn rồi qua đến phiá Bắc của Lào, một phần của Thái lan, một phần của Miến Điện rồi vô tới dãy Himalaya sẽ bị sụp mất hết, Việt nam chỉ mất có bấy nhiêu đó thôi.

Cái vạt Bắc Kinh- Thượng Hải được ông gạch nát hết, Đài loan cũng lặn mất.

Xong rồi, tôi để bản đồ trước mặt Ông, chỉ vào từng vùng, từng vùng thì ông cho thấy quốc gia nào cũng bị khó khăn hết.

Nước Mỹ nầy thì ông vẽ Tiểu Bang Washington, Oregon, California đi xuống biển, còn ở phía miền Đông thì bể nhiều lỗ, Nữu Ước không còn nữa tức cũng thành biển, nước Mỹ chỉ bị mất mấy vùng hai bên bờ biển phiá Đông và phiá Tây, rồi ông làm một bài thơ cho biết Địa cầu chuyển trục, nước Mỹ trở thành một vùng nằm ngay giữa đường Xích đạo. Đường Xích đạo đi ngang qua nước Mỹ biến nước Mỹ trở thành một quốc gia bị nóng như Sa mạc. 

    Còn bên Âu châu thì quốc gia nào cũng bị
thiệt hại một phần hết. Nước nào ông cũng bôi bỏ chỗ nầy, chỗ kia rồi chỗ kia,chỗ nọ; cuối cùng chỉ còn lại hai chỗ là Úc châu và Tân Tây lan.

Tôi hỏi ông về phần đất Úc châu thì ông cho một bài thơ cho biết đó là Thánh địa không có bị động chạm gì tới và Tân Tây Lan cũng như Úc Châu đều còn nguyên vẹn. Các quốc gia con con ở gần Bắc băng dương và Nam băng duơng thì nơi nào cũng bị đánh phá, chỉ trừ có Úc Châu và Tân Tây Lan mà ông cho là Thánh điạ. 

       Đến đây, tôi nói với ông là cũng đã khuya rồi, chú lính đã giăng mùng sẵn, mời Ông đi nghỉ.(Về chuyện hậu vận của tôi,tôi cũng có hỏi và được giải đáp đầy đủ nhưng vì thuộc về cá nhân nên tôi không thể nói được, ngoại trừ việc về già giống trường hợp ông Khương Thượng như đã nói ở phần trên.

Bởi vì tin vào vận mệnh đó mà tôi mới dám qua Cam-pu-chia ở 10 năm và chiến đấu bên đó từ năm 1984 đến năm 1994). 

       Sáng hôm sau ông viết lên giấy đòi về nhà,tôi cho gọi trực thăng tới để đưa ông đi, ông viết cho tôi là “tôi biết ông có đủ khả năng để xây cất một cái Miếu đường cho tôi để tôi có chỗ ở mà thờ phượng”.
 
Tôi trả lời “Được, tôi sẽ giúp ông Đạo nhỏ”, ông cầm tờ giấy đó xếp lại và bỏ vào túi. Tôi đưa ông ra trực thăng bay lên núi Sam (Châu Đốc) kiếm ông Thiếu tá Công binh của tôi đang bắn đá ở đó, tôi gọi Radio trước cho ông nầy nên trực thăng vừa tới là ông leo lên cùng bay về Hồng Ngự với tôi và Ông Đạo Nhỏ.

Khi trực thăng đậu ngay sân Chi khu là có sẵn chiếc xe Jeep chờ sẵn chở chúng tôi đến nơi mà Ông Đạo Nhỏ muốn xây cất miếu.

Nhà ông ở cũng gần chợ Hồng Ngự, ông viết giấy đưa cho tôi nói đây là đất nhà của ông. Tôi nói với ông Thiếu tá :“Thiếu tá cố gắng giúp Ông Đạo Nhỏ xây cái Miếu ở đây còn phương tiện hay cần vật liệu gì, Thiếu tá cứ viết giấy về Liên đoàn lãnh vật liệu lên làm”, tức là tôi cung cấp toàn bộ và cho các anh em CB gồm cả một tiểu đội để việc xây cất
càng nhanh càng tốt.

Ông Đạo Nhỏ lấy giấy viết vẽ sơ sơ ra cái nền vuông rồi ngăn vách phân biệt nơi nào để thờ phượng, nơi nào là chỗ ngủ của ông, chỗ để
quần áo, nơi thay quần áo, rồi chỗ ở của người tu chung với ông, rồi cái bếp,cái nhà tắm, cầu tiêu… Nơi nào ông cũng có viết chữ trong đó, ông vẽ khéo lắm như một kiến trúc sư vậy.

Ông còn cho cả chiều ngang khoảng 12 thước còn chiều xuôi chừng 16-18 thước. Diện tích cũng giống như một căn nhà chớ không nhỏ lắm,
còn trên cái nóc thì muốn làm sao cứ làm.

Riêng phía trước chỗ phần thờ phượng thì chiếm 1/3 căn nhà có xây một cái trang ở trên, rồi có cửa trước và có cửa ra vô hai bên hông. Công tác nầy do anh em Công Binh hoàn thành khoản 20 ngày dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Hoàng bá Hải (Ông nầy có lẽ là người Nha trang nhưng nói giọng miền Nam, rất lanh lợi, làm Giám đốc hầm đá núi Sam khoảng 7-8 năm).

Sau khi hoàn tất, ông Thiếu tá nầy có mời tôi lên ăn Khánh Thành nhưng lúc đó rất bận nên tôi không thể đến dự. Chính ông và Ông Đạo Nhỏ cùng mọi người làm lễ Khánh thành trước khi Ông Đạo Nhỏ dọn vào ở. Còn tên miếu là gì thì tôi không biết..

       Tôi cứ cầm tập thơ viết đầy 200 trương nầy coi đi coi lại hoài, nghiền ngẫm những điều ghi trong đó, sau đó tôi cầm về Saigòn cẩn thận cất vô tủ sắt trong nhà. Tôi có người bạn là Bác sĩ Nguyễn bá Khả (có người em là Bác sĩ Nguyễn bá Tín), người Bắc di cư năm 1954, cha mẹ vẫn còn sống và đang ở chung với ông ở Cư xá Lữ Gia, Saigon. Ông Bác sĩ nầy rất đàng hoàng và nhân ái.

Trước cửa phòng mạch của ông ở đường Gò công, Chợ lớn có dán tờ giấy ghi là “Kẻ nghèo khổ và người tu hành được khám bịnh miễn phí”.

Ông làm Tổng trưởng Y tế trong thời gian Nguyễn cao Kỳ là Chủ tịch Ủy ban Hành pháp
Trung Ương.

Khi ông đi họp bên Phi luật Tân thì ở bên nhà ông Chánh văn phòng của ông là người miền Nam bị ông Kỳ ra lịnh cho Đại tá Liễu, Giám đốc Cảnh sát bắt đem giam trong khám Chí Hòa.

Nhóm trí thức và dân biểu gốc miền Nam chống
ông Kỳ về vụ bắt giam nầy, ông Kỳ đổ thừa là Bs. Khả ra lịnh. Ông Khả đang họp ở Phi Luật Tân có người gọi điện thoại báo cho ông, ông liền bỏ họp trở về Việt Nam.

Ông vô Văn phòng ông Kỳ mạt sát ông nầy dữ dội :“Ông làm như vầy là sai ! Tại sao Đổng lý Văn Phòng của tôi mà ông ra lịnh bắt, tại sao ông không nhận lại đổ thừa là tôi ra lịnh ?”

Sau khi sỉ vả ông Kỳ một hồi rồi đưa thơ từ chức, không làm nữa. Ông còn nói rằng :“Tôi muốn giúp ông để làm việc nước nhưng ông đã làm trái với nguyện vọng của tôi nên tôi không chấp nhận làm việc chung với ông nữa, tôi muốn trở về làm dân”.

Sau đó, Bs. Khả trở về nhà và buồn bực lắm.

Thấy vậy, tôi mới mời ông tới nhà tôi chơi và cho ông xem quyển sách đó. Ông ngồi với tôi vừa uống nước vừa xem hết 200 bài thơ trong đó. Ông là một Bác sĩ có bằng cấp của Pháp, du học bên Pháp nên thuộc loại Bác sĩ giỏi.

Xem xong, ông không nói năng gì và ra về.

Trước khi về lại Cần Thơ, tôi đem cuốn sách đó cất vào tủ sắt. (Lúc bấy giờ ông William Colby đang làm Cố vấn cho chương trình Phụng Hoàng). 

       Đến tháng sau, tôi trở về Saigon thăm vợ con, tôi mở tủ sắt ra coi lại thì quyển sách của tôi đã bị mất, luôn cả bản đồ vẽ đủ thứ trên đó cũng bị mất. (Tôi nhớ Bs.Nguyễn Bá Khả cũng có coi qua bản đồ nầy !).

Tôi hỏi Bác sĩ Khả có nói với ai về quyển sách nầy không, ông trả lời :“Tôi với anh là bạn mà, tôi coi xong rồi thôi, có nói với ai đâu !” Tôi cố tình tìm kiếm vẫn không ra rồi từ từ cũng không còn nhắc tới nữa, nhưng tôi
tiếc lắm. Lâu lâu tôi cũng muốn giở ra coi để biết thời cuộc, vì đây là sách thiên cơ mà tôi tin tưởng.

       Đến năm 1975 khi tôi sang được Hoa Kỳ, ở thành phố Roseville, CA. thì được ông Colby gởi lời mời lên nhà chơi. Lúc đó,ông đang là Giám đốc CIA của chánh phủ. Khi tôi đến nhà thì được bà vợ ra tiếp đón còn ông thì đi làm, trưa đó mới về gặp tôi.

Ông lấy cho tôi một cái Hotel bên ngoài và một tài xế để tôi tiện việc đi chơi đây đó nhứt là đi vòng vòng thăm Hoa Thịnh Đốn cho biết.

Trong lúc ăn cơm, tôi kể lại câu chuyện về Ông Đạo nhỏ cho ông Colby nghe. Nghe xong, ông Colby chỉ cười và nói ông biết rồi.

Tôi hỏi tại sao ông biết. Ông trả lời chính Bs. Khả báo cáo với ông. Hóa ra là Bs.Khả làm việc cho CIA mà tôi đâu có biết ! 

Colby nói là ông đã cho người lúc ban đêm mở cửa vào nhà tôi và mở tủ sắt lấy hết hồ sơ đó.

Tôi hỏi ông lấy để làm gì, ông nói sau khi lấy xong thì cho người mang tay về Hoa kỳ, vì ở CIA có một Ban chuyên môn nghiên cứu về chuyện đó và để tại đây cho họ nghiên cứu.

Tôi nói :“Thôi bây giờ đã nghiên cứu xong rồi, cho tôi xin lại dù là bản sao cũng được”. Ông nói :“Không được ! Nó đã thành một văn kiện mật, rất tối mật.

Chính Tổng thống Mỹ cũng không được xem chớ đừng nói việc trả lại cho you !” nên tôi đành chịu thôi. 

       Đầu năm 1978 có hai vợ chồng ông Thiếu tá gốc Phật Giáo Hòa Hảo ở Nam Cali lên Sacramento thăm bà con ở đây. Ông có gặp và kể cho tôi nghe về chuyện Ông Đạo Nhỏ. 

       Ông Thiếu tá nầy quê ở Rạch giá có vợ ở Hồng ngự, ông là Tiểu Đoàn trưởng Sư đoàn 9 BB nhưng sau biến cố 1975, vợ chồng ông trở về Hồng Ngự trốn lánh, nhờ bà con chung quanh che chở không ai tố giác thành ra ông không phải đi học tập cải tạo.

Nhà bên vợ có một miếng ruộng ở giữa đồng nên vợ chồng ra đó làm ruộng từ năm 1975 đến năm 1977 mà không bị bắt.

Ông nói, ông có đến gặp và biết Ông Đạo Nhỏ ở Hồng Ngự. Ông Đạo ở đó lo tu hành và chữa bịnh. Những bịnh nhẹ và ma quỷ thì ông làm hay lắm còn về nóng lạnh hoặc sốt rét thì chữa không được khá, đặc biệt, bịnh thuộc về ma hành quỷ bắt hay điên loạn thì ông chữa đươc hết.. 

       Vào một buổi sáng sớm vào năm 1977, trong lúc vợ chồng ông đang nhổ mạ để sửa soạn cấy thì thấy có một người mặc áo dài
đen, mặc quần trắng, đầu trần tóc hớt chải coi trẻ lắm và mang dép da từ trong chợ Hồng Ngự đi ra (từ đó cách chợ Hồng Ngự mấy cây số). Sau đó, hai vợ chồng đứng dậy chào vì biết người vừa tới đó là Ông Đạo Nhỏ. 

Ông Đạo lúc bấy giờ đã 17 tuổi rồi. Thấy hai người đứng dậy chào thì ông chỉ vô thúng xôi
(khi họ đi đồng thì thường đem theo một cái thúng trong đó có đựng cơm nếp, muối mè và nước uống…).. Ông chồng hiểu ý, lấy một chén xôi rắc muối mè rồi đưa cho ông Đạo, ông Đạo ngồi xuống bờ đất ăn ngon lành. Ăn xong chén xôi, ông chỉ hủ nước. Ông chồng lấy cái chén sạch rót cho một chén nước đưa cho ông. Uống
xong, ông đứng lên chắp tay xá một xá rồi băng ngang đồng đi về hướng Cao lãnh.

Hai vợ chồng lui cui nhổ mạ để kịp cấy nên lơ là, lúc đó chỉ độ 8 giờ sáng, nên ông Đạo mất dạng lúc nào cũng không ai hay biết. Từ đó, Ông Đạo Nhỏ không còn trở về ngôi miếu của ông nữa.

       Sự việc nầy, theo tôi nghĩ là do cái linh ứng của Đức Phật Thầy đã chuyển kiếp qua Đức Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ rồi sau đó lại chuyển qua Ông Đạo Nhỏ. Sở dĩ tôi nghĩ như vậy vì khi tôi hỏi Sư phụ của tôi, ông đã cho tôi biết.

       Sư phụ tôi là một vị Hòa thượng người Quảng Ngãi. Năm 1974, ông đã được 104 tuổi rồi. Lúc còn trẻ, ông tu ở Quảng Ngãi rồi
sau đó đi ra Hà Nội và qua bên Tàu. Ông lại đi theo các ông sư Miến Điện về tu ở Miến Điện 5 năm, học ngôn ngữ và chữ viết Miến Điện rồi lại đi theo mấy ông sư nầy hành hương qua Nepal rồi đến Tây Tạng ở đó tu suốt 30 năm nữa. 

       Sư phụ tôi có thể nhịn đói 3, 5 năm mà
không chết và có thể chết 100 ngày hay 50 ngày rồi sống lại, ông đã biễu diễn nhiều việc làm tôi phải hết hồn.

Bất cứ ngôn ngữ nào trên thế giới ông đều biết cả. Tôi đã đưa một ông Đại tá người Đức tới thăm ông, lúc đó ông đang ở trong Chợ lớn được mấy người Tàu cất cho một cái am nho nhỏ để tu hành cùng với một tiểu đồng, khi người Đức tới hỏi tiếng Đức thì ông cũng trả lời ngay bằng tiếng Việt.

Lúc trước, tôi có dẫn một đồng bào người Thượng gốc Rhađê biết nói tiếng Việt tới hỏi chuyện với ông bằng tiếng Rhađê thì ông trả lời bằng tiếng Việt liền, người nầy hỏi cái gì ông lền trả lời ngay cái nấy.

Có lần, tôi đem ông Đại úy người Anh đến thì cũng được trả lời rất rành rẽ bằng tiếng Việt, khi ông nghe thì hiểu ngay nhưng không nói được thứ tiếng đó mà trả lời bằng tiếng Việt.

Tôi đưa nhiều người ngoại quốc tới gặp ông đều được trả lời bằng tiếng Việt rồi tôi thông dịch lại bằng tiếng Anh và đều được thỏa đáng. Sau đó tôi còn đưa một ông Đại úy Ấn độ tới thì cũng như mấy lần trước nghĩa là khi hỏi bằng tiếng Ấn thì được trả lời bằng tiếng Việt. Sau đó ông khuyên tôi là đừng mắc công đưa người ngoại quốc tới nữa. Ông tu đến mức là đọc được ngôn ngữ xuất phát từ tư tưởng con người.

Người ta nói gì mặc kệ nhưng ông đọc được tư tưởng của họ nên biết họ muốn hỏi về việc gì vì tư tưởng họ phát ra lời nói ấy. Rõ ràng là Sư phụ tôi đã tu đến cái mức cao thâm rồi.

Sư phụ đã chỉ dạy cho tôi cái pháp gọi là “Ngũ hành tương sanh tương khắc” để đở đạn, không bị đạn vô trong người. Sư phụ còn cho tôi biết, khi mình khấn vái cái gì mình không cần phải nói ra bằng miệng, mình chỉ nghĩ trong tư tưởng rồi chấp tay làm thinh khấn vái thì cái lời khấn cầu của mình sẽ tới người nghe liền, chỉ nhìn cái tư tưởng của mình là người ta biết ngay chớ không cần phải nói ra bằng lời.

Luyện pháp “Ngũ hành tương sanh tương khắc” là để khi đạn bắn vô người thì nó bị trợt
ra ngoài, nhưng muốn luyện cái pháp môn nầy phải mất công phu nhiều lắm. 

       Sư phụ tôi là người không những biết pháp mà còn biết bùa chú nữa. Chẳng hạn như có hôm, đang ngồi nói chuyện trong bàn tròn trước sân am của ông thì có một anh du đảng người Tàu say rượu bước vô nói bậy, nói bạ rồi tự kéo ghế ngồi. Sư phụ tôi nói :“Chú đi ra ngoài chơi !” Nó nói : “Ngộ không có li !” Ông đưa cái tay lên như vầy (giống như tung chưởng ra) tức thì tên nầy bật ngữa ra sau lăn mấy vòng, hoảng hồn chạy tuốt ra ngoài.

Còn bên trong am, tôi có cho ông một cái bàn viết bằng sắt của Mỹ với cái ghế còn rất mới, ở phiá sau lưng ông có một cái tượng Phật bằng vàng do người Tàu đem cúng nặng năm lượng để lộng trong một cái hộp bằng kiếng, khiến ai nhìn cũng ham muốn.

Nhiều đứa ăn trộm tới định đánh cắp nhưng khi vừa đưa tay ra thì đứng ngay tại đó luôn cho tới sáng, đợi ông thức dậy xin tha mạng. Ông đưa tay giải bùa cho nó, nó té xỉu xuống đất nằm một hồi rồi tỉnh dậy chay đi, nên thấy
ông Phật bằng vàng mà không ai ăn cắp được. 

       Còn tiền của ông để hai bên hộc bàn không bao giờ khóa mà không ai dám ăn cắp. Ông chuyên môn chữa bá bịnh, bịnh nào ông
chữa cũng hết. Tuy nhiên, bịnh nào không chữa khỏi thì ông nói chữa không được,ông nhìn mặt bịnh nhân là biết chữa được hay không (người Tàu trong Chợ lớn tin ông ghê lắm), bịnh mà mấy Bịnh viện chê đều đem tới cho ông. Tôi đã chứng kiến việc nầy nhiều lần, ông hỏi người bịnh đang nằm ngáp ngáp, ông vừa hỏi vừa lấy
tay rờ lên trán rồi ông để hai ngón tay dưới lòng bàn chân bấm vô một lúc là thấy hết ngáp ngáp. Ông nói :“Ngồi dậy !” là bịnh nhân tức thì ngồi dậy.

Kế đó,ông hỏi thẳng bịnh nhân bịnh tình thế nào rồi viết cho mấy toa thuốc, căn dặn kỹ lưỡng cách cho uống như thế nào.

Nhưng trước khi chữa bịnh, ông thường đặt vần đề tiền, ông bảo đảm bịnh nầy có thể chữa  sống hai năm nữa hay sáu tháng nữa hoặc một năm nữa. Ông thường nói thẳng vấn đề tiền bạc nếu thân chủ đồng ý là ông chữa, tùy theo căn bịnh mà ra giá, có thể là năm trăm ngàn hay tám trăm ngàn hoặc hơn nữa và cũng tùy theo kinh tế của gia đình người đó.

Mà hễ khi nói đến tiền là phải chạy ngay về nhà đem tiền đến thì ông mới chịu chữa, thường thì người giàu lấy nhiều còn người nghèo thì lấy ít. Khi nhận tiền, ông không
cần đếm lại cứ thẩy vô hai hộc tủ đó. Số tiền nầy ông không xài, ông có một lô đệ tử nghèo khổ đang làm thuê vác mướn, nếu vợ con gặp đau yếu thì tới ông, ông chữa trị giúp cho mà còn đưa tiền để về nhà lo chạy gạo hoặc mua thuốc. Đám nghèo khổ tới chữa bịnh đều được ông cho tiền.

Có một việc ông làm cho tôi sợ là từ năm 1970 đến 1974, mỗi sáng sớm ngày Rằm tháng Bảy là tôi phải đi vô am của ông, đem ông vô nhà sau tắm rửa cho ông. Lúc bấy giờ ông già lắm rồi, người của ông còn chừng hơn hai mươi ký lô còn cái vòng bụng của ông từ đằng trước ra
phía sau lưng thì không bằng một gang tay.

Thân thể ông chỉ như bộ xương vì từ năm 1970 đến năm 1974 ông không còn ăn gì nữa nhưng đi đứng vẫn bình thường,mỗi ngày chỉ uống mấy tách nước trà vậy thôi. 

       Mỗi sáng sớm ngày Rằm tháng Bảy từ năm 1970 tới năm 1974 là tôi phải vô tắm cho ông (mỗi năm chỉ tắm một lần). Tôi kỳ rửa bằng sà bông sạch sẽ rồi đưa quần áo cho ông mặc vô, sau đó ông nằm lên“đi-văng” đặt ở phòng khách rồi đắp mền lên người. Ông nằm dài ngay ngắn ra đó thẳng hai tay hai chân rồi niệm “Nam mô A Di Đà Phật” ba lần, rồi từ từ làm thinh luôn.

Ông đã dặn tôi trước đó, là :“Thầy sẽ chết giả 49 ngày”. Việc nầy bắt đầu từ năm 1970, thành ra tôi phải cho người nhà tới canh chừng 24 trên 24 giờ và giữ nhà cho ông.

Tôi sợ bị chuột cống lên cắn ông nên phải lấy mùng giăng cho ông trong thời gian nằm đó.

Khi ông nằm như vậy một lúc, tôi rờ thử lổ mũi thì thấy ông đã hết thở, còn thân thể tới chiều thì xám xịt và đến ngày hôm sau là lạnh ngắt như cái xác chết. 

       Đúng 49 ngày sau lúc 12 giờ trưa thì người trực ở đó cuốn mùng lên, lấy mền ra thì xác ông vẫn nằm nguyên đó, nhưng từ từ
tôi thấy mấy ngón tay ngón chân của ông bắt đầu nhúc nhích. Sau đó, ông ngồi bật dậy, lấy hai bàn tay chà lên mặt mấy cái rồi cười “hả hả” trở lại tươi tỉnh bình thường như cũ. Lúc ông chết giả, tôi có đưa Bs.Khả tới thử nghiệm. Ông Khả đem máy móc y khoa tới, ông dùng máy đo áp suất máu (tâm động đồ) thì chỉ
thấy một đường chạy ngang tức là tim không còn đập, nhưng khi dùng máy đo Encephalogram kiểm soát bộ óc coi có còn làm việc hay không thì thấy nó chạy bình thường giống như người đang nằm ngủ. (Bác sĩ Khả lúc bấy giờ cũng là đệ tử của ông). 

       Tới tháng Giêng năm 1974 thì ông nói trước :“ Ngày Rằm tháng Bảy nầy, Thầy sẽ về núi”. (về núi tức là chết thiệt).

Ông nhắn cho 12 người Đại đệ tử phải có mặt đầy đủ ở bên ông. Đến chừng đó, tôi mới biết tôi là người Đại đệ tử thứ 12.

Ông hẹn 10 giờ mới được gặp mặt, ai tới trước cũng không được vô. Đúng 10 giờ, chúng tôi bước vô thì ông ngồi dậy với tư thế xếp bằng. Ông nhắn nhủ rằng :“Cái đời khổ sắp tới rồi ! Các con phải rán giữ gìn tâm ý, làm điều thiện và lo tu hành”. Ông còn nói thêm một câu nữa :“Trước khi đi về thế giới khác, các con nên biết là 49 ngày của 4 năm sau cùng
nầy, Thầy đã đi về cõi khác (Thầy để cái xác nằm ở đây nhưng linh hồn về cõi khác), đường đi nước bước là Thầy rành lắm, nơi cõi khác đó, nơi thế giới khác đó đều có mặt những vị đã tu thành chánh quả. Qua sang năm (tức năm 1975) thì miền Nam sẽ gặp đại nạn. Người nào tiền nhiều thì tội nhiều, người nào chức trọng quyền cao chừng nào thì tội càng nặng chừng nấy. Hòa thượng, sư sãi, ni cô, cha
cố, dì phước tất cả mọi người đều phải tự cày cấy, trồng trọt mới có cái ăn.Dân chúng không còn có khả năng cúng dường nữa và cái đại nạn nầy sẽ trên dưới 30 năm rồi cơ trời mới chuyển, tự nhiên cái nạn nó mới hết”. (Khi Thầy tôi nói “trên dưới 30 năm” thì phải hiểu theo Toán học : trên 30 năm là 35 năm, dưới 30 năm là 25 năm, khoảng 10 năm đó là con số “du di” lên xuống cho nó chẳn.

Năm nay là 32 năm rồi thì hy vọng 3 năm nữa mới hết cái đại nạn). 

       Sau khi nói xong câu nầy thì Thầy cho phép đệ tử mỗi người được hỏi một câu hỏi.

 Bắt đầu là Đại đệ tử thứ nhứt được lên hỏi, mà muốn câu hỏi không cho người khác biết nên phải kê miệng vô lổ tai ông nói nhỏ rồi kê lổ tai vô ngay miệng ông để nghe câu trả lời.

Người Đại sư huynh của tôi là một ông Lục người Cam-pu-chia, ông ở đâu dưới miền Nam đến khi ông tới đây, tôi mới được biết. Lúc đó ông đã hơn 80 tuổi rồi, vì là người Việt gốc Miên nên nói được tiếng Việt.

Sau khi nghe Thầy trả lời, ông chắp tay xá một cái rồi đi xuống ngồi yên lặng ở đó, kế đó, tất cả mọi người tuần tự đi lên.

(Bữa đó, Bác sĩ Khả được ông Thầy cho phép nên cũng có mặt. Bác sĩ Khả chỉ là đệ tử người sư huynh của tôi vì cũng muốn học môn nhịn đói). Tôi là người Đại đệ tử cuối cùng nhưng nhường Bác sĩ Khả lên trước. Ông Khả lên đặt miệng vô lổ tai ông Thầy hỏi một câu, sau đó định kê lổ tai vô miệng Thầy để nghe trả lời thì ông Thầy lấy tay đỡ mặt Bs. Khả ra rồi nói lớn lên câu : “Phụ mẫu tại đường
bất khả viễn du”.

Ông Khả nghe xong quỳ xuống xá một xá rồi đi xuống ngồi yên.

Đến lượt tôi lên, tôi hỏi nhỏ :“Thưa Thầy ! Nếu cái chuyện nó xảy ra như Thầy nói, con phải làm sao ?”. Ông nói nhỏ trong lổ tai tôi rằng :“Con nghĩ sao, con làm vậy.” (có nghiã là lúc cái đại nạn nó tới, tôi nghĩ sao thì tôi làm vậy). 

       Vì vậy, khi gần tới ngày 30 tháng Tư năm 1975 tôi đã cho vợ con tôi lên máy bay đi Mỹ trước theo đám Cố vấn Mỹ mà không cần giấy tờ gì hết, vì lúc đó tôi đang làm Thứ trưởng của Phủ Quốc vụ khanh đặc trách cứu trợ nạn nhân định cư. Tôi nghĩ, tôi có khả năng nhịn đói cả tháng nên có thể vô rừng ở hoặc đi bộ qua Thái Lan cũng dễ dàng nên quyết định ở lại.

Cuối cùng, như một phép lạ tôi được đưa lên trực thăng tại DAO ở Tân sơn Nhứt bay ra hạm đội Mỹ vào giờ thứ 25 với tư cách là một Mục sư Tin lành chớ không phải là một Thiếu tướng của Quân lực VNCH./. 

Nguyễn văn Hiệp
---------------------------
 

 Tôi có đọc được một số kinh, sấm cơ của một số đạo giáo miền Nam VN có nói thời  điểm trời đất tối đen 3 ngày đêm, ma quỷ đầy đường, loạn lạc chết chóc rất nhiều nhưng không phải là tận thế mà là sự thanh lọc, những kẻ thiện lương sẽ được giữ lại lập đời thượng ngươn thánh đức.

 Bộ mặt của địa cầu thay đổi,  nhiều vùng đất sẽ chìm mất không còn trên bản đồ, trái đất sẽ lệch trục khoảng 90 độ, từ đấy mặt trời sẽ mọc từ phương chính Bắc, Việt Nam sẽ hưởng khí hậu ôn hòa và là thánh địa của thế giới. Vị minh vương thánh chúa sẽ ra đời cứu dân độ thế, ngày ấy sẽ không còn xa.

Bọn CS Tàu và Việt , Cuba, Bắc Hàn sẽ cáo chung và đền tội ác.Một số các nước Âu Châu mang nhiều tội ác với nhân  loại cũng sẽ chịu nhiều thảm cảnh.

Ngay bên Thiên chúa giáo cũng có nói về 3 ngày nầy .

Xin hé lộ cho mọi người là vị minh vương nầy đã được ơn trên thọ ký và hướng dẫn tu hành trong một thâm sơn từ hơn 37 năm nay; vị nầy đã đạt được trình độ có nhiều quyền năng siêu nhiên ( phép thần thông ) sẽ xuất thế khi thời cơ đến.

Tôi gởi kèm đây một bản cơ sấm của đạo Cao Đài được ban vào năm Canh Tý (1960 ). từ đó đến nay tất cả những sự viết đã qua đều đúng như cơ sấm nói, xin mọi người đọc và phổ biến, xem thật kỹ ở những đoạn nói về thời cuộc thế giới và Việt Nam.

Quý vị cũng nên tìm đọc lại tài liệu Ông Đạo Nhỏ do Thiếu tướng Nguyễn Văn Chức ghi lại đã được gởi lên net trước đây.

Có điều là tướng Chức hay  ông Đào Minh Quân  gì đó nếu có mệnh trên giao thì cũng chỉ ờ nhiều lắm là hàng Bộ Trưởng hay Đổng Lý văn phòng gì đó mà thôi.

Còn các vị tự xưng thần xưng tướng, vua chúa gì đó đều là những cái loa truyền báo về sự ra đời của vị thánh chúa chính thức mà thôi.

Trân trọng . LÍNH GIÀ .

 

 

 
  CHƯƠNG TRÌNH LONG HOA  
 
Tý thời, ngày 18 tháng  5 năm Canh Tý ( 1960 )
 THI:    NHỊ thập bát môn chuyển cửu trùng
          LANG đài Phật pháp quảng bao dung.
          HIỂN linh LONG hội HOA  Thiên Định
          THÁNH, Phật, Thần ,Tiên độ kẻ trung .
Chào  chư Thiên mạng đàn tiền đẳng đẳng có Khương
Thái Công ngự bút. Tiên Thánh xin xuất ngoại hộ cơ.
                             Tiếp diễn : Thi
          KHƯƠNG ninh  thạnh trị biết bao lần
          THÁI lập thương đời có đặc ân.
          CÔNG đức cao dày
 ra chiếm bảng
          GIÁNG khai ngươn hạ đại phong thần.
          Lão chào mừng chư Thiên mạng, lão đên
đây phụ trách cùng đức DI LẶC PHẬT VƯƠNG để thỉnh  PHẬT, TIÊN, THÁNH, THẦN đến chứng minh việc sắp
chương trình LONG HOA ĐẠI HỘI. Vậy  chư
Thiên mạng cung nghinh, TAM TRẤN, TAM GIÁO cùng ĐỨC NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ lại
lâm chiếu  chỉ để chư Thiên Mạng thọ ký
xem đó làm bước  tiến hầu có thi hành
trách vụ của mình mà Chí Tôn giao phó. Lão chào chung tất cả đàn tiền. Lão kiếu.
                             Tiếp điển  :  Thi
          THẦN , TIÊN hội lại luận chương trình,
          VIỄN TRẤN THẦN OAI đến chứng minh (
thăng )
          NAM HẢI QUAN ÂM tùng thính lịnh (
thăng )
          GIÁO TÔNG THÁI BẠCH ngã KIM TINH.
          Tam Trấn mừng chư Thiên mạng. Khá  thành tâm cung nghinh Tam Giáo lâm cơ chứng
đàn ( thăng )
                             Tiếp điển  : Thi
          THÍCH CA PHẬT TỔ giáng trần gian (
thăng )
          THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN đến chứng đàn (
thăng )
          KHỔNG THÁNH NHO TÔNG ra chuyển thế (
thăng )
          Ban ân đồ đệ tiếp THIÊN HOÀNG ( thăng
)
                             Tiếp điển  :  Thi
          HỒNG QUÂN LÃO TỔ hóa phân trời ( thăng
)
          KIM MẪU DIÊU TRÌ chứng kiến nơi (
thăng )
          Cha  cả linh hồn thầy NGỌC ĐẾ
          Ban ân lớn nhỏ khá nghe lời.
          Thầy linh hồn mừng mỗi con nam nữ ấu tử
có mặt giờ nầy Thầy ly cung Bạch Ngọc đến chứng lể và sắc chỉ cho DI LẶC PHẬT
VƯƠNG truyền lời việc LONG HOA ĐẠI HỘI để cho các con phân phụ trách. Thầy đã
có đặc ân cho KHƯƠNG THÁI CÔNG , vậy các con khá tuân lịnh.
                   Thi :
          DI LẶC thầy giao lịnh chưởng quyền
          LONG HOA ĐẠI HỘI thỉnh thần tiên.
          Tay cầm ấn ngọc ban và thưởng
          TAM GIÁO CÔNG ĐỒNG sắc chỉ truyền.
Thầy ban ân lành
các con. Thầy hồi Bạch Ngọc.( thăng )
                   Tiếp điển  : Thi
          DI vì Thánh lịnh của Trời ban
          LẠC hội công đồng tại thế gian.
          PHẬT luật y hành cho phải phép.
          VƯƠNG mình trạch đức mới phân phàm .
BÀI :
          *Cuộc trần hoàn khai Thiên chí cực
          Nay phục thỉ phản lực quy nguyên
          Khiến nên nhân loại nan tuyền
    Ngũ châu xáo trộn đảo điên trần hoàn.
          *Đại quốc mạnh bất công luật pháp
          Tiểu nhược nguy nan đáp hoàn bình.
          Phải cam tâm chịu lụy mình        
   Sớm TẦN chiều SỞ thân hình ngẩn ngơ.
          *Do tịch địa Thiên cơ mới mở
          Lập Tam Kỳ phản trở Thượng Ngươn
          Lạc loài đạo đức chơn nhơn
  Tồn sanh nguyên chưởng trong cơn mạt đời.
          *Tiên khai đạo Thầy Trời chuyển hóa
          Phân Tam Giang danh tá CAO ĐÀI
          Càn khôn chúa tể linh oai
  Độ đàn con dại trần ai khổ sầu.
          *Nay đúng giờ quy nguyên TAM GIÁO
          Hòa hiệp ngày cấp tảo chưởng binh.
          Cao tân cộng hưởng đồng tình
  CAO ĐÀI DUY NHÂT TỔ ĐÌNH TRUNG ƯƠNG
          *Đưa anh tài đống lương đạo đức
          Rước vĩ nhân trí thức dụng hòa
          Đạo đức hiền hiếu quốc gia
   Lên bờ Tây vực được qua Bắc Đài.
          *Chúng đệ tử Phât nay nghe lịnh
          Sắc chỉ ta phụng thỉnh Ngọc Hoàng
          Cầm cân thưởng phạt trần gian
   Trước lo trị Đạo, sau toan trị đời .
          *Lý do ta để lời tuyên bố
          Lập chương trình ức độ LONG HOA
          Khổ lao Tiên Phật hằng hà
   Cồn dâu hóa bể luật đà đổi thay .
          *Đạo tỷ số không ngoài ba sáu
          Đời hai ngàn tuyên cáo cũng trong
          LONG HOA khai diễn đại đồng
  Nạn tai người thế khắp trong trần hoàn.
          *Thu than cảnh Đông tàn để lại
          Xuân không già hóa phải hoa râm
          Lần tay tính lại mấy năm
  Thiên sanh ư Tý ngoạt canh nhựt thời.
          *Đừng ngạo biếm lẳng lơi tấc dạ
          Chớ khoe khoan trồng đá dời sông
          Trời Nam phụng kiến ngô đồng
  Đất vàng hạt quý cá rồng phi thiên.
          *Đời danh lợi quý quyền chen chúc
          Đạo không ngoài lúc thúc chạy theo
          Bên lền đường cái thông reo
  Bóng huỳnh thấp thoáng trông theo đèn mờ.
          *Cảnh hùng vĩ cẩn cơ nhân loại
          Tiếng ó reo bên bãi tha ma
          Lời than nầy cửa, nọ nhà
Giấc mơ tỉnh dậy
trời đà quá trưa.
          *Cày sao còn NGHIÊU chưa đủ lối
          Cuốc nguyệt đài THUẤN vội thôi đi.
          THẠCH SÙNG danh lợi còn gì
  NHAN UYÊN bầu nước có chi nhọc nhằn.
          *Lấy chuyện xưa phân trần tích củ
          Dẫn việc nay nhắn nhủ cho đời
          Người nay sao lại lỗi thời
  Đạo không ra Đạo mà đời cũng không.
          *Đời mê ngủ thôi không hy vọng
          Đạo mơ màng tiếng trống điểm sang
          Thu qua rỉ rả Đông tàn
  Đông tàn thì cũng thương tan nỗi niềm.
          *Từ bao lâu môn đồ trông ngóng
          Nay làm sao đặng trọn đức hiền
          Còn gì thống nhất quy nguyên
  Còn gì chi phái ảo huyền mộng mê.
          *Đời mong vọng đường về tổ quốc
          Đạo không cần Bạch Ngọc ở đâu.
          Trót sa chân khỏi nhịp cầu
  Gọi rằng qua vịnh gọi đâu bến bờ.
          *Không hay biết thời cơ huyên náo
          Thì cho rằng phép Đạo chẳng linh.
          Chư môn bởi thiếu đức tin
  Mò lần đêm tối bất bình lối đi .
          *Tý canh nghiệp huyền vi chuyển hướng
          Tý 12 thạnh vượng thái hòa
          Khi lành ngắm nhả làm hoa
  12 Nhâm Tý còn xa dặm dài.
          *Trong hai ngàn bảy hai niên vận
          Ngoài tám tư ba tám ngoạt canh
          NGÔ ĐỒNG PHỤNG ĐẬU SƠ CÀNH
  CÂY LAO ĐỢI TUYẾT TRỔ XANH BÔNG VÀNG .
          *Xa tiếng vạc kêu vang đêm vắng
          Gần nhôn nhao cờ trắng quanh cầu
          Ó vàng có chọi diều hâu
  Trên cành cu gáy bồ câu rủ về .
          *Đường dặm  dài lối dê in dấu
          Bóng trăng tà khuất dậu tre xanh
          Bao nhiêu thời sự bất thành
  Bấy nhiêu dâu bể tan tành còn chi.
          *Nơi sơn đảnh còn gì ngọc đá
          Chốn thung tòng hoa quả thiên minh
          Vài hàng cao ẩn bút tình
  Đề thơ tuyên bố CHƯƠNG TRÌNH LONG HOA.
          *Phần khai thông cùng là tư tưởng
          Nhắm mục tiêu ấn tượng ngay vào.
          Gìn lòng đạo đức tương rau
  Lập trường bác ái được vào thi khoa.
          *Đời bình trị mới là chế giảm
          Mới phân ra cửu phẩm, tam thừa
          Cái dày, cái nhặt, cái thưa
 Đạo trong tỷ số chỉ chừa một thôi.
          *Mỗi hướng lãnh dụng thời khả đắc
          Có vậy liền tay bắt miệng hô.
          Chung tay lo cứu tiền đồ
Trên thì đạo đức
gấm tô hoa màu.
          *MỘT LỜI NÓI LÚC NÀO CŨNG VẬY
          SƠ MỘT LỜI TỔN HẠI KHUYNH NGUY 
          LONG HOA ĐẶC TRÁCH NHIỆM KỲ
  MỘT LỜI SAI LẠC ẮT THÌ MÃI SAI.
          *Phải cặn kỷ một hai chu đáo
          Xem tận tường người Đạo thật thà
          Việc gì họp lại năm ba
  Bàn cho cạn lý đem ra thực hành .
          *Trước ma quỷ vuốt nanh xiềng xích
          Rủi lâm vào mục đích chết thôi
          Sợ Trời hơn cả sợ người
  Trung thành đạo đức đặng ngôi đại thần .
          *Phần Hiệp Thiên ân cần ổn cố
          Ban thỉnh mời Tứ Bộ giáng đàn
          Phật, Tiên xuống chốn trần gian
  LONG HOA ĐẠI HỘI giáng đàn diễn khai.
Vậy chúng đệ tửnghiêm
chỉnh đàn tiền có Tứ Đại Bộ Châu đến khả cung nghinh , bần tăng kiếu(thăng).
                   Tiếp điển : Thi
          Tứ Đại Bộ Châu đến tá cơ.
          Giáng lâm trần thế một đôi giờ.
          Chương 
trình đại sự ghi vài điểm
          Bút ngọc để lời mượn phú thơ.
          Lảo chào mừng chư Thiên mạng đàn tiền
đẳng đẳng được phép tọa thoàn nghe lão khải giáo.
Bài :
          Ngồi đàm luận chư huynh Đông Bắc
          Ánh hào quang ngũ sắc chói ngời.
          Phật vương Di Lặc  đến nơi
Bước  vào vui vẻ liền mời ta đây.
          *Trời trong lắng tiếng chày trong xóm
          Đất tươi mầu mấy khóm hương lan
          Sắc vâng đại diện giáng đàn
          Rằng ta Nam Thiện Hồng Bàng là đây
          *Lần tay tính năm này cũng Tý
          Tý mấy kỳ Thiên ý đã phân
          Tý khai, Tý chuyển mấy lần
  Tý Canh đã đến hồng trần gian lung.
          *Tý Nhâm đến quanh vùng thế giới
          Đặng an lành lạc thới âu ca.
          Chim linh đậu trước thềm nhà
  Là điềm đại họa Long Hoa diễn tuồng.
          *Ta nhận thấy vô phương cứu cánh
          Tý bao giờ bóng ảnh sai đâu.
          Gượng vui cười đặng che sầu
  Buộc lòng đến chúng thất câu ngỡ ngàng.
          *Phải chứng cảnh lầm than thảm khốc
          Nhớ khi phân Trời Đất đến giờ
          Chưa hề náo nhiệt Thiên cơ
  Mà nay náo nhiệt thẩn thờ thân tâm.
          *Một thời gian ba năm lặng lẽ ( ha )
          Liên miên trường trông thấy buồn tanh.
          Đó là ngày Đạo đã thành
  Thành ngày tận thế nhân sanh khổ lòng.
          *Tay hướng lãnh tiền phong chức sắc
          Bịnh trầm kha nghèo ngặt thuốc chi.
          Linh đơn có những thứ gì
  Nằm trên tủ thuốc phải thì chịu đau.
          *Lời ngụ ý hiểu sao tự xét
          Máy Thiên cơ lậu thiệt khó lòng.
          Lượng mình đảm nhiệm Thiên phong
  Thiên Vương đến dự giã trong đàn tiền.( thămg
)
                   Tiếp điển : Thi
          Ngã Thiên tướng giáng miền trần thế
          Chào  chư Thiên tịnh để nghe ta
          Đặng thơ Di Lặc thỉnh mà
  Mời ta phê chuẩn Long Hoa chương trình.
          *Đề một chữ đồng tình sanh chúng
          Ghi một lời bóp bụng nghe theo.
          Éo le máy tạo ngặt nghèo
  Than ôi họa phước đều theo hành tàng.
          *Tý Canh nghiệp muôn ngàn khổ não
          Đến Giáp Thìn trận bảo khồ đau
          PHAN VƯƠNG, NGUYỄN TÁI, TRẦN GIAO
  Thìn thăng, Tý xuất tiêu hao vạn loài.
          *Người ăn muối kẻ thời khát nước
          Nghĩ buồn cười mưu chước lung tung
          Ai rằng ta cũng anh hùng
  Khoe khoan chánh nghĩa, tận trung giống nòi.
          *Hùm ngồi chuồng chờ coi thịt lại
          Tận vào mồm mới nhảy lung tung
          Chẳng may gặp choảng beo rừng
  Vồ ngang bị táp nhãy tung chạy đùa.
          *Beo đắc thế hục hùa theo dính
          Hùm bao giờ chịu nhịn hay sao.
          Đôi bên đều trổ tài cao
  Cả hai lòi ruột chẳng nào còn nguyên.
          *Một dãy núi một chuồng trong ổ
          Kiếp thú cầm quái gở biết chi
          Người sao cũng tánh ta thì
  Hết đời beo cọp còn gì lo toan.
          *NHỰT, NGUYỆT, TINH ba  lành sinh khí
          Nguyệt tinh đông đêm ví có nhau
          Sáng trăng thì chẳng có sao
  Sao nhiều đêm tối trăng nào còn đâu.
          *Đồng sanh khí trong bầu trời đất
          Quyết liệt vì tính chất hùng thiêng.
          Làm cho quả đất chinh nghiêng
  Thần hao, tinh kiệt khí riêng lạnh lùng.
          *Luận Thiên cơ nghiệm cùng thân thế
          Có phải đời tận thế hay không ?
          Tới đây vừa mãn diễn đồng
  Ta rời phận sự ghi trong chương trình. (thăng
).
                   Tiếp điển  ; Thi
          *Đang luận xét chương trình định đoạt
          Đặng phúc chơ Di Lặc đến liền.
          Ta là đại diện TẢNG TIÊN
  NGÃ TÂY PHƯƠNG SÓC giáng miền trần gian.
          *Chào Thiên ân trung đàn nghiêm chỉnh
          Được tọa thiền an tịnh nghe phân.
          Lệ rơi từ giọt thương trần
  Đề thơ chứng kiến hồng trần gian nan.
          *Lần tay bấm từ trang thế kỷ
          Dắt tay nằm suy nghĩi ngổn ngang.
          Than ôi máy tạo hành tàng
  Bánh xe luân chuyển trần hoàn đổi thay.
          *RỒNG uốn quanh đầu quay đất Bắc
          Mình tại LÀO đuôi vắt qua NAM.
          Chân đưa đất MIẾN thung CHÀM
  Kỳ dương lộn xuống THÁI LAN phi đằng.
          *HẠ UY DI bóng trăng vần vũ
          Chốn MÃ LAI tinh tú hiện ra.
          Trời chiều bóng ngã ác tà
  ĐÀI LOAN núi đá phun ra tít  mù.
          *THĂNG LONG cảnh lu bù khói lửa
          Khách vi vu rải họa trời ÂU.
          Hiềm Ý ĐẠI LỢI buổi đầu
  BÁ LINH tiếng trống canh lầu điểm sang.
          *Dù muốn không cũng trông đến đó
          BỈ xâm rồi phải có HÒA LAN
          Làm cho khách tới lạc đàng
  LIÊN cùng GIA NÃ nào an cõi lòng.
          Viễn khắp nơi thiên long địa chấn
          Cả muôn vùng những trận cuồng phong 
          Gớm ghê những phút thủy hồng
  Chia rành kinh tuyến rẻ đồng BA TƯ
          *Nhiệm vụ ta từ từ gác bút
          Đã xong rồi đôi phút luận bàn
          Giả từ chư đệ lưỡng ban
  Ta về đồng nội tính toan sau nầy .
                   Tiếp điển  : Bài .
          *Nhìn Nam, Bắc , Đông, Tây bốn hướng
          Ngó xuống trần khí tượng xung thiên
          Lần tay tính lại mấy niên
  Xem coi trần thế dữ hiền ra sao.
          *Phút KHƯƠNG THƯỢNG bước  vào ra mắt
          Rằng có thơ Di Lặc gởi mời.
          Nãy giờ lão đợi hết hơi
  Chờ TÂY PHƯƠNG SÓC dứt lời ra sao.
          *Bần đạo đây VƯƠNG NGAO LÃO TỔ
          Để đôi lời cứu bổ chương trình.
          Chư hiền tỉnh tọa tâm thành
  TU HÀNH THÌ ÍT, GIẢ DANH THÌ NHIỀU.
          *Có ăn chịu đành tiêu diệt đáng
          Không ăn thì cũng nán họa tai.
          Từ xưa kinh sách phô bày
  Dạy đi nhắc lại có ai đâu hành.
          *Ngao ngán thay kỳ sanh nguyên tử
          Hóa chất nầy đâu tự muôn đời
          Ngũ hành sắp biến tới nơi
  Hành tinh diễn tự một thời chín ra.
          *Một có chín , chín thời tám mốt
          Tám mốt là tính nốt bao nhiêu?
          Tử đi sanh khắc một chiều
  Ngũ hành chinh chống binh tiêu diệt người.
          *Biến hóa đây thay Trời chẳng đặng
          Vâng lịnh Trời lãnh lịnh kỳ ba
          Coi chừng CANH NGŨ ướm ra
  Lôi đình chấn động trỗi ba quốc hồn.
          *Chim chắp cánh bay lần BẢY NÚI
          Cá quật đuôi mừng lội qua sông.
          Cây khô khỉ ngó thèm bần
  Cỏ rầu nội quạnh mong cần có đâu .
          Chương trình luận để vài câu
  Giả từ đàn nội ta thâu điển hồi .( thăng ).
                   Tiếp điển  : Bài.
          *Luận về đại hội nhơn sanh
          Đời thay, đạo đổi ngũ hành chyển luân.
          Xuân GIÁP THÌN nửa mừng nửa khóc
          Năm não sầu trách móc đệ huynh.
          Gây bao nhiêu chuyện bất bình
  Mang về tai họa chống kình với nhau.
          *Hạ tiếng ve gọi sầu tỉnh lại
          Đạo phân trần phải trái chuyện xưa
          Nước đời trong lóng đục ngừa
  Mồi ngon lưỡi béo cũng vừa lòng tham.
          *Ngoài 16 phân đoàn vĩ tuyến
          Trong NAM nầy uyển chuyển pháo xe
          HOÀNH SƠN câu thúc nhiều bề
  Đoàn ong tấp nập kéo về CHI LĂNG.
          *Nơi DIỆN THIỀN cầm đăng khải trí,
          Chốn chương tòa suy nghĩ vẩn vơ.
          Nước non trong cảnh mịt mờ
  Ngày sau phó luận bấy giờ gặp ta.
          *Thu phong thủy sông Hà tràn tới
          Cảnh mịt mù đi có về không
          Thái dương rọi trước phương Đông
  Đến năm ẤT DẬU LẠC HỒNG điềm may.
          *Gà  eo óc niên dài ngoạt vắn
          Chó lạc đường về đặng yên nơi
          Heo ra muôn cảnh rã rời
  Nước dâng tràn khắp tơi bời dân NAM.
          *Chuột ngoi ngóp tìm đường lẩn tránh
          Trâu quay về tạm cảnh yên nơi
          Nhân dân than khóc ngất người
  Tai trời, ách nước ôi thôi khắp cùng.
          *Lần tay tính còn quên hay nhớ
          GIÁP NGỌ rồi TẦN SỞ chia hai.
          Trên đường lao lý dặm dài
  Ngày đi tháng lại những ngày thương tâm.
          *LONG HOA điểm đầu CANH TÝ luận
          Bao niên trường Hoàng chủng uy danh
          Mười hai lần chyển ngũ hành
  ĐÔNG ÂU, TÂY Á tan tành còn đâu.
          *Thủy hỏa phong hoàn cầu chấn động
          Trảm long xà nhất thống phong cương.
          Đến năm ẤT DẬU mới tường
  Ai còn, ai mất, ai thương chủng loài.
          *Qua Kỷ Dậu Phật ngài phán xét
          Còn Thanh Long, Minh Nguyệt bài khai.
          Lần lần chữ Vạn bùng bay
  Trăng sao mây án đổi thay dạ cầu.
          *Nước non nhuộm một màu xanh xám
          Núi sông dài bao quản chi chi.
          Đạo khai đã đủ Tam Kỳ
  Đem về một mối để quy chủng loài.
          Chủ nhân ông CAO ĐÀI phán đoán
          Quỷ thần hờn người oán than ôi.
          Thiên khuynh TÂY BẮC phục  hồi
  ĐÔNG NAM thể chất khuyết rồi lại tan.
          *Lấp biển THÁI qua hào ĐÔNG Á
          Số 
thành NAM vào ngã TÂY PHI.
          Bàn tay NAM TỘC có gì
  Chuyển người ngoại tộc tới quy Hán thành.
          *Mượn ngũ châu nhựt hành, nguyệt hãn
          Dụng cán cân nền tảng ĐÔNG ÂU.
          Trả vay chung thủy đáo đầu,
  ĐẠI TÂY DƯƠNG chuyển, ĐÔNG ÂU điêu tàn.
          *ẤN, MÃ, MIẾN tiếng than ai thấu,
          NAM HÀN cùng MÃ TỔ, KIM MÔN,
          TỨ XUYÊN sông đã dập dồn
  LIÊN BANG xáo trộn nó dồn TƯ KHOA.
          *HIỆP CHỦNG QUỐC thành HOA THẠNH ĐỐN
          Phẫn uất lòng hổn độn khóc than,
          Không khoe giàu có bạc vàng;
  Một cân bạc đổi một tràng cân rau.
          *Xà hãm tỉnh lọt vào trong lưới
          Quyết 
liệt rồi thế giới điêu tàn.
          Tam ngươn xoay chuyển trần hoàn,
  Dầu không dầu muốn họa tràn cũng chung.
          *Năm tháng ngày lao lung từng khúc,
          Không thời gian một phút yên đâu,
          Đao binh óng dậy buổi đầu
  Bảy năm bước một đâu đâu cũng đều.
          *Hết chủ nghĩa danh nêu cùng khắp,
          Tới khoa trương chủng tộc dẫy tràn,
          Lập thành trận địa nát tan,
  Tai nguy khí độc chiến tràng thi nhau.
          Nạn nguyên tử tiêu hao 5,6
          Tai họa Trời huyên náo 2,3
          Cộng đi đếm lại rõ mà
  Mười hao tám, chín mới ra thái bình.
          *Để cứu vãn tình hình nhân loại,
          CAO ĐÀI chọn giống NAM GIAO
          Nguyên linh bày bố đạo cao trận đồ.
          *Cửa
sanh ly bước  vô Bác quái,
          Mở đồ thiên trấn tại Hà Tiên.
          CỬU LONG MÔN, NGUYỆT HẬU MIỀN
  Trung giang CỬU KHÚC nối liền Khảm khai.
          *Thất thập địa Bồng Lai Khôn trấn,
          Chỗ thần tiên lượt trận xuất binh
          TÂY NINH tổ ấm gia đình
  Là nơi QUỐC HỘI vạn linh luận bàn.
          *Trung tâm Bạch Hổ quang bày bố,
          Cửa Tây cung Hắc hổ huỡn sanh,
          CỬU LONG phún thủy mây thành,
  Trong ngày thất dạ ngũ hành bình yên.
          *Phân phàm thánh ca tràng tuyển lựa
          Khúc BẢO GIANG tôi chúa vui mừng.
          BỬU TÒA thanh thế TRUNG HƯNG
  THÁP MƯỜI hoa lệ đổi rừng AN GIANG.
          *ĐỒNG THÁP ngóng thở than lệ đổ,
          Đất ĐỊNH TƯỜNG dời chỗ đổi sông,
          Một giờ địa chấn lôi phong,
 SÀI THÀNH, HÀ NỘI, HẢI PHÒNG còn chi.
          *Mười hai năm vật gì cũng đổi
          Đất PHÙ TANG rùng dội rên la,
          Sóng tràn địa lục TRUNG HOA,
  ĐÀI SƠN núi đá phun ra ngất người.
          *Chớ hấp tấp vội cười đây đó
          Than một lời lệ đổ thâm bâu,
          Đổi thay trọn quả địa cầu
  Cao tài DUY VẬT đáo đầu mới hay.
          *Cứ mãi miết đua tài kình chống
          Vẫn hoài hoài nuôi mộng đấu tranh
          LỚN XÚI DỤC, NHỎ TÁN THÀNH,
  ĐẤU TRANH AI HƯỞNG CHỈ RÀNH ĐÂY COI.
          *Đường tên đạn đường toi sinh tử
          Có mấy đời hung dữ vẹn toàn,
          Thì ra cướp trộm giàu sang,
  Còn người hiền đức lang thang tội tù.
          *Đời tàn bạo bóng cu chóng mất,
          Chơi dao thì định chắc bị dao,
          Xưa nay chém giết anh hào
  Vui say súng đạn ai nào toàn thây.
          *Hội THẦN THÁNG ĐÔNG TÂY NAM BẮC
          TAM GIÁO TÒA vỡ luật xét minh,
          Dù cho dạ sắt lòng đinh
  Lệ vơi dài vắn đồng tình xiết bao.
          *Vì chơn linh nhiều màu xinh xắn,
          Lớp thú cầm tu đặng hóa than,
          Oán gây chuyện trước Phong Thần
  Kẻ đôn người đốc, kẻ mừng kẻ lo.
          *Luật Thiên định không cho huỡn xác
          Lẩn linh hồn thưởng phạt vong tồn .
          Diệt luôn một số linh hồn,
  Không đày,  không đọa, bảo tồn cũng không.
          *Đại nguyên căn khó lòng cứu vãn
          Phạm sát sanh là phạm Thiên điều.
          Tu hành đã có mục phiêu
  Không thương  đừng ghét bây nhiêu là còn.
          *Chương trình điểm ngời son khó nhoc,
          Nhứt định rồi thưởng phạt rõ ràng.
          Người sầu, quỹ khóc, thần than
  Trời thay,  đất diệt thế gian tan tành.
          *PHẦN THỨ NHẤT: Chiến tranh gây hấn,
          Tức  bực rồi đại nào thứ ba.
          Chín năm tan nát cửa nhà
  Họa  phân chủ nghĩa bất hòa gian lung.
          Ngôi thứ BA anh hùng trổ mặt.
          *PHẦN THỨ NHÌ : Tính chất DUY TAM
          Chia ra tôn giáo ba phần,
  TÂY PHI,  BẮC ẤN chiếm lần ĐÔNG NAM.
          *PHẦN THỨ BA : Ôn hoàng vận chuyển
          Gió mưa hòa sấm điện chớp giăng
          Lành còn dữ mất chưa yên
  Long kỳ,  cù rống liên miên ầm đùng.
          *PHẦN THỨ TƯ : Đất rung núi ngã
          Bao lâu đài đổ xả thây phơi,
          Cho gà tiếng bặt đêm ngày
  Đường  không nhà trống chẳng ai một người.
          *PHẦN THỨ NĂM : Đổi trờii thay đất
          Chuyển ngũ hành thất nhật liên mien
          Công đồng PHẬT, THÁNH, THẦN TIÊN
  TÂY  PHƯƠNG CỰC LẠC tại miền trần gian.
          *PHẦN THỨ SÁU : Thiên Hoàng  trở lại
          Phân càn khôn thế giới ra tư
          Thái  Dương chính BẮC lên từ.
  Thái  Âm
luân chuyển đêm như ngày giờ.
          *PHẦN THỨ BẢY : Chia bờ ranh giới
          Lập Địa Hoàng vận đổi cỏ cây
          Bốn mùa thời tiết Đông Tây
  Mưa  hòa
nắng dịu gió mây trong vòng.
          PHẦN THỨ TÁM : NHƠN HOÀNG trị thế
          Đạo đức gìn luật lệ an bang
          LONG HOA đẵ hết lệ tràng
  Âu CA LẠC NGHIỆP bình an vui vầy ( thăng )
                   Tiếp diễn  : Thi
          DI về cao thượng mật tâm thư
          LẠC  nẻo xa xăm cách bến bờ.
          PHẬT PHÁP tà quyền nên biến cải
  VƯƠNG trong thập ngoạt đổi Thiên cơ .
          THI : Vì việc tà thần mới đổi thay
          Làm  cho đệ tử phải ai hoài.
          Bản đồ lậu sự nên thâu lại
  Tạm một thời gian Phật đảo đai.
          BÀI : Nay Phật vương ban ân đệ tử
          Tỉnh  tọa thiền ưu lự nghe phân.
          PHẬT nay xuống chốn hồng trần
  Để lời chỉ bảo Thiên ân lo lường.
          Từ tam miền trung ương cũng thế,
          Bảng  HUỲNH ĐẠO tạm bế thời gian.
          Tà ma lợi dụng đạo vàng
  Giả  danh
giả nghĩa làm càng chẳng kiên.
          *Lũ yêu quỷ Thần tiên chẳng kể
          Phải tạm ngưng quyền thế nhất thời
          Chẳng nên thố lộ cơ Trời
  Làm  cho
ma quỷ tiếng đời mỉa mai.
          *Hạ tấm bảng Thiên Khai Huỳnh Đạo
          Đợi  đến ngày Phật bảo hành bương.
          Khuyên đệ tử dạ chớ sờn,
  Có ta trị thế khải đời thiên minh .
          *Ngày Thiên khai huỳnh đạo trở lại
          Ấy là ngày khai tại Vĩnh Long       
          TÂN HÒA TỰ có sắc phong
  Là cơ  DI
LẶC đại đồng uyên thâm.
          *Quỷ xuất hiện miền đông thành nội,
          Để phô bàn cái dối giả danh
          Lợi dụng Thiên Khai Đạo Huỳnh,
  Cũng  cơ
bút chuyển huyền linh NGỌC HOÀNG.
          *Lòng dục vọng nhân tài đô thị
          Tưởng đâu rằng Thiên ý bài khai
          Nào ngờ lũ quỷ dụng oai
  Mượn danh NGỌC ĐẾ mà bài chuyển riêng .
          *Khổ cho đạo điều nghiên chẳng nổi
          Cứ  mãi mê tiếng gọi rền vang.
          Lý thuyết mê hoặc rõ ràng
  Cũng  xưng  thần
thánh đạo vàng khuyếch trương.
          *Thương nhân sanh không tường tận được
          Thà 
cam  đành ô thước khó tầm
          Đừng cho ma quỷ tính ngầm
  Bôi lem danh nghĩa tối tăm đạo  vàng .
          *Biết yêu thương thiết tha dò lấy, 
          Không thương yêu cạm bẫy sa hầm.
          Kêu gào đã mấy mươi năm
  Tỉnh  đi
sanh chúng tự tầm phương hay.
          *Tạm đổi danh lòng thành cũng khó,
          Tùy  Thiên cơ nhượng bộ qủy ma.
          Quỷ ma dụng lịnh giáo tòa
  Có  vầy
mới rõ vậy mà trắng đen.
          *Ai trong sạch luốt lem giá bẩn,
          Bao  niên trường suy gẫm lại coi.
          Tây phương trỗi vọng thúc còi,
  Thâp bát  nhị ngoạt nhứt coi lịnh tràng.
          *PHẬT vâng sắc NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ
          Mọi  việc chi thực tế có đây.
          Éo le ngày tháng đổi thay,
  Khúc quanh PHẬT đạo dở hay nhiều bề.
          *Sơ  nhứt nhựt Phật phê cho đúng,
          NHÂM DẦN niên tứ ngoạt phô bài,
          Ngọ thời cơ bút để khai
  Giao  cho
Phật tử đạng rày hành trang.
          *Vây đệ tử tính toan từ bước
          Cứu xét rành mực thước phái chi
          Trải sang biết mấy thời kỳ
  Thế đạo PHẬY PHÁP an vi hành tàng.
          *Rồi cũng phải tự mang tạm bế,
          Bởi tà quyền cậy thế hành hung
          Cung nghinh bửu tượng khó long
  NGÔ TRIỀU khủng bố long đong tai nàn.
          *Đến GIÁP THÌN sắc ban trở lại
          Cậy miền Đông vận tải lệnh truyền
          Củng cố đường hướng thọ Thiên
  NAM THÀNH NGUYỄN phải điều nghiên thi hành,
          *Lần từng bước khúc quanh Phật đạo
          Khẩu tịnh yên tục bảo hành bương
          Thọ mạng lịnh của thiên liêng
  Dẫn đường  tiến tới khoa trường thành công.
          *Trong thời gian chương trình theo dõi
          Để nhơn sanh học hỏi giả chơn
          Tấm lòng tự mỗi cá nhơn
  Là tay hướng lãnh thiệt hơn lịnh tràng.
          *PHẬT có gì ma toan có nấy.
          Huệ nhãn minh mới thấy không lầm
          Tu hành biết mấy mươi năm
  Duyệt  đi kiểm lại kẻo lầm giả chơn.
          *Hoa linh điện nhiều cơn sầu thảm
          Cậy nương nhiều xoáy rạng Phật gia,
          Ngoạt thập nhứt có lịnh ra
  Đàn cơ  xuất hiện phát đà pháp môn.
          *PHẬT định trước cơ nguy nào sái
          Phạt thế trần sàng sẩy chúng sanh.
          Tuyển thâu một ít tâm thành
  Lòng  còn chơn chánh biết hành thiện lương.
          *Các giặc ngoài biên cương chực sẵn
          Còn  những phe phái đảng chờ trông.
          Cận đây tháo lưới bẻ lồng,
  Phóng  sanh
chim cá phỉ lòng núi sông.
          *Giặc TRUNG HOA sắp sang đảng CỘNG
          Làm nhiều điều lở đất long trời
          Loạn ly biến cải nơi nơi
  Giựt  dành
khó hưởng vậy thời ngôi cao.
          *Kìa XIÊM LA tràn vào tranh cạnh
          Nọ TẦN HOÀNG ỷ mạnh hành hung
          AN GIANG tỉnh ấy quá lung
  Nhiều điều lắm cuộc đồng chung  xóm làng
          *Còn TÂY ÂU mưu toan quỷ kế
          Gây nhiều điều khó kể nói ra,
          Xét xem thời cuộc thiết tha
  Hiểm nguy nghèo ngặt hung đa ít lành.
          *Kế đây thấy thị thành nghiêng ngửa
          Khắp hoàn cầu ngòi lửa chiến tuyên
          Máu rơi thịt đổ đảo điên
  Giựt  dành
cấu xé liền liền kề đây.
          *Sổ ÂU CHÂU phương Tây đã dứt,
          Còn HUÊ KỲ dành dựt chủ quyền,
          TÀU cùng NHỰT BỔN tiếp liền
  ĂNG  LÊ,
ĐỨC QUỐC vào miền VIỆT NAM.
          *Binh nước ngoài sẽ đem trợ chiến,
          Còn nội binh lập biến cơ huyền,
          Đồng ra phát pháo ứng liền,
  Đón  ngăn PHIẾN QUỐC CAO MIÊN dữ dằn.
          *Môn đồ ôi dất bằng sóng dậy
          Qua  hung thôi gây bởi trắng đen.
          PHIÊN TẦn oanh liệt chẳng hèn,
  Nhưng rồi khó hưởng khó chen ngai rồng.
          *Do luật định đại đồng khi trước
          Kỳ NAM nầy khảo duyệt chúng sanh
          MƯU HAY TRÍ GIỎI KHÓ THÀNH,
  ĐỦ  TÀI
HẠNH ĐỨC MƯỜI LÀNH ỨNG CƠ.
          *Qua lớp màu cuộc cờ loạn rối,
          Sẽ  lộ bày tiếp nối khởi tuồng.
          Môn đồ tua khá đo lường,
  Những diều nguy  ngập PHẬT thường độ cho.
          *Nay gặp lúc kỳ Ba mạc hạ
          Cả hoàn cầu thủy hỏa khổ sầu,
          Trả vay vay trả đáo đầu
  Dể  nào
tránh khỏi luật hầu công minh.
          *Dân tà quyền ìn ìn nỗi dậy
          Theo TÂY PHƯƠNG ắt phải lạc lầm
          Nhơn sanh bởi tại giả tâm
  Chẳng  thông thời thế bị lầm đó thôi.
          *Dân da đen ối thôi mặc kệ
          Muốn  đoạt thành ngôi ĐẾ NAM BANG.
          Cũng vì DA TRẮNG mưu toan
  Xúi gây việc quấy MIÊN trào nghe theo.
          *Đó là cơ họa gieo dân số,
          Nay đúng kỳ tạo chỗ tâm truyền
          TẦN HOÀNG nào biết luật Thiên
  Tin lời ANH, PHÁP lâm nhiều nạn tai.
          *Dân da đen ngu  si khờ dại
          Tưởng  lạc lầm chịu phải mạng cùng.
          Chẳng thông thời thế mạng chung
  Ngồi  yên sao đặng ANH HÙNG NAM BANG.
          *Quân PHÁP lại khởi đầu gây họa
          Gần đây rồi châm họa lan  tràn
          Nhiều làng ác liệt khóc than,
 Cảm  thương
cho tỉnh AN GIANG lụy phiền.
          *Vì cũng bởi lúa tiền trì kéo
          Mà phải vương chết héo chết khô
          TẦN BANG là đứa mọi nô
  Hoành hành tận sát hồ đồ ghê thay.
          Kế đây rồi ngoài trong đều loạn
          Có  phải đâu một nạn giặc TẦN.
          SÀI GÒN, GIA ĐỊNH chém đâm
  Tan tành vật chất não nề nào sai.
          *Kìa trong ngoài loạn ly cấu xé,
          Cảnh điêu tàn nhiều kẻ khác thay
          Giành quyền, giựt nước tranh oai
  Hại  nhau
vì bởi vật tài mà ra.
          *Đảng DÂN CHỦ quá thôi sầu khóc,      
          Đúng kỳ rồi phút chốc rã rời
          Làm chi nên việc nghịch trời
  Khuấy  dân
hại nước môn đồ thử xem.
          *Sáu đạo binh ngoài đem lập kế, 
          Sẽ kéo về phế đế đổi ngôi
          Nhìn xem nhân loại nạn nhồi,
  Giống  giòng giành giựt chết thôi chật đàng.
          *Các tôn giáo mưu toan đế chủ
          Nhưng giả tuồng nhiệm vụ phô trương
          Nào hay ngựa ẩn đường truông
  PHẬ T VƯƠNG CỨU THẾ khởi tuồng LONG HOA.
          *Chừng đến đó gặp gà sắc đỏ
          Ắt rạng điềm tô rõ ngũ châu
          Nhà NAM bá chủ gồm thâu
  MINH  HOÀNG xuất hiện đâu đâu phục tùng.
         
Vậy từ đạy trở đi còn nhiều cơ khảo thí, trải qua nhiều giai đoạn Đạo chuyển, phần đông chư môn sanh cho đây là tai họa khổ hình, trách đất, giận Trời nói Thần Thánh chẳng linh để cho bị hại, nào
ngờ đó là trường thi đấu sức, là lò tạo dồi mài, PHẬT TIÊN cũng đó mà nâng bước, mà một khi có thử thách ra đời là lúc toàn Đạo có phần tiến bộ, mở cuộc khảo sát thí sinh để coi lại bước  Đạo, lòng
tu, sức người chí nguyện rồi mới nhân lên các bậc phẩm thừa để rồi Thiên Tôn ban ân huyền pháp.
          Nhưng sự hiểu có mấy người, người hiểu lại là phần đông cho là chướng ngại, thì còn gì mong đạt chứng công đức cao dày.
          Vì vậy từ nay chư Thiên sắc được lịnh KHAI CHUYỂN PHÁP để rồi có lịnh THIÊN TÔN phổ truyền trong quần chúng, nhận định
rõ cơ DI LẶC ra đời, chư môn đồ khá trang nghiêm xông trầm hương tiếp giá NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ duyệt lại chương trình LONG HOA ĐẠI HỘI. THIÊN TÔN ban ân lành, THIÊ TÔN thượng ỷ.
                   Tiếp điển  :
Thi 
NGỌC Ẩn Kỳ sơn xuất tại NAM 
HOÀNG gia xuống thế độ con phàm.
THƯỢNG khai cơ đạo văn Thiên định
ĐẾ xuất  NAM BANG duyệt phẩm hàm.
GIÁO hóa con thơ hành chánh pháp
ĐẠO  mầu huấn luyện sắc GIÀ LAM.
NAM KỲ Đế Chúa còn tạm ẩn
PHƯƠNG hướng  định rồi đã phải cam.
Các con khá đại tịnh nghe Thầy khải giáo.
                   Thi  :
          *Nơi nội biên ngạc lộn quanh rồi
          Thế sự chinh nghiêng lắm ối thôi
          Màn cảnh đổi thay lòng ríu rít
          Chạnh  lòng thương nhớ bởi vì đời.
          Kêu chúng nam nữ mau lưỡng liệu
          Đàn nội kêu con chớ rã rời.
          Tỉnh thức mơ hòe trong giấc mộng,        
          Đời  tàn muôn dặm dập dồn ôi.
                   Bài :
          Thầy chúa tể hoàn cầu vũ trụ
          Giáng  thế trần dụng dữ huyền linh.
          Ồ các con dạ sắt đinh 
 
Vâng  lời Thầy phán tâm tình chớ lơi.
          *Đời nghiêng ngã chiều mơi xáo trộn
          Đời đã tàn đau thốn ớ con
          Lời Thầy dạy trẻ sắt son
  Đời  còn chi nữa mà con nghi ngờ.
          *Đời càng ước càng mơ mộng khổ
          Đời càng đem lại những hố sâu
          Đạo nay như nước tịnh bầu
  Cứu nguy sanh chúng con âu chí thành.
          *Nhớ những thuở giày sành đạp sỏi,
          Nhớ những ngày khổ nổi đau thương
          Con ôi non nước đoạn trường
  Đạo mầu con khó tạo đường hiếu trung.
          *Xưa Từ Vân não nùng biết mấy
          Lâm nạn rồi chẳng thấy bầy trâu,
          HUYỀN TRANG 81 nạn sầu
  Mới  qua Tây Trúc mà hầu thỉnh kinh.
          *Tiết Nhơn Quý lâm hình gian nịnh
          Trương Quý Phi toan đoạt công  lao
          Ngày cùng mới rõ anh hào
  Chẳng  lơi cho rõ chỉ thâu hành tàng.
          *Khương Tử Nha vận hàng chúa chí
          Phải ngồi câu sông Vị đợi thời
          Ngày nay mối đạo lưng vơi
  THÁNH VƯƠNG bảy vị chịu đời lao lung.
          *Vậy mới rằng anh hùng xử thế
          Vậy mới là MINH ĐẾ hoàng gia,
          Con ơi dũng chí con à
  VĂN  VƯƠNG DŨ LÝ mới ra Châu trào.
          *Khuyên các con hiệp mau hành chánh
          Rán ẩn nương yếu mạnh không màng
          ĐỢI CHỜ XUẤT CHÚA NAM BANG,
  YẾU RỒI LẠI MẠNH CON TOAN HIỂU LIỀN
          *Thầy ứu lụy nhà thiền vắng vẻ
          Thấy các con chia rẽ chẳng hòa
          Thầy nhìn lụy ngọc nhỏ sa
  Bởi con còn mắc con ma kim  tiền.
          *Xúi giục con  đảo điên tấc dạ,
          Làm cho con mất cả tâm hồn
          Này đây cận đến hoàng hôn,
  Không lo mền chiếu nhập môn trào đình
          *Ngọn cờ xuất binh chinh xuất chúa
          Lưỡi gươm linh tua tủa khắp trời
          Cái ngày tận thế đến nơi
  Thây  nằm chật núi chuột dơi xé rời.
          *Máu hòa sông đỏ liền đồng nội
          Sấm Thiên lôi nổ dội chỉnh ghê
          Còn chi non nước gia tề,
  Còn chi xã tắc phu thê  ân tình.
          *Ớ sanh linh nhơn tình thế sự
          Ớ con đời danh dự công hầu
          Lưỡi gươm nọ đã kề đầu
  Sao  không ghê sợ cổ hầu đứt đi.
          *Mà con dạ sân si tật đố
          Mà con ham gây gổ tranh giành
          Con ôi quyền quý cạnh tranh
  Còn mong chi nữa tơ mành vấn vương
          *Khuyên các con một đường đi thẳng
          Đừng buồn lòng than đắng than cay
          Con ôi sắc lịnh CAO ĐÀI
  Chỉ rành cho đó hậu lai con tường.
          *Những bước  đầu chịu rày khổ cực
          Khi vận hành thơm rực danh bia, 
          Con ôi Thầy định xưa  kia,
  Các con phận sự khóa chìa Thầy giao.
          *Các con ôi Thầy thường giáo huấn
          Đặng giúp con đoạt những nhiệm mầu
          Thầy nào gạt trẻ khổ sầu
  Giải qua lưới ngoặc thoát sầu khốn nguy
          *Các con ôi tiên tri ngày trước
          Rằng kỳ nầy vận nước ứng cơ
          Màu vàng đất VIỆT dựng cờ
  Giải  nguy sanh chúng khỏi bờ chiến tranh.
          *Các con ôi muốn thành chánh vị
          Đáng mặt trang tài trí cứu đời
          Thì con vưng thửa đây lời
  Ẩn vào thiền tự một thời ráng tu.
          *Đặng các con tập nhu luyện vỏ
          Chờ ngày sau giải họa thế trần
          DIỆT TIÊU TÀ MỊ VÔ THẦN
  Thì con đắc chí cứu dân muôn ngàn .
          *Phò PHẬT VƯƠNG MINH HOÀNG trừ nạn
          Đặng lập đời xinh rạng Thượng ngươn
          Con ôi trẻ gắng keo sơn
   Lời dương Thầy định nhiều cơn phức lành.
          *Thầy CHÚA TRỜI nỉ non khuyên trẻ
          Các con đừng tìm lẽ chối từ
          Các con muôn thuở  đến chừ
  Trầm  luân lặn hụp có dư bao lần.
          *Nầy là ngày PHONG THẦN LONG HỘI
          Chư PHẬT TIÊN xóa tội giải nguy
          Lập thành đại hội trường thi
  Lấy  miền VIỆT QUỐC tràng y lịnh Thầy.
          Các con ôi đại hưng đại biến
          Đã đến hồi luận biện ớ con
          Tâm linh tại thế xưa còn
          Chín  mươi sáu ức thon von lạc lầm.
            *Cha NGỌC ĐẾhéo hon bớtrẻ
          Nên giáng phàm chỉ rõ hành tàng
          Cho con thấu rõ cơ quan
 
Bước  vào  đường sáng khỏi mang kỳ nầy.
          *Hởi các con lạc loài vị củ
          Mấy ngàn năm ngôi cựu bỏ lìa
          Ngày nay đặng được quay về
 
Con đừng mơ mộng đầm đìa trầm luân
          *Các con ôi Cha đâu gạt trẻ
          ĐẤNG CHÍ TÔN nào lẽ dối đời
          Nữ Nam mau kíp đua bơi
 
Trường  thi đến dự vậy thời đó con.
          *Kỳ Hạ ngươn chẳng còn yên vững
          Lập Thượng đời lựa chúng thiện duyên
          Toàn là những bậc thánh hiền
 
PHẬT TÂM CHÁNH GIÁO  nhân duyên dự vào.
          *Các con ôi Cha phân cạn bút
          Cho các con trong đục tỏ tường
          Xưa nay VIỆT QUỐC vô vương
 
 
 
 

 

 

 

No comments:

Post a Comment

Thanks for your Comment

Featured Post

Lisa Pham Vấn Đáp official-12/11/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link