GIÀNH NHAU Á CHÂU
Ngọc Trí
tka23 post
Sẽ là rất lịch sự nếu dùng những từ ngữ đại
loại “đối tác” hay “đối thủ” mà không phải là kẻ thù để chỉ mối quan hệ hiện tại
giữa Mỹ và Trung cộng. Và nếu xem Trung cộng là kẻ thù, Mỹ đang đối mặt với
một kẻ thù nguy hiểm và kỳ lạ chưa từng có trong lịch sử cổ kim, một
kẻ thù không hoàn toàn nằm ở chiến tuyến đối lập thật sự, như với Liên Xô trước
đây mà lại “bị” gắn kết bởi những lợi ích song phương gần như không thể tách rời.
Điều đó cũng đúng với phía Trung cộng.
Làm thế nào để tiêu diệt nhau
trong bối cảnh quan hệ phức tạp như vậy?
Từ kẻ thù không đội trời chung
Lịch sử đã cho thấy một khi lợi ích chính
trị bị đe dọa thật sự, người ta vẫn có thể hy sinh quyền lợi kinh tế và sẵn
sàng dùng nắm đấm phân biệt hơn thua. Trước Thế chiến thứ nhất, Anh và Đức là
hai đối tác thương mại chính của nhau. Tuy nhiên, điều đó vẫn khiến giới chính
trị chóp bu London xem sức mạnh đang lên của Đức là mối đe dọa cho vị trí đế quốc
thực dân của họ cũng như sự ổn định chính trị châu Âu nói riêng về lâu dài.
Và dù quan hệ mậu dịch gắn liền với
Anh vẫn tăng đều, Đức vẫn đi đến kết luận rằng Anh đang tìm cách khống chế, cố
tình ngăn cản và “trù dập” sự lớn mạnh của họ. Thế là bất chấp quyền lợi kinh tế
song phương, quan hệ chính trị hai nước xấu dần rồi cuối cùng dẫn đến chiến
tranh. Trường hợp Anh - Đức đã cho thấy sự lệ thuộc kinh tế song phương chưa chắc
là yếu tố giúp củng cố tình bạn thêm bền vững , mà thậm chí chính nó lại là
nguyên nhân chính của những bất ổn, mâu thuẫn và xung đột.
Nixon trong chuyến công du lịch sử đến cộng
Điều này đang xảy ra trong mối quan hệ Mỹ
và Trung cộng, khi mà Trung cộng không chỉ ngoi lên như một cường quốc
kinh tế mà còn là một sức mạnh quân sự đe dọa quyền lợi Mỹ - đúng như dự báo của
Tổng thống Theodore Roosevelt (nhiệm kỳ 1901-1909) cách đây hơn 100 năm, khi
cho rằng: “Lịch sử tương lai của chúng ta sẽ
được quyết định bởi vị trí của chúng ta ở Thái Bình Dương đối mặt với Trung cộng
hơn là vị trí của chúng ta ở Đại Tây Dương trực diện với châu Âu”.
Cho nên, điều mà cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry
Kissinger, vốn là người thân Trung cộng, một “tình nhân vĩ đại” trong lịch sử
quan hệ Washington - Bắc Kinh, kết luận trong quyển On China (phát hành 2011) của
mình - về việc nên tạo một “cộng đồng Thái Bình Dương” trong đó Mỹ, Trung
và tất cả các nước trong khu vực đều cùng sống chung và phát triển trong hòa
bình - chỉ là một ảo tưởng phi thực tế chính trị, ngây ngô đến mức ngớ ngẩn!
Trong chính trị thế giới, làm gì có chuyện “ăn cùng mâm, ngủ cùng giường” với
những đối thủ đang lăm le đe dọa sức mạnh lẫn quyền lợi mình!
Trung cộng và Mỹ vốn chẳng
bao giờ thật tâm với nhau. Chính kiến là một chuyện (tư bản và cộng sản). Tranh
giành ảnh hưởng mới là vấn đề chính. Thời Chiến tranh lạnh, hai nước xem nhau
như mặt trăng với mặt trời. Năm 1954, tại Hội nghị hòa đàm Geneva, Ngoại trưởng
Mỹ John Foster Dulles đã thẳng thừng từ chối bắt tay người đồng cấp Chu Ân Lai
và thậm chí ra lệnh tất cả thành viên Mỹ phó hội Geneva phải “phớt lờ mọi lúc về
sự có mặt và tồn tại của phái đoàn Trung Quốc”. Cùng với chính sách cô lập
Trung Quốc về mặt ngoại giao, Mỹ cũng thiết lập một mạng lưới đồng minh và căn
cứ quân sự ở Đông Nam Á.
Đến giữa thập niên 50 của thế
kỷ trước, Washington đã ký thỏa ước Hợp tác quốc phòng với Úc và New Zealand
(1951), Philippines (1951), Nam Hàn (1953); thắt chặt quan hệ với Đài Loan
(1954) và cả cựu thù Nhật (1951). Mỹ còn thành lập nhiều tổ chức quân sự trong
đó có Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) tại Tây Âu, Tổ chức Hiệp ước
Đông Nam Á (SEATO; Philippines, Thái Lan, Pakistan…), Tổ chức Hiệp ước trung
tâm (CENTO; Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Iraq, Pakistan…). Đến trước Thế chiến thứ hai,
Philippines đã trở thành căn cứ vững mạnh Mỹ ở Thái Bình Dương, nối với chuỗi đảo
thuộc quản lý Mỹ (Guam, Wake, Midway)… Từ năm 1950, Washington cũng áp đặt lệnh
cấm vận toàn diện đối với Trung Quốc…
Đến một chuyện bất đắc dĩ
Có lẽ Trung cộng chẳng bao giờ có cơ
hội “ngóc đầu” lên được nếu không xảy ra hai yếu tố thời cuộc, khiến chính sách
Washington đối với Bắc Kinh thay đổi 180o.
Thứ nhất, đó là sự đe dọa của Liên Xô, và
Thứ hai là cuộc chiến Việt Nam.
Trong bối cảnh bế tắc của cuộc chiến Việt Nam và đồng thời cần một
đối trọng để cân bằng quyền lực với Liên Xô, Mỹ bắt đầu chơi trò “mèo mả, gà đồng”
với Trung cộng. Đến đầu thập niên 70, Kissinger đã áp dụng một chính sách
tiếp cận Trung cộng hoàn toàn khác. Mục tiêu của Mỹ không còn làm suy yếu
mà ngược lại phải làm cho Trung cộng mạnh! Cụ thể nhất là việc hỗ trợ cho
lực lượng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) bằng nhiều loại vũ khí
tối tân , đủ sức để Trung cộng đương đầu nếu nước này xảy ra chiến tranh với
Liên Xô.
Henry Kissinger - một “người bạn ” lâu năm
của Trung cộngTuy nhiên,
trong khi Tổng thống Richard Nixon và cố vấn An ninh quốc gia Kissinger muốn
tăng tốc kế hoạch viện trợ quân sự cho Trung cộng, Quốc hội Mỹ vẫn tỏ ý lo ngại
và tìm cách ngăn chặn, với niềm tin rằng Bắc Kinh là một đối tác bất khả tín.
Tuy nhiên, Nixon, rồi người kế nhiệm Gerald Ford, vẫn thuyết phục được Quốc hội,
dù mức độ viện trợ không được như phác thảo ban đầu. Trong số thiết bị - phương
tiện viện trợ cho Trung cộng lúc đó, có hệ thống bắt tín hiệu truyền hình
vệ tinh, 10 chiếc Boeing 707 và hai máy tính tốc độ cao.
Đến năm 1975,
Kissinger (lúc này là ngoại trưởng) còn kêu gọi xóa một số hạn chế xuất cảng
được áp dụng thời Chiến tranh lạnh, trong đó có việc bán động cơ phản lực
Rolls-Royce (Anh sản xuất) cho Trung Quốc. Song song, Mỹ và Trung cộng
cũng thiết lập các chương trình tập trận, huấn luyện quân sự và thậm chí soạn
thảo kịch bản tác chiến…
Dù vậy, Mỹ rất cân nhắc chính sách viện trợ
quân sự cho Trung cộng, phần vì bản chất của “cuộc tình” Washington - Bắc Kinh
thực chất chỉ là mối tình tạm bợ, một cuộc tình vì “cưỡng hôn” mà có, vì thời
cuộc xoay vần mà ra. Phần nữa, Mỹ không dám ào ạt viện trợ quân sự cho Trung cộng
bởi lo ngại Liên Xô có khả năng phản ứng mạnh và chơi đòn phủ đầu bằng cách bất
ngờ tấn công Trung cộng, dẫn đến nguy cơ một cuộc đại chiến thế giới lần ba.
Trong thực tế, đã có vài tín hiệu cho thấy Liên Xô sẵn sàng
dập Trung cộng, không phải đánh bằng một chiến dịch quân sự thông thường mà là
tiêu diệt! Hè 1969, khi xung đột biên giới Trung cộng và Liên Xô căng thẳng,
tại một bữa ăn trưa ở nhà hàng “Beef and Bird” ở trung tâm Washington, một viên
chức ngoại giao cấp trung Liên Xô đã nói với người đồng cấp Mỹ rằng Moscow đã
lên kế hoạch , tấn công phủ đầu vào các cơ sở hạt nhân Trung cộng.
Vài tuần sau tại Teheran, một tùy viên
không quân Liên Xô cũng nói với một sĩ quan Mỹ rằng, Liên Xô “sẽ không ngần ngại
dùng vũ khí hạt nhân để tiêu diệt Trung cộng” nếu Trung cộng tiếp tục quấy
rối biên giới Liên Xô. Năm 1973, một lần nữa, Liên Xô lại đề cập khả năng tấn
công các cơ sở hạt nhân Trung cộng. Phản ứng, Kissinger - trong chuyến đi
Bắc Kinh cuối năm 1973 - nói với Chu Ân Lai rằng, trong trường hợp Moscow tuyên
chiến với Trung cộng, Mỹ “có thể giúp đỡ bằng cách cung cấp thiết bị và
các dịch vụ khác” (nhưng không nêu cụ thể là những gì), đồng thời giúp Trung cộng
giảm thiểu khả năng thiệt hại bằng cách cung cấp thông tin tình báo cảnh báo sớm.
Điều này chỉ có thể thực hiện một khi thiết lập đường dây nóng “giữa các vệ
tinh của chúng ta để chúng tôi có thể thông báo cho các bạn chỉ trong vài
phút”…
Mỹ và Trung Quốc bắt đầu thiết lập quan hệ
chính thức ngày 1/1/1979 sau nhiều cuộc gặp gỡ ngoại giao suốt thập niên 70
(trong ảnh là Phó thủ tướng Đặng Tiểu Bình trong chuyến công du Mỹ gặp Tổng thống
Jimmy Carter ngày 31/1/1979)
Giữa thập niên 70, Mỹ bắt đầu giảm bớt liều
lượng nhiệt tình trong quan hệ với Trung cộng. Cuộc chiến Việt Nam đã ngả ngũ
và mối đe dọa hạt nhân Liên Xô cũng không còn. Hơn nữa, quan điểm nổi trội
trong chính trường Mỹ vẫn là sự áp đảo của phe chính trị truyền thống với chính
sách không thân thiện với một nước cộng sản như Trung cộng.
Phần mình,Bắc Kinh
cũng chẳng thấy vui gì khi Washington thắt chặt bang giao với mình, một mặt, vẫn
đi lại và bênh vực Đài Loan. Trong thực tế, cả
hai đều nhìn thấy rõ bản chất của mối quan hệ: Trung cộng cần dựa hơi Mỹ để
chống Liên Xô, trong khi Washington cần vuốt ve Trung cộng để lấy nó làm đối
trọng trong những cuộc mặc cả chính trị với Moscow.
Tuy nhiên, tháng 12/1979, khi quân
đội Liên Xô tấn công Afghanistan, quan hệ chiến lược Washington - Bắc Kinh lại
được đẩy lên một “tầm cao” mới.
Trong chuyến công du Bắc Kinh tháng
1/1980, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Harold Brown đề xuất loạt trao đổi giữa các
viên chức quốc phòng cấp cao hai nước, ở một mức độ “chưa từng có trước nay”.
Tổng
thống Jimmy Carter tuyên bố ông sẽ chuẩn y các giấy phép xuất cảng cho những
mặt hàng liên quan kỹ thuật kép (dùng cho dân sự lẫn quân sự) và lần đầu tiên
cũng chuẩn y phi vụ bán các hệ thống quân sự không giết người, như radar, vận tải
cơ, trực thăng và phần cứng viễn thông. Tuy nhiên, Carter vẫn còn đủ tỉnh táo
và thận trọng không đồng ý bán vũ khí tấn công, bất chấp sự bày tỏ quan tâm từ
Bắc Kinh...
Chính sách thân thiện của Washington đối với
Bắc Kinh, dù ẩn sâu bên trong vẫn tồn tại nhiều nghi kỵ và dè chừng, đã khiến
dư luận Mỹ thời điểm đó bớt nhìn Trung cộng bằng cặp mắt nghi ngờ. Trong
suốt thập niên 70, chỉ khoảng 1/3 người được hỏi trong các cuộc thăm dò tại Mỹ
là bày tỏ cái nhìn thiên cảm dành cho Trung cộng trong khi 2/3
hoặc hơn nói chung tỏ ra nghi ngại Trung cộng. Đến thập niên 1980, những kết quả
thăm dò bắt đầu cho thấy ngược lại. Trong cuộc thăm dò tháng 2-1989, tỉ lệ người
Mỹ thích Trung cộng đã lên đến 73%!
(Nguồn tham khảo: “A Contest for
Supremacy: China, America, and the Struggle for Mastery in Asia”; giáo sư Aaron
L. Friedberg; NXB W. W. Nortin & Company; phát hành ngày 1/10/2012
Các cây bút nghiên cứu chính trị và giới chóp bu quân
sự Trung cộng đang lên án Mỹ việc sử dụng nhiều “âm mưu và thủ đoạn tinh
vi” để thực hiện chính sách cản trở con đường phát triển của Trung cộng, dù đó
là sự “phát triển trong hòa bình”. Tuy nhiên, lịch sử đã cho thấy chính Mỹ từng
“ tiếp sức” cho sự lớn mạnh của quân đội nước này nói riêng và Trung cộng
nói chung. Thiếu những nền tảng ngoại lực ban đầu như vậy, Trung cộng khó
có thể đạt được những kết quả như hiện nay…
“Thân Trung, bài Nga”
Lịch sử chính trị thế giới cho thấy có
khi, chỉ bởi vài quan điểm cá nhân, thế cục đã có thể thay đổi. Trong trường hợp
Trung cộng và Mỹ, đó là những bộ não như Henry Kissinger và sau đó là “học
trò” của ông - Ngoại trưởng Alexander Haig. Trong nội các Ronald Reagan (kế nhiệm
Jimmy Carter), Haig được xem là nhân vật luôn ủng hộ mạnh mẽ chính sách thân Bắc
Kinh.
Haig muốn đặt ấn tượng riêng trên trang sử quan hệ Mỹ - Trung
bằng việc thực hiện những bước nhanh để nâng quan hệ hai nước lên một
cấp độ chiến lược mới, mà trọng tâm của nó là tăng tốc việc bán vũ khí cho
Trung cộng cả về phẩm lẫn lượng. Haig tin rằng, chỉ khi như vậy,
Mỹ mới có thể cân bằng được sức mạnh quân sự Liên Xô.
Quan điểm của Haig cũng được chia sẻ bởi một số người trong bộ máy
quân đội Mỹ. Bản nghiên cứu về mối quan hệ an ninh chiến lược với Trung cộng
năm 1981 của Bộ tổng Tham mưu quân đội Hoa Kỳ kết luận rằng, Trung cộng
“đang đóng góp đáng kể” cho “sự cân bằng toàn cầu”.
Tuy nhiên, một lần nữa, Quốc hội và
một số tướng lĩnh Lầu Năm Góc vẫn dè dặt việc mở rộng cửa và cung cấp cho Trung cộng
những kỹ thuật quân sự tối tân. Với Haig, đó là những ý kiến “thiển cận”, xuất
phát từ hạng người có “suy nghĩ bàn giấy” và “đầu óc hẹp hòi”…
Chủ tịch Giang Trạch Dân (và Tổng thống
Bill Clinton) trong chuyến công du Mỹ cuối năm 1997 (chuyến viếng thăm đầu tiên
của một lãnh đạo Trung cộng kể từ sự kiện Thiên An Môn)
Sự vận động liên tục của Haig cuối cùng
cũng có kết quả, dù khiêm tốn. Năm 1983, Bộ trưởng Quốc phòng Caspar Weinberger
tuyên bố, trong số những bước đi mới được thiết kế nhằm tăng cường quan hệ quân
sự song phương Mỹ - Trung, Washington sẽ sẵn lòng bán những hệ thống “vũ khí
phòng ngự” cho Bắc Kinh. Và trong nửa sau thập niên 80 của thế kỷ trước,
Washington cũng đồng ý bán cho Trung cộng ngư lôi, radar chiến thuật, thiết
bị máy móc để sản xuất vỏ đại bác và hệ thống điện tử cho thiết bị đánh chặn của
chiến đấu cơ. Giới chức Mỹ thậm chí còn bày tỏ việc sẵn lòng thảo luận việc bán
hệ thống hỏa tiển chống tăng, hệ thống dò âm chống tàu ngầm, động cơ
turbine khí cho tàu chiến và hệ thống hỏa tiển không đối không.
Tóm lại, Washington đã chuẩn bị bán một số
mặt hàng quân sự với số lượng lớn cho Trung cộng. Sau chuyến công du Trung cộng
của Weinberger năm 1983, một loạt trao đổi qua lại giữa giới chức dân sự lẫn
quân sự ở mọi cấp bậc của hai nước liên tục diễn ra.
Không chỉ dự tính tổ chức các cuộc
phối hợp tập trận hải quân giữa hai quân đội, Mỹ còn háo hức đề xuất ý kiến bố
trí máy bay chiến thuật đến những căn cứ gần Vladovostok; phát triển “những
hệ thống phòng không và cảnh báo sớm”, xin được phép tiếp liệu cho vận tải cơ Mỹ
mang hàng hóa cung cấp cho lực lượng “kháng chiến quân” Afghanistan trong cuộc
chiến chống Liên Xô…
Tuy nhiên, thời cuộc lại
thay đổi và ảnh hưởng của nó là sự tái nhận thức về các mối quan hệ. Giữa thập
niên 80, Liên Xô đang lún sâu vào hỗn loạn nội bộ, trong làn sóng cải tổ của
Mikhail Gorbachev.
Nhận định rằng, Moskva không còn là kẻ thù và là mối đe dọa
an ninh lớn đối với mình, Bắc Kinh bắt đầu muốn cải thiện quan hệ với Moskva để
tận dụng quan hệ quân sự lẫn kinh tế. Dù sao, hai nước cũng từng có những mối
liên hệ chặt chẽ thời thập niên 50 của thế kỷ trước.
Việc tái nhận thức trong
chiến lược quan hệ với Liên Xô khiến Bắc Kinh “tế nhị” đẩy quan hệ với Mỹ xuống
một… tầm thấp hơn. Thế là thay vì hăm hở sắm “đồ chơi” Mỹ, Trung cộng đã bỏ
qua (cơ hội ngàn vàng này) và chỉ mua vài thứ tượng trưng. Những kế hoạch hợp
tác quân sự song phương như nói ở trên cũng bị bỏ xó…
Con bài cũ
Năm 1989 đã xảy ra hai sự kiện kinh thiên động địa khiến Mỹ bắt đầu
giảm dần, dù rất chậm mối quan hệ với Trung cộng.
Thứ nhất đó là sự kiện Thiên An Môn
vào tháng 6 và tiếp đó là sự kiện bức tường Berlin sụp đổ vào tháng 11. Cả hai
sự kiện đều mang lại những ảnh hưởng sâu sắc đối với chính sách đối ngoại của Mỹ
lẫn Trung cộng. Với Mỹ, sự tan rã của các nước Đông Âu khiến điểm tựa Liên Xô
không còn đã dẫn Washington đến những phác thảo mới cho chủ trương đối ngoại.
Có một điều đến nay không thể giải thích là tại sao dù chiến lược cân bằng với
Liên Xô không còn cần thiết nhưng Washington, bất chấp sự kiện Thiên An Môn, vẫn
duy trì quan hệ khá gần gũi với Trung cộng.
Dù chỉ trích Bill Clinton về chính sách đối
với Trung Quốc nhưng George W. Bush cũng áp dụng con đường chẳng khác mấy so với
chính phủ tiền nhiệm
Vài tháng sau, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Lawrence Eagleburger đệ trình Quốc hội một danh sách những phạm vi “sống còn” mà Mỹ cần tiếp tục thực hiện trong mối quan hệ với Bắc Kinh. Eagleburger giải trình rằng, dù Liên Xô sụp đổ, nhưng những “giá trị chiến lược” với Bắc Kinh vẫn không thể vì thế mà từ bỏ.
Vài tháng sau, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Lawrence Eagleburger đệ trình Quốc hội một danh sách những phạm vi “sống còn” mà Mỹ cần tiếp tục thực hiện trong mối quan hệ với Bắc Kinh. Eagleburger giải trình rằng, dù Liên Xô sụp đổ, nhưng những “giá trị chiến lược” với Bắc Kinh vẫn không thể vì thế mà từ bỏ.
Do đó, Bắc Kinh và Washington cần
tiếp tục chia sẻ nhiều mối quan tâm mới, qua những chương trình hợp tác mới,
trong bối cảnh chính trị mới. Theo quan điểm Eagleburger cũng như một số giới
chức hoạch định chính sách đối ngoại Hoa Kỳ, Washington bây giờ cần hỗ trợ để
đưa Trung cộng tiếp cận và gắn kết sâu hơn vào các hệ thống định chế quốc
tế. Một cách tinh vi, đó là cách thuần hóa một con cọp đang mọc nanh.
Chính sách này xuất hiện ngay từ những
ngày đầu của nhiệm kỳ Bill Clinton. Năm 1994, Chính phủ Mỹ tuyên bố Washington
sẽ theo đuổi chính sách “hợp tác toàn diện” với Trung cộng - như Tổng thống
Bill Clinton đã trình bày: “Chúng tôi sẽ có nhiều mối liên hệ hơn. Chúng tôi sẽ
giao thương nhiều hơn. Chúng tôi sẽ hợp tác quốc tế nhiều hơn”.
Nói cách khác,
Mỹ đã phát quang dọn đường đưa Trung cộng lên vũ đài quốc tế, với hy vọng
rằng, Trung cộng sẽ có ý thức trách nhiệm hơn với những nghị sự thế giới
và những vấn đề toàn cầu (chẳng hạn ô nhiễm môi trường), cũng như sẽ hành xử biết
điều, biết luật hơn, với những xung đột khu vực… Mỹ đã tạo ra một ảo tưởng cho
Trung cộng , họ bây giờ là một cường quốc.
Đặt Trung cộng lên chiếc ghế định chế
quốc tế không chỉ buộc Trung cộng phải “ăn ở” cho ra “tư cách người lớn”
mà cũng là một cách để có thể giám sát và thậm chí khống chế Trung cộng. Đó là
lý do tại sao Mỹ dành cả nửa sau của thập niên 90 để vận động đưa Trung cộng
vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)… Trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm
2000, George W. Bush chỉ trích nội các tiền nhiệm đã “dung túng” và “nuông chiều”
Trung cộng thái quá. Với Bush, Trung cộng không thể là “đối tác chiến lược”
mà phải là “đối thủ chiến lược”.
Dù vậy, thế cờ đã được bày, trong một thời
gian dài như thế, làm sao có thể gỡ một sớm một chiều. Cuối cùng, dưới áp lực của
giới doanh nghiệp và tài phiệt Mỹ, Bush cũng buộc phải áp dụng chính sách đối với
Trung cộng chẳng khác thời Bill Clinton bao nhiêu…
Ngoại trưởng Alexander Haig và người đồng
cấp Hoàng Hoa tại Sân bay Bắc Kinh (tháng 6/1981)
Tuy nhiên, trong lĩnh vực
quân sự, những gì được thiết lập trước năm 1989 đã không bao giờ được tái lập.
Mỹ bắt đầu nhận ra rằng, Trung cộng đang từng bước trở thành một mối họa đối
với an ninh và quyền lợi Mỹ. Sự nhận thức này diễn ra rất chậm. Trước năm 1996,
giới chức quân sự Mỹ vẫn còn chưa quan tâm sự phát triển quân sự Trung cộng.
Họ
chỉ nghĩ Trung cộng đang mải mê lo làm giàu, thế thôi. Trong khi đó, một sự
nhận chân toàn bộ về thực trạng quân sự non kém của mình lại đang sôi sùng sục
tại Trung cộng, từ khi họ chứng kiến sức mạnh kinh khủng của Mỹ phô diễn ở cuộc
chiến vùng vịnh 1991. Trung cộng bắt đầu âm thầm tăng tốc đầu tư quân sự,
trước sự thờ ơ của Mỹ.
Tất cả chỉ thay đổi vào năm 1996, khi Đài
Loan tổ chức cuộc bầu cử tổng thống dân chủ đầu tiên. Trung cộng đã gây sức
ép Đài Bắc bằng cách triển khai dàn hỏa tiển hướng thẳng
về Đài Loan. Lần đầu tiên trong hơn 30 năm, Mỹ mới nhận ra một hiểm họa chiến
tranh thật sự tại châu Á đến từ Trung cộng. Lập tức sau đó, tình báo Mỹ bắt đầu
theo dõi hoạt động quân sự Trung cộng
. Kết quả thật đáng lo ngại, nếu không nói
là đầy tính cảnh cáo. Hóa ra quân đội Trung cộng đã mạnh hơn Mỹ nghĩ rất
nhiều. Trước sự kiện 1996, CIA gần như chẳng đếm xỉa đến Trung cộng.
Trong báo cáo các mối đe dọa toàn cầu vào
tháng 2/1996, Giám đốc CIA John Deutch trình bày ngắn gọn:
“Chúng ta vẫn biết rất ít về giới lãnh đạo tương lai Trung cộng cũng như kế hoạch của họ”.
Một năm sau, sau vụ khủng hoảng Đài Loan, người kế nhiệm Deutch, George Tenet, bắt đầu “la thất thanh”: “Những hành động và tuyên bố của Trung cộng cho thấy họ quyết tâm thể hiện mình như một sức mạnh ở Đông Á”.
“Chúng ta vẫn biết rất ít về giới lãnh đạo tương lai Trung cộng cũng như kế hoạch của họ”.
Một năm sau, sau vụ khủng hoảng Đài Loan, người kế nhiệm Deutch, George Tenet, bắt đầu “la thất thanh”: “Những hành động và tuyên bố của Trung cộng cho thấy họ quyết tâm thể hiện mình như một sức mạnh ở Đông Á”.
Đến năm 1998,
Tenet tin chắc rằng, giới lãnh đạo Trung cộng “có một mục tiêu rõ ràng: biến
nước họ thành một sức mạnh chủ yếu ở Đông Á cũng như là cường quốc kinh tế hàng
đầu thế giới ngang hàng Mỹ vào giữa thế kỷ XXI”.
Sau những năm tháng tận tình
nuôi lớn con cọp dữ và bây giờ nó không những không bị thuần hóa mà còn bắt đầu
tính quay sang đớp chủ, Mỹ đã bắt đầu biết “hối” rồi chăng? Đã quá muộn!
Trò chơi đấu trí
Giáo sư Diêm Học Thông thuộc Đại học Thanh
Hoa (một trong những chuyên gia quan hệ quốc tế lừng lẫy Trung cộng, lấy bằng
tiến sĩ chính trị Đại học California Berkeley, từng được chuyên san Mỹ Foreign
Policy chọn vào danh sách 100 nhà trí thức hàng đầu thế giới) nhận định rằng,
Trung cộng cuối cùng rồi sẽ nổi trội hẳn ở trung tâm của một trật tự khu vực
mới.
Trong đó tất cả các nước Đông Á không còn
chọn lựa nào khác là phải chấp nhận sự lãnh đạo Trung cộng; Nhật có thể sẽ đứng
ngoài cái trật tự mới này nhưng rồi “đến lúc nào đó khi mà câu lạc bộ Trung cộng
bắt đầu ngày càng lớn mạnh thì Nhật cũng phải nhảy vào”.
Theo cách nói của họ Diêm, có thể thấy rằng,
trong bối cảnh trên - được nhìn như một thực tế xảy ra không sớm thì chầy, trục
các quốc gia đồng minh của Mỹ tại khu vực hoặc sẽ ngưng tồn tại hoặc sẽ bị hút
sạch sinh lực trong cuộc chạy đua vũ trang với Trung cộng.
Tương tự, năm 2007, Giáo sư Thời Ân Hoằng
cũng dự phỏng rằng, nếu Trung cộng tiếp tục lớn mạnh, Mỹ sẽ “có khuynh hướng
rõ hơn việc cân nhắc lại hoặc thậm chí chấp nhận thuận theo một giải pháp cuối
cùng mang tính hòa bình, đồng thời Mỹ cũng nhận thức rõ một sự phân biệt về sự
cân bằng quyền lực và ảnh hưởng ở những khu vực địa lý khác nhau”; trong đó,
Washington sẽ phải chấp nhận “vị thế lãnh đạo” của Trung cộng, xét về ảnh hưởng
tổng thể chính trị, kinh tế lẫn ngoại giao tại châu Á”, cũng như (chấp nhận sự
thật về) “sự tương đồng quân sự và thậm chí khá hơn Mỹ khi xét đến các khu
vực duyên hải”…
Khước từ chính sách “ẩn mình” thời Đặng Tiểu
Bình, Trung cộng liên tục phô diễn sức mạnh quân sự
Theo cách nói của hai nhà chính trị học
tên tuổi trên, xem ra Mỹ gần như không có “cửa” thắng Trung cộng, chi bằng sớm
biết điều và chấp nhận một thực tế bất khả từ. Sự tự tin Trung cộng còn thể
hiện ở một câu chuyện được Đô đốc Timothy Keating (nguyên tư lệnh trưởng Bộ Tư
lệnh Thái Bình Dương của Mỹ) thuật vào tháng 3/2008 trong phiên điều trần trước
Ủy ban Quân vụ Hạ viện Hoa Kỳ.
Keating kể, trong một cuộc gặp, một đô đốc
Trung Quốc đã đề nghị nên vẽ một lằn ranh chia đôi Thái Bình Dương, trong đó
“các anh có thể giữ phần phía đông Thái Bình Dương, từ Hawaii đến duyên hải Mỹ.
Chúng tôi thì giữ phần phía Tây Thái Bình Dương, từ Hawaii đến duyên hải Trung
Quốc”. Tất nhiên tay đô đốc Trung cộng chỉ nói đùa nhưng điều đó cũng cho
thấy phần nào cái hàm ý về sức mạnh và sự ảnh hưởng Trung cộng mà Mỹ khó
có thể chống lại. Nó cũng cho thấy một ngụ ý rằng, nếu “anh” tử tế thì “tôi”
còn rộng lượng chia phần, còn không thì mất trắng!
Một thập niên qua, sự đối đầu giữa Mỹ và
Trung cộng ngày càng trở nên công khai, lắm lúc đôi bên chẳng cần giữ kẽ
hay tế nhị trong ngôn từ.
Cả hai đều nhận thức rõ rằng họ đang thật sự là đối
thủ của nhau. Một mất một còn. Rừng không thể có hai cọp! Khi Mỹ thể hiện rõ
quyết tâm hiện diện châu Á để khống chế sức mạnh Trung cộng thì Trung cộng
cùng lúc cũng trở nên hung hãn hơn trong tư thế của con chó dữ sẵn sàng tấn
công kẻ lạ lăm le vào nhà mình (và cả những nhà hàng xóm mà mình đang muốn là
vai trò của một tay anh chị “bảo kê”)!
Họ cố “đọc” được những nước cờ
tiếp theo của đối thủ. Ai đang thắng trong cuộc đọ sức này? Nói cách khác, ai
đang tiến đến gần hơn đến việc đạt được những mục tiêu chiến lược mà mình phác
thảo? Hãy còn quá sớm để có thể chủ quan kết luận ai đang thắng ai trong cuộc
tranh giành này. Ở vài trận địa, phần thắng có vẻ nghiêng về Trung cộng. Nhiều
trận địa khác, Trung cộng đang ấm ức nhìn Mỹ chơi trội hơn họ.
Bởi tính chất cuộc đấu là giành giật ảnh
hưởng nên trước mắt cả hai đều chơi trò đấu trí trong việc “dụ dỗ” lôi kéo đồng
minh. Nói theo ngôn ngữ hình tượng là “nối toa”. Ai móc được nhiều toa hơn thì
khả năng giành chiến thắng cao hơn. Tuy nhiên, yếu tố phức tạp của cuộc đấu dài
hơi không chỉ nằm ở kỹ thuật chiêu dụ đồng minh mà còn ở sự chi phối của tính
thời cuộc và cả sự thay đổi tư duy chính trị của giới lãnh đạo. Đó là lý do người
ta thấy có khi “toa” này tưởng chừng đang được móc chặt vào đầu kéo Trung cộng
nhưng sau đó đột nhiên lại “tách ray” để móc vào chiếc đầu kéo Mỹ.
Trường hợp Myanmar là một ví dụ! Tổng
quát, riêng trong cuộc đấu giành giật và xây dựng đồng minh, Mỹ rõ ràng đang
thành công hơn Trung cộng, xét về chiến lược lẫn chiến thuật. Một phần vì Trung cộng
đã “lộ hàng” quá sớm, phô diễn sức mạnh quá sớm, bày tỏ thái độ diều hâu hung
hãn quá sớm - sớm hơn nhiều so với sức mạnh thật sự mà họ đang có.
Cho nên,
thay vì kết bạn được nhiều hơn - dù có lợi thế vượt trội Mỹ về ảnh hưởng kinh tế
và đặc biệt là văn hóa đối với khu vực, Trung cộng lại đang bị cô lập, bởi
chính họ!
Hơn lúc nào hết, các nước
châu Á đang nhìn Trung cộng bằng cặp mắt nghi kỵ. Vào cuối nhiệm kỳ hai của
George W. Bush (2008), các cuộc thăm dò ý kiến tại Hàn Quốc cho thấy, có đến
74% người được hỏi đã bày tỏ lo ngại về sự đe dọa quân sự Trung cộng (một
tỉ lệ còn cao hơn tại Mỹ, nơi có 70%)!
Vấn đề là ai biết cách “giải quyết rủi
ro” tốt hơn. Nói theo ngôn ngữ kinh doanh, bất cứ cuộc đầu tư nào cũng chứa đựng
yếu tố rủi ro. Vấn đề là biết cách lượng định mức độ rủi ro và cách giải
quyết tình huống một khi rủi ro xảy ra. Với giới hoạch định, họ luôn kỳ vọng
những điều tốt nhất ,trong khi cùng lúc phải biết chuẩn bị cho những gì xấu nhất.
Điều xấu nhất ở đây là gì và yếu tố rủi ro nào, nếu không thể tránh khỏi, là sẽ
đáng sợ nhất? Đó là chiến tranh! Liệu có khả năng xảy ra chiến tranh giữa Mỹ và
Trung cộng? Đâu là “tiền đề” để chiến tranh xuất hiện?
Như đã nói ở trên, yếu tố ràng buộc kinh tế
chưa chắc là điều khả dĩ giúp giải tỏa sự căng thẳng dẫn đến chiến tranh, một
khi cả hai - hoặc một bên - nhận ra rằng mâu thuẫn và xung đột lợi ích bắt đầu
trở nên nghiêm trọng đến mức quyền lợi quốc gia bị thiệt hại nặng nề và không
còn con đường nào khác hơn là sự chọn lựa binh đao.
Trung cộng liệu có thể “giải quyết rủi
ro” tốt khi liên tục thách thức Nhật tại quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư?
(ảnh: một cuộc bám đuổi giữa tuần duyên Nhật và tàu Hải giám Trung cộng
ngày 14/9/2012)
Xét tổng quát, Trung công - dù dư dả
tiền của và là chủ nợ khổng lồ của Mỹ - nhưng đang yếu hơn Mỹ rất nhiều.
Họ có những vấn đề nội bộ và nhiều thách thức lớn hơn Mỹ vạn lần, ở thời điểm
hiện tại cũng như lâu dài.
Ở đây vẫn tồn
tại hiện tượng “quốc phú, dân cùng”, đầy dẫy tham nhũng, nền tảng kỹ thuật yếu
kém, trình độ khoa học thiếu sáng tạo nhưng thừa “chỉ số” ăn cắp, nguồn tài
nguyên hiếm hoi nhưng dư thừa “khả năng” tàn phá môi trường… xã hội Trung công
đang sôi sục và tiềm ẩn nhiều bất ổn dẫn đến rạn vỡ và thậm chí tan nát. Khi mà
chưa giải quyết được những khó khăn và khủng hoảng nội tại, Trung cộng sẽ
không đủ tỉnh táo phác thảo những kế hoạch lâu dài đối phó với Mỹ. Đây là
một trong những điểm yếu sinh tử của Trung cộng.
Trong khi đó, “bài” mà Trung cộng áp
dụng thường xuyên gần đây, quen đến mức thế giới đã “thuộc”, là mạo hiểm chuyển
bớt “lửa” từ trong nước ra bên ngoài. Nó đã bộc lộ một tâm trạng bất lực hơn là
thể hiện của một đòn thế khiến đối phương sợ hãi. Cái cách mà cứ bất kỳ khi nào
tình hình trong nước rối ren thì Trung cộng lại hung hăn với những động
thái gây hấn khu vực chỉ mang lại bất lợi cho Trung cộng về mặt đối ngoại
và làm hỏng đại cục của Trung cộng trong chính sách thôn tín châu Á. Mặt
khác, nó lại vô tình giúp Mỹ lôi kéo thêm đồng minh.
Điều đáng nói nhất là
sẽ rất khó cho Trung Quốc “giải quyết rủi ro” trong chiến thuật “chuyển lửa”
ra bên ngoài. Họ không thể dập tắt ngọn lửa này lại cùng lúc tạo ra một đám
cháy khác! Trận hỏa hoạn trong nước (có thể xảy ra từ những dồn nén bất ổn xã hội),
so với trận hỏa hoạn bên ngoài (có thể xảy ra từ thái độ hiếu chiến), trận nào
sẽ kinh khủng hơn, đã lượng định và so sánh được hậu quả của hai trận hỏa hoạn
chưa, trận hỏa hoạn nào mới là ngọn lửa thật sự làm cháy rụi căn nhà, mới là ngọn
lửa đốt trụi quốc gia và xóa sổ chế độ?...
Điều đáng nói nữa từ
cái “điều đáng nói” trên là khi mà Trung cộng cuối cùng nhận ra rằng họ
không đủ sức “quản lý rủi ro” nữa thì họ có thể có khuynh hướng chơi cú liều
“được ăn cả, ngã về không”. Lúc đó, chiến tranh sẽ bùng nổ. Theo nhận định của
hai phân tích gia Mark Burles và Abram Shulsky thuộc Viện Nghiên cứu chính sách
RAND (Mỹ), Trung Quốc sẽ có khả năng đánh trước. Họ muốn tận dụng lợi thế của yếu
tố bất ngờ. Điều mà Mark Burles và Abram Shulsky không diễn giải là tại sao yếu
tố bất ngờ lại quan trọng đối với Trung cộng.
Đó là vì Trung cộng hiểu rõ
rằng, họ không thể địch lại Mỹ và “bầy sói” đồng minh của Mỹ xét ở mọi góc độ của
chiến tranh qui ước. Chỉ bằng yếu tố bất ngờ mới có thể giúp họ có được lợi thế
ở “hiệp một” so với đối phương...
Tất nhiên viễn cảnh chiến
tranh không thể xảy ra chừng nào hai bên còn đủ tỉnh táo và kiên nhẫn để kiềm
chế (và còn chưa hết “bài” để tiếp tục thức thâu đêm đánh đến tàn cuộc). Tuy nhiên, như đã nói, vấn đề tối quan trọng lúc này
là ai đủ bản lĩnh để kiểm soát tình hình và đủ khả năng để “giải quyết rủi
ro” - những rủi ro không thể không tính đến và không thể không xảy ra, phát
sinh từ những chiến lược tranh giành ảnh hưởng…
Ngọc Trí
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment