Subject: VỊ TRÍ CHIẾN LƯỢC VÀ TIỀM NĂNG BIỂN ĐÔNG
VỊ
TRÍ CHIẾN LƯỢC VÀ TIỀM NĂNG BIỂN ĐÔNG
Trần
Bông
tka23
post
Bài viết giới thiệu về điều kiện tự nhiên, vị trí chiến
lược, các tài nguyên kinh tế của Biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Biển Đông còn gọi là biển Nam Trung
Hoa theo tên tiếng Anh The South China Sea và tiếng Pháp Mer de Chine
Méridionale, là một biển rìa Tây Thái Bình Dương.
Theo quy định của Uỷ ban Quốc tế về biển, tên
của các biển rìa thường dựa vào địa danh của lục địa lớn gần nhất hoặc mang tên
của một nhà khoa học phát hiện ra chúng. Biển Đông nằm ở phía Nam đại lục Trung
Hoa nên có tên gọi là biển Nam Trung Hoa. Tuy nhiên, địa danh
biển không có ý nghĩa về mặt chủ quyền như một số người ngộ nhận.
Vấn đề chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài
phán quốc gia trên biển được xác định và giải quyết theo luật pháp quốc tế, đặc
biệt là Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982. Biển Đông được nhân dân
Việt Nam gọi theo thói quen như một danh từ riêng.
Biển Đông là một biển
nửa kín, có diện tích khoảng 3,5 triệu km vuông, trải rộng từ vĩ
độ 3o lên đến vĩ độ 26o Bắc và từ kinh độ 100o đến 121o Đông. Ngoài Việt Nam,
Biển Đông được bao bọc bởi tám nước khác là Trung cộng, Philippin, Indonesia,
Bruney, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Campuchia.
Theo ước tính sơ bộ, Biển Đông có ảnh hưởng trực
tiếp tới cuộc sống của khoảng 300 triệu người dân của các nước này. Biển Đông
không chỉ là địa bàn chiến lược quan trọng đối với các nước trong khu vực mà
còn cả của châu Á - Thái Bình Dương và Mỹ.
Tiềm
năng của Biển Đông
Biển
Đông còn là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quan trọng cho đời
sống và sự phát triển kinh tế của các nước xung quanh, đặc biệt là nguồn tài
nguyên sinh vật (thuỷ sản), khoáng sản (dầu khí), du lịch và là khu vực đang
chịu sức ép lớn về bảo vệ môi trường sinh thái biển.
Trong
khu vực, có các nước đánh bắt và nuôi trồng hải sản đứng hàng đầu thế giới như
Trung cộng, Thái Lan, Việt Nam, Indonesia và Philippin, trong đó Trung cộng
là nước đánh bắt cá lớn nhất thế giới (khoảng 4,38 triệu tấn/năm), Thái Lan
đứng thứ 10 thế giới (với khoảng 1,5 - 2 triệu tấn/năm), cả khu vực đánh bắt
khoảng 7 - 8% tổng sản lượng đánh bắt cá trên toàn thế giới[1].
Biển
Đông được coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới. Các
khu vực thềm lục địa có tiềm năng dầu khí cao là các bồn trũng Bruney - Saba,
Sarawak, Malay, Pattani Thái, Nam Côn Sơn, Mê Công, Sông Hồng, cửa sông Châu
Giang.
Hiện nay, hầu hết các nước trong khu vực đều là những nước khai thác và
sản xuất dầu khí từ biển như Trung cộng, Việt Nam, Malaysia, Brunei, Indonesia,
Thái Lan … trong đó Indonesia là thành viên của OPEC.
Tại
vùng biển và thềm lục địa Việt Nam đã xác định nhiều bể trầm tích có triển vọng
dầu khí, trong đó các bể trầm tích Cửu Long và Nam Côn Sơn được đánh giá
có triển vọng dầu khí lớn nhất, điều kiện khai thác tương đối thuận lợi.
Tổng
trữ lượng dự báo địa chất về dầu khí của toàn thềm lục địa Việt Nam xấp
xỉ 10 tỷ tấn dầu qui đổi, trữ lượng khai thác khoảng 02 tỷ tấn và trữ lượng dự
báo của khí khoảng 1.000 tỷ mét khối[2].
Theo
đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự trữ dầu đã được kiểm chứng ở Biển Đông
là 07 tỉ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày. Theo đánh giá của
Trung cộng, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ
lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng.
Với trữ lượng
này và sản lượng khai thác có thể khoảng 18,5 triệu tấn/năm duy trì được
trong vòng 15 - 20 năm tới. Các khu vực có tiềm năng dầu khí còn lại chưa khai
thác là khu vực thềm lục địa ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và bờ biển miền Trung, khu
vực thềm lục địa Tư Chính.
Trữ lượng và sản lượng dầu khí của Việt Nam đứng vào
hạng trung bình trong khu vực, tương đương Thái Lan và Malaysia.
Ngoài ra, theo các chuyên gia Nga thì khu vực vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa
còn chứa đựng tài nguyên khí đốt đóng băng, trữ lượng loại tài nguyên này trên
thế giới ngang bằng với trữ lượng dầu khí và đang được coi là nguồn năng lượng
thay thế dầu khí trong tương lai .
Chính tiềm năng dầu khí chưa được khai thác
được coi là một nhân tố quan trọng làm tăng thêm các yêu sách chủ quyền đối với
hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển quanh hai quần đảo.
Tầm
quan trọng chiến lược của Biển Đông
Biển
Đông nằm trên đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái Bình Dương -
Ấn Độ Dương, Châu Âu - Châu Á, Trung Đông - Châu Á.
Năm trong số mười tuyến
đường biển thông thương lớn nhất trên thế giới liên quan đến Biển Đông gồm:
tuyến Tây Âu, Bắc Mỹ qua Địa Trung Hải, kênh đào Suez, Trung Đông đến Ấn Độ,
Đông Á, Úc, New zeland; tuyến Đông Á đi qua kênh đào Panama đến bờ Đông Bắc Mỹ
và Caribe; tuyến Đông Á đi Úc và New Zeland, Nam Thái Bình Dương; tuyến Tây Bắc
Mỹ đến Đông Á và Đông Nam Á.
Đây được coi là tuyến vận tải quốc tế nhộn
nhịp thứ hai của thế giới.
Mỗi ngày có khoảng từ 150 - 200 tàu các loại qua lại
Biển Đông, trong đó có khoảng 50% là tàu có trọng tải trên 5.000 tấn, hơn
10% là tàu có trọng tải từ 30.000 tấn trở lên.
Trong khu vực Đông Nam Á có
khoảng 536 cảng biển, trong đó có hai cảng vào loại lớn và hiện đại nhất thế
giới là cảng Singapore và Hongkong. Thương mại và công nghiệp hàng hải ngày
càng gia tăng ở khu vực.
Nhiều nước ở khu vực Đông Á có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào con đường
biển này như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và cả Trung cộng.
Đây là
mạch đường thiết yếu vận chuyển dầu và các nguồn tài nguyên thương mại từ Trung
cận Đông và Đông Nam Á tới Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung cộng.
Hơn 90% lượng vận
tải thương mại của thế giới thực hiện bằng đường biển và 45% trong số đó phải
đi qua vùng Biển Đông.
Lượng dầu lửa và khí hoá lỏng được vận chuyển qua vùng biển này lớn gấp 15
lần lượng chuyên chở qua kênh đào Panama.
Khu vực Biển Đông có những eo
biển quan trọng đối với nhiều nước, với 4 trong 16 con đường chiến lược của thế
giới nằm trong khu vực Đông Nam Á (Malacca, Lombok, Sunda, Ombai - Wetar). Đặc biệt
eo biển Malacca là eo biển nhộn nhịp thứ hai trên thế giới (sau eo biển
Hormuz).
Nạn cướp biển và khủng bố trên Biển Đông ở mức cao, đặc biệt sau vụ tấn công khủng bố tự sát vào tàu chở dầu của Pháp tháng 10 năm 2002.
Do đó, vùng biển
này hết sức quan trọng đối với tất cả các nước trong khu vực về địa - chiến
lược, an ninh, giao thông hàng hải và kinh tế, nhất là đối với Mỹ và Nhật Bản.
Biển Đông còn có liên hệ và ảnh hưởng đến khu vực khác, nhất là Trung Đông. Vì vậy,
việc Biển Đông bị một nước hoặc một nhóm nước liên minh nào khống chế sẽ ảnh
hưởng nghiêm trọng đến lợi ích an ninh, chính trị, kinh tế của các nước khu
vực.
Hàng năm có khoảng 70% khối lượng dầu mỏ nhập và khoảng 45% khối lượng hàng hoá xuất của Nhật Bản được vận chuyển qua Biển Đông. Trung cộng có 29/39 tuyến xuất nhập khẩu, 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu được vận chuyển bằng đường biển qua Biển Đông.
Hàng năm có khoảng 70% khối lượng dầu mỏ nhập và khoảng 45% khối lượng hàng hoá xuất của Nhật Bản được vận chuyển qua Biển Đông. Trung cộng có 29/39 tuyến xuất nhập khẩu, 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu được vận chuyển bằng đường biển qua Biển Đông.
Tầm
quan trọng chiến lược của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông
Các
đảo và quần đảo trong Biển Đông có ý nghĩa phòng thủ chiến lược quan trọng đối
với nhiều nước. Nằm ở trung tâm Biển Đông, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa là một trong những khu vực có nhiều tuyến đường biển nhất trên thế giới.
Trên các đường biển đóng vai trò chiến lược của Châu Á có hai điểm trọng yếu: Thứ nhất là eo biển Malacca (nằm giữa đảo Sumatra của lndonesia và Malaysia). Vị trí này vô cùng quan trọng vì tất cả hàng hoá của các nước Đông Nam Á và Bắc Á phải đi qua.
Trên các đường biển đóng vai trò chiến lược của Châu Á có hai điểm trọng yếu: Thứ nhất là eo biển Malacca (nằm giữa đảo Sumatra của lndonesia và Malaysia). Vị trí này vô cùng quan trọng vì tất cả hàng hoá của các nước Đông Nam Á và Bắc Á phải đi qua.
Ba eo biển thuộc chủ quyền của lndonesia là Sunda,
Blombok và Makascha đóng vai trò dự phòng trong tình huống eo biển Malacca
ngừng hoạt động vì lý do gì đó.
Tuy nhiên, nếu phải vận chuyển qua các eo biển
này thì hàng hoá giữa Ấn Độ Dương sang ASEAN và Bắc Á sẽ chịu cước phí cao hơn
vì quãng đường dài hơn. Điểm trọng yếu thứ hai là vùng Biển Đông, nơi có nhiều
đường hàng hải đi qua, đặc biệt là khu vực xung quanh hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Các đường biển chiến lược nói trên là yết hầu cho giao lưu hàng hoá của nhiều nước Châu Á. Xuất khẩu hàng hoá của Nhật Bản phải đi qua khu vực này chiếm 42%, các nước Đông Nam Á 55%, các nước công nghiệp mới 26%, Australia 40% và Trung cộng 22% (trị giá khoảng 31 tỷ đô la).
Các đường biển chiến lược nói trên là yết hầu cho giao lưu hàng hoá của nhiều nước Châu Á. Xuất khẩu hàng hoá của Nhật Bản phải đi qua khu vực này chiếm 42%, các nước Đông Nam Á 55%, các nước công nghiệp mới 26%, Australia 40% và Trung cộng 22% (trị giá khoảng 31 tỷ đô la).
Nếu khủng hoảng nổ ra ở
vùng biển này, các loại tàu biển phải chạy theo đường mới hoặc vòng qua Nam
Australia thì cước phí vận tải thậm chí sẽ tăng gấp năm lần và không còn
đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.[3]
Ngoài ra, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có vị trí chiến lược, có thể dùng để kiểm soát các tuyến hàng hải qua lại Biển Đông và dùng cho mục đích quân sự như đặt trạm ra đa, các trạm thông tin, xây dựng các trạm dừng chân và tiếp nhiên liệu cho tàu bè...
Ngoài ra, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có vị trí chiến lược, có thể dùng để kiểm soát các tuyến hàng hải qua lại Biển Đông và dùng cho mục đích quân sự như đặt trạm ra đa, các trạm thông tin, xây dựng các trạm dừng chân và tiếp nhiên liệu cho tàu bè...
Các nhà chiến lược phương Tây cho rằng quốc gia nào
kiểm soát được quần đảo Trường Sa sẽ khống chế được cả Biển Đông.
Trần Bông (gt)
Đề nghị Ban Biên Tập trang này cho in đậm
ReplyDeletecác tựa đề ở cột bên phải của màn hình.In kiểu này khó xem quá.
Cám ơn.