Rồi sẽ có một ngày
(XIN TIẾP TAY PHỔ BIẾN THẬT RỘNG RÃI - CHÂN THÀNH
CẢM TẠ.)
Võ
Trung Hiếu – Rồi sẽ có một ngày
Dự cảm
Rồi sẽ có một ngày con ạ
Báo đăng tin tàu Việt Nam bị tàu nước lạ bắn chìm
Lúc ấy con và lũ bạn con sẽ làm gì nhỉ ?
Xuống đường gào lên hay ngồi thiền lặng im ?
Rồi sẽ có một ngày
Báo đăng tin một công ty bên đại lục hay Hồng Công
Đã trúng thầu dự án khu đất thân yêu nơi gia đình con đang ở
Con có cảm thấy bất an hay dự cảm điều gì đáng sợ ?
Con có đành khoanh tay ngồi yên ?
Rồi sẽ có một ngày
Con chợt thấy bản đồ thành phố Saì Gòn thân yêu
Không còn những con đường mang tên Ngô Quyền, Yết Kiêu,
Quang Trung, Bà Trưng, Bà Triệu
Thay vào đó là những cái tên Vương, Tôn, Lý, Quách, Giả,
Ưng, Uông, Liễu …
Con sẽ đau nhói thẫn thờ hay chỉ ngồi há hốc ngạc nhiên
?
Ba không biết có sống đủ lâu để cùng con nhìn thấy những
bình minh
Nhìn thế hệ của ba và con làm thế nào mà giữ nước
Làm thế nào mà chặn quân xâm lược
Khi chúng không chỉ có vũ khí, quân đội, tình báo, vệ tinh,
truyền thông, học thuyết
Mà còn thừa mứa đô-la để thắng những gói thầu
Và muôn vàn mưu ma chước quỷ thâm sâu
Để đưa mọi thứ trên đất nước này vào vòng u mê kiềm toả
Rồi sẽ có một ngày con ạ
Xem thời sự trên tivi và phải nhói lòng
Ba chẳng đùa đâu con có biết không …
Một đất nước lặng im là một đất nước hôn mê
Một dân tộc lặng im là một dân tộc chết
(Trích
trong Lá Thư Úc Châu NNS)
|
- Trong lịch sử nhân loại, không có một chủ nghĩa nào tàn bạo
hơn chủ nghĩa Cộng Sản. ...
Hãy nói trước ngày chết
Trần Trung Đạo
- Trong lịch sử
nhân loại, không có một chủ nghĩa nào tàn bạo hơn chủ nghĩa Cộng Sản. Từ
khi Tuyên ngôn đảng cộng sản ra đời năm 1848 cho đến khi
bức tường Bá Linh bị đập đổ vào 1989, khoảng gần 100 triệu người từ nhiều
quốc gia đã bị giết. Hơn hai mươi năm qua, mặc dù ngọn lửa vô thần đã tắt
trên phần lớn quả địa cầu, một góc trời phương đông lửa vẫn còn đỏ rực, nhà
tù vẫn còn giam giữ nhiều người bất đồng với chế độ độc tài toàn trị và
tự do vẫn là một bóng mây xa.
Người đời có thói quen
kết án Stalin đã gây ra tội ác tày trời đối với nhân dân Liên Xô, Mao
Trạch Đông đã giết trên 30 triệu nhân dân Trung Quốc và Pol Pot tiêu diệt
một phần tư dân tộc Khmer bằng súng và cả bằng dao phay, cán cuốc. Những
chuyện đó ngày nay nhân loại đều biết và tội ác của chúng không còn là
vấn đề tranh cãi nữa. Tuy nhiên, làm thế nào một nông dân có gốc gác bình
thường, nếu không muốn nói là hiền lành như Mao lại có thể trở thành sát
nhân của mấy chục triệu dân Trung Quốc? Làm thế nào Pol Pot, con của một
điền chủ giàu có, được gởi sang Pháp ăn học, được bạn bè nhớ lại như một
người nhã nhặn, lịch sự và được gọi là trí thức trong xã hội Khmer còn
chậm tiến lúc bấy giờ, nhưng sau khi nắm chính quyền đã giết hai triệu
dân Khmer bằng búa, dao và những cách giết người tàn bạo hơn cả trong
thời Trung Cổ?
Bởi vì chủ nghĩa Cộng
Sản trang bị cho chúng một quyền lực tuyệt đối, một niềm tin cuối cùng,
một lối thoát tinh thần, một chỗ dựa lý luận để giải thích cho hành động
bất nhân của chúng. Nuon Chea, người đứng hàng thứ hai của chế độ Khờ Me
Đỏ chỉ sau Pol Pot, lạnh lùng trả lời báo chí, những kẻ bị giết chỉ vì
“họ là kẻ thù của nhân dân”. Đơn giản vậy thôi. Chúng ăn rất ngon và ngủ
rất yên dù sau một ngày ký hàng loạt bản án tử hình.
Giết một vài đối thủ
thì không sao nhưng để loại bỏ hàng triệu người là chuyện khác. Stalin
không thể lên tận các trại lao động khổ sai ở Siberia để bỏ đói những người
chống đối y. Mao Trạch Đông không thể xuống từng trường học để tra tấn
các thầy cô trong Cách Mạng Văn Hóa, Hồ Chí Minh không thể đích thân xử
bắn bà Nguyễn Thị Năm trong Cải Cách Ruộng Đất. Nhưng họ có khả năng huấn
luyện, đầu độc một thế hệ đao phủ thủ trẻ tuổi hăng say và cuồng tín để
làm thay. Quyền lực đặt vào tay đám đao thủ phủ trẻ này chẳng khác gì con
dao bén để chúng thanh toán những mối thù riêng và lập công dâng Đảng.
Tháng 10 năm 2002, nhà
báo Mỹ Amanda Pike đến
Campuchia để tìm hiểu nguyên nhân tội ác diệt chủng của Pol Pot đã không
được làm sáng tỏ. Amanda Pike phỏng vấn bà Samrith Phum, người có chồng
bị Khờ Me Đỏ giết. Theo lời kể của bà Samrith Phum, vào nửa đêm năm 1977
chồng bà bị một Khờ Me Đỏ địa phương bắt đi và giết chết vì bị cho là
“gián điệp CIA”. Hung thủ chẳng ai xa lạ mà là người cùng làng với bà
Samrith. Hiện nay, kẻ giết người vẫn còn sống nhởn nhơ chung một làng với
bà cách thủ đô Nam Vang vài dặm nhưng không một tòa án nào truy tố hay
kết án.
Với chủ trương “Dân tộc
Khờ Me cần đào hố để chôn đi quá khứ” Hun Sen đã cản trở Liên Hiệp Quốc
rất nhiều trong việc điều tra tội diệt chủng của chế độ Pol Pot. Hun Sen
cản trở vì bản thân y cũng từng là một sĩ quan Khờ Me Đỏ. Hun Sen nhiệt
tình với lý tưởng CS đến mức bỏ học theo Pol Pot khi còn trong tuổi thiếu
niên. Nhiều chi tiết trong quảng thời gian từ 1975 đến 1979 của cuộc đời
y vẫn còn trong vòng bí mật. Khi chôn quá khứ của Campuchia, Hun Sen muốn
chôn đi quá khứ tội lỗi của mình.
Tình trạng kẻ sát nhân
và gia đình những người bị sát hại vẫn còn sống chung làng, chung xóm,
chung thành phố không chỉ phổ biến tại Campuchia nhưng cũng rất phổ biến
tại Huế sau vụ Thảm sát Tết Mậu Thân 1968.
Số người bị giết trong
vụ Thảm sát Tết Mậu Thân khác nhau tùy theo nguồn điều tra nhưng phần lớn
công nhận số người bị giết lên đến nhiều ngàn người và “kẻ thù nhân dân”
không chỉ là công chức chính quyền VNCH mà còn rất đông sinh viên, học
sinh, phụ nữ, trẻ em và ngay cả một số giáo sư ngoại quốc. Ông Võ Văn
Bằng, Nghị viên tỉnh Thừa Thiên và cũng là Trưởng Ban Truy Tìm và Cải
Táng Nạn Nhân Cộng Sản Tết Mậu Thân, kể lại: “Các hố cách khoảng
nhau. Một hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng,
nào là nằm, nào là ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã
rã ra. Trên thi hài còn thấy những dây lạt trói lại, cả dây điện thoại
nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ, họ bị xô vào hố thành từng chùm.
Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng.”
Tài liệu liên quan đến Thảm sát Tết Mậu Thân rất
nhiều, từ điều tra của các nhà nghiên cứu nước ngoài cho đến các nhân
chứng sống Việt Nam. Đến nay, thành phần được nghĩ đã gây ra biến cố đầy
tang thương cho dân tộc Việt Nam này là những người Huế “nhảy núi”. Họ là
những người bỏ trường, bỏ làng xóm, bỏ cố đô lên rừng theo CS và Tết Mậu
Thân đã trở lại tàn sát chính đồng bào ruột thịt của mình. Họ là những kẻ
vừa được giải thoát khỏi nhà giam Thừa Phủ đưa lên núi huấn luyện vài
ngày rồi trở lại giết chết những kẻ bị nghi ngờ đã bỏ tù họ. Không giống
quân đội chính quy tấn công Huế, những du kích nằm vùng, những thanh
niên, sinh viên, học sinh là những người sinh ra và lớn lên ở Huế, thuộc
từng tên phố tên đường, biết tên biết tuổi từng người. Họ lập danh sách
và đến từng nhà lừa gạt người dân bằng cách “mời đi trình diện” rồi sẽ
trả về nhà ăn Tết. Những người nhẹ dạ đi theo. Mà cho dù không nhẹ dạ
cũng chẳng ai nghĩ mình sắp bị chôn sống chỉ vì làm chức liên gia trưởng
của năm bảy gia đình, ấp trưởng một ngôi làng nhỏ, xã trưởng của vài trăm
dân. Kết quả, từng nhóm, từng đoàn người lần lượt bị đem ra “tòa án nhân
dân” và kết án tử hình.
Người “nhảy núi” nổi tiếng nhất là Hoàng Phủ
Ngọc Tường.
Ngày 12 tháng 7 năm 1997, Hoàng
Phủ Ngọc Tường trả lời câu hỏi của nhà văn Thụy
Khuê về sự liên quan của ông đối với vụ Thảm sát Tết Mậu
Thân: “Sự thực là tôi đã từ giã Huế lên rừng tham gia kháng chiến
vào mùa hè năm 1966, và chỉ trở lại Huế sau ngày 26 tháng 3 năm 1975. Như
thế nghĩa là trong thời điểm Mậu Thân 1968, tôi không có mặt ở Huế” và
ông cũng thừa nhận Thảm sát Tết Mậu Thân là có thật chứ chẳng phải “Mỹ
Ngụy” nào dàn dựng “Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở
đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi
thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà
nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của
quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể
nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm
chiến tranh cách mạng”.
Khi được hỏi ai là những người
phải chịu trách nhiệm, Hoàng Phủ Ngọc Tường phát biểu “Nhưng tôi
tin rằng đây là một sai lầm có tính cục bộ, từ phía những người lãnh đạo
cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế” và tiếp tục nêu thêm chi tiết
chính Đại tá Lê Minh, tư lệnh chiến dịch Huế Mậu Thân thừa nhận trong tạp
chí Sông Hương “Dù bởi lý do nào đi nữa, thì trách nhiệm vẫn
thuộc về những người lãnh đạo mặt trận Mậu Thân, trước hết là trách nhiệm
của tôi.”
Tóm lại, Hoàng Phủ Ngọc Tường
trong buổi phỏng vấn dành cho nhà văn Thụy Khuê xác nhận ông ta không có
mặt ở Huế trong suốt thời gian Huế bị CS chiếm đóng và những kẻ sát hại
thường dân vô tội là do các “lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế” chủ
trương.
Tuy nhiên 15 năm trước đó, ngày
29 tháng 2 năm 1982, trong buổiphỏng vấn truyền hình dài 15
phút dành cho hệ thống WGBH, Hoàng Phủ Ngọc Tường thừa nhận việc dư luận
đang tố cáo ông là đúng, nghĩa là chính ông đã có mặt tại Huế: “Tôi đã
đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên
thì toàn là máu... Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút
ra...” và ông cho rằng một số người dân Huế chết thảm thương là
do sự trả thù của chính người Huế với người Huế “chính nhân dân
đã căm thù quá lâu, đó là những người đã bị chính nó tra tấn, chính nó đã
làm cho tất cả gia đình phải bị đi ở tù ra ngoài đảo v.v... và đến khi
cách mạng bùng lên họ được như là lấy lại cái thế của người mạnh thì họ
đi tìm những kẻ đó để trừ như là trừ những con rắn độc mà từ lâu nay nếu
còn sống thì nó sẽ tiếp tục nó gây tội ác trong chiến tranh.”
Nếu phân tích theo thời gian và
diễn biến chính trị thế giới, đặc biệt sự sụp đổ của phong trào CS quốc
tế, câu trả lời của Hoàng Phủ Ngọc Tường vào năm 1982 là thành thật và
sát với thực tế Mậu Thân nhất. Trong giai đoạn chuyên chính vô sản vài
năm sau 1975, không chỉ ông ta mà cả các lãnh đạo CSVN vẫn nghĩ “con
đường tất yếu” là con đường “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên
chủ nghĩa xã hội”. Không có một thế lực nào cản trở sức chảy của “ba dòng
thác cách mạng”. Vào thời điểm 1982, Hoàng Phủ Ngọc Tường chẳng những không
sợ gì phải che giấu mà còn xem đó như một thành tích cần được nêu ra. Xem
đoạn phim, khuôn mặt Hoàng Phủ Ngọc Tường đằng đằng sát khí khi diễn tả
việc giết một viên chức VNCH:“chỉ lấy lại mạng sống của một người,
giá đó rất nhẹ và công bằng”.
Thái độ đó hoàn toàn khác với
giọng ôn tồn khi ông ta nhắc lại lời của Đại tá CS Lê Minh như thay cho
chính mình 15 năm sau “bây giờ, là những người lãnh đạo kế nhiệm
ở Huế, phải thi hành chính sách minh oan cho những gia đình nạn nhân Mậu
Thân, trả lại công bằng trong sáng và những quyền công dân chính đáng cho
thân nhân của họ”. Thời gian đổi thay, lịch sử đổi thay và con người
cũng thay đổi. Không phải chỉ Hoàng Phủ Ngọc Tường mà cả những cựu lãnh
đạo CS Đông Âu, một thời giết người không chút xót thương, sau 1990 cũng
trả lời báo chí với giọng ngọt ngào như thế.
Nhiều bạn hữu của Hoàng Phủ
Ngọc Tường như tác giả Ngô Minh viết trên talawas 2008, cho rằng Hoàng
Phủ Ngọc Tường “trong suốt những năm lên “xanh” ở A Lưới, Hoàng
Phủ Ngọc Tường không được phân công về thành phố hay đồng bằng một chuyến
nào cả” mà không biết hay cố tình bỏ qua sự kiện 26 năm trước
chính Hoàng Phủ Ngọc Tường đã xác nhận mình ở Huế với những tình tiết mắt
thấy tai nghe của một người trong cuộc.
Hai buổi trả lời phỏng vấn hoàn
toàn trái ngược chứng tỏ Hoàng Phủ Ngọc Tường phải có một khó khăn để
giải thích sự liên hệ của mình đến vụ Thảm sát Mậu Thân. Lời phát biểu
của ông cho thấy một điều, ngoại trừ trẻ em quá nhỏ, những người bị giết
chắc chắn biết người giết mình là ai.
Không giống Hoàng Phủ Ngọc
Tường mâu thuẫn, hai ông Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Phan từ trên
núi theo đoàn quân CS đánh vào Huế. Hai ông không từ chối điều này nhưng
đều phủ nhận đã có liên hệ gì với Thảm sát Mậu Thân. Trong bài viết Nhân
đọc bài "Trịnh Công Sơn - Những hoạt động nằm vùng” Hoàng Phủ Ngọc
Phan khẳng định: “Còn tôi thì có theo chiến dịch về hoạt động ở Thành nội
Huế nhưng tôi không hề giết ai cả, suốt gần 10 năm đi kháng chiến cũng
không hề làm thiệt mạng một con thú trên rừng chứ đừng nói là con người.”
Nhà văn Nhã Ca kết án ông
Nguyễn Đắc Xuân trong Giải Khăn Sô Cho Huế vì đã “đích
tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên
hố để xử tử” và ông Nguyễn Đắc Xuân đáp lại trong bài Hậu Quả
Của “Cái Chết” của tôi: “Còn tôi, một sinh viên Phật tử mới thoát
ly chưa đầy một năm rưởi, không có quyền hành gì, nếu tôi muốn làm những
việc như Nhã Ca viết thì cũng không thể làm được. Không ai cho tôi làm.
Nếu tôi tự ý làm, làm sao tôi có thể thoát được sự phê phán của đồng chí
đồng sự của tôi, đặc biệt là những người sau nầy không còn đứng trong
hàng ngũ kháng chiến nữa...”
Chuyện “thoát ly chưa đầy một
năm rưỡi” không chứng minh được ông ta không có quyền giết người, trái
lại cũng có thể giải thích ngược, càng tham gia trễ càng phải chứng tỏ
nhiệt tình cách mạng cao độ, càng phải giết nhiều người, càng phải lập
nhiều công. Nói thế không phải để đánh bồi thêm một người đã ngã nhưng
cho thấy lời biện bạch của ông không thuyết phục.
Trong tinh thần “Lợi ích của sự
ngờ” (Benefit of the doubt), tạm cho những lời người khác kể về các ông
chưa đủ bằng chứng kết tội, tuy nhiên, các ông Hoàng Phủ Ngọc Phan và
Nguyễn Đắc Xuân, những thành viên tích cực của phong trào đấu tranh đô
thị, hoạt động 26 ngày trong lòng thành phố Huế bị rơi vào tay các ông
với nhiều ngàn người dân vô tội bị giết bằng những cách dã man hơn cả bọn
diệt chủng Pol Pot mà các ông nói rằng không biết gì, không thấy gì thì
trẻ con ngây thơ cũng không tin được.
Và không chỉ ba ông Hoàng Phủ
Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan mà cả thế hệ “nhảy núi”
ở Huế trong đó rất nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, nhà văn, nhà thơ, họa
sĩ, nhạc sĩ cho đến nay vẫn không biết gì, không thấy gì, không viết gì
về Thảm sát Tết Mậu Thân thì quả là chuyện lạ. Hãy thử đặt mình trong vị
trí của gia đình các nạn nhân vụ Thảm sát Huế, các ông có nghĩ rằng chính
Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân đã giết hoặc
biết chắc ai đã giết thân nhân các ông các không? Chắc chắn là có, không
thể có lời giải thích thứ ba.
Lẽ ra Thảm sát Tết Mậu Thân
phải là nguồn thôi thúc cho nhiều tác phẩm văn học lớn nói lên sự đau
khổ, sự chịu đựng tận cùng của đồng bào Huế nói riêng và dân tộc Việt Nam
nói chung. Lẽ ra những người đang bị dư luận kết án, nếu thật sự không
tham dự vào cuộc tàn sát, thay vì than mây khóc gió trong văn chương hay
lao đầu vào cơm áo, nên dành phần còn lại của đời mình đi tìm cho ra cội
nguồn gốc rễ để vừa giải oan cho đồng bào mà cũng minh oan cho chính
mình. Gia đình nạn nhân còn đó, nhân chứng còn đó, hầm hố còn đó, bạn bè
còn đó, chứng tích còn đó, chế độ còn đó. Có thể người đọc vì sự công
phẫn chưa nguôi, sẽ không tin hết các điều các ông các bà viết nhưng nếu
đúng rồi lịch sử sẽ tin. Nếu không làm thế, cơ chế độc tài này chắc chắn
sẽ tàn lụi nhưng tên tuổi Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan,
Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan Trinh v.v... mãi mãi vẫn là những dấu
đen ngàn đời không phai.
Dư luận khắt khe nhưng không
bất công. Suốt 42 năm, các ông các bà có rất nhiều cơ hội để làm sáng tỏ
một sự kiện lịch sử mà các ông các bà từng tham dự, nhưng ngoại trừ việc
phải trả lời vài buổi phỏng vấn rải rác đó đây, các ông các bà im lặng.
Kết án lại những người kết án không phải là cách trả lời mà nhân dân Việt
Nam đang muốn biết. Ông Nguyễn Đắc Xuân được gọi là “nhà Huế học” nhưng
Huế không chỉ có sông Hương, núi Ngự, lăng tẩm, đền đài mà còn có Bãi
Dâu, Khe Đá Mài, khu Gia Hội và hàng chục ngôi mồ tập thể khác. Đời sống
của một dân tộc không chỉ gồm những thời đẹp đẽ, vinh quang mà còn cả những
giai đoạn đau buồn, tủi nhục. Tại sao các ông các bà không viết? Phải
chăng những người “nhảy núi” ở Huế cũng giống như Hun Sen hay tên Khờ Me
Đỏ giết chồng bà Samrith Phum năm 1977, đang cố chôn đi quá khứ? Sự im
lặng của các ông các bà không phải là một công án thiền mà là lời tự tố
cáo lớn tiếng nhất.
Dân tộc Việt Nam đã trải qua
nhiều thời kỳ suy vi và phân hóa nhưng sự kiện một số người dã tâm tàn
sát nhiều ngàn người Việt khác trong chỉ vài tuần bằng các phương tiện
phi nhân chưa từng có như ở Huế là lần đầu. Vết thương Mậu Thân sẽ không
bao giờ lành một khi tội ác chưa được đưa ra ánh sáng. Nền tảng của hòa
giải là công lý và sự thật chứ không phải che đậy và lãng quên.
Nhiều tác giả đã viết về Thảm
sát Mậu Thân. Những dữ kiện trong bài viết này không có gì mới mà đã được
nhắc đi nhắc lại. Dụng ý của kẻ viết bài này chỉ muốn nhấn mạnh một điều
rằng, nhiều trong số những người “nhảy núi” còn sống ở Huế hay trong và
cả ngoài nước, nhưng chắc không sống bao lâu nữa. Tuổi tác của các ông
các bà đều trên dưới bảy mươi. Thời gian còn lại như tiếng chuông ngân đã
quá dài. Tất cả sẽ là không. Các ông các bà ra đi không mang theo gì cả
nhưng sẽ để lại rất nhiều. Vẫn biết con người khó tự kết án chính mình
nhưng các ông, các bà vẫn còn nợ dân tộc Việt Nam, nhất là các thế hệ mai
sau, câu trả lời cho cái chết của nhiều ngàn dân Huế vô tội.
Ngọn nến trước
khi tắt thường bật sáng, vì tương lai dân tộc, các ông các bà hãy sáng
lên sự thật một lần trước ngày chết.
Trần Trung Đạo
|
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment