Khán giả ti vi ở Pháp sẽ được coi một chương trình đặc biệt
vào tối ngày mai, một phóng sự hình ảnh về đề tài, nạn mua bán
đàn bà Việt Nam đưa sang Trung Quốc (Les Branches esseulées: Trafic de
femmes vietnamiennes en Chine).
Tựa đề “Les Branches esseulées” dịch nguyên văn hai chữ Hán
mà người Tầu phiên âm là “Guang-gun,” đọc lối Hán Việt là “Quang Côn.”
Quang là sáng, cũng nghĩa là trống trải, như khi ta nói “phong quang, quang
đãng.” Côn là cây gậy, có thể dùng để đánh nhau, “Côn quyền ra sức lược
thao gồm tài” (Truyện Kiều). Quang côn là cây gậy trơ trụi, là cành cây
không lá không hoa. Trong từ điển Hán Việt ghi nghĩa thông dụng nhất của từ
này: Quang côn là đàn ông con trai chưa có vợ, độc thân, thường gọi là ế
vợ.
Hai nhà báo công ty truyền thông CAPA, Patricia Wong và Gaël
Caron, đã bỏ mấy tháng trời theo dõi một chàng trai người Trung Hoa đi mua
vợ ở tận vùng gần Sài Gòn, Việt Nam, cách xa làng anh ta 3,500 cây số. Tên
anh ta là Xiao Lu, 30 tuổi, chưa có vợ bao giờ. Anh làm công nhân đồn điền
trà, ở một làng tên là Ting Xia. Tìm trong các mạng ở Trung Quốc thấy có
làng trồng trà có tiếng tên là Thôn Ðình Hạ. Chương trình Quang Côn này sẽ
được chiếu trên đài France 2 vào tối Thứ Năm, ngày 7 Tháng Ba 2013 này. Hai
nhà báo đi theo anh Xiao Lu trên con đường thiên lý tầm thê đó. Nhưng bài
phóng sự cũng mô tả chung nạn mua bán đàn bà con gái từ các nước Việt Nam,
Lào, Miến Ðiện và Indonesia, đưa sang Tàu.
Trước đây đã nhiều nhà báo viết về nạn buôn phụ nữ Việt Nam
bán sang Tàu, như trên tờ Wall Street Journal đã kể câu chuyện một cô quê ở
Nam Ðịnh bị bán sang Quảng Ðông. Cô phải sống ở một làng miền núi, bị gia
đình chồng và cả hàng xóm của họ canh giữ nghiêm ngặt không cho trốn đi.
Sau cố lén gửi được thư cho gia đình tại Việt Nam, rồi một người anh trai
lặn lội đi tìm được làng cô ở và bày mưu cứu cô về. Năm 2004 hai tác giả
Valerie Hudson và Andrea den Boer viết cuốn sách tiếng Anh mang tựa đề
“Bare Branches,” Cành Trụi, dịch sát hai chữ Quang Côn, trình bày tình
trạng nhiều đàn ông ở nước Tầu ế vợ, do nhà xuất bản Ðại Học MIT in.
Bản tin loan báo chương trình Quang Côn, Les Branches
esseulées, cho biết những “cô dâu” được “nhập khẩu” qua Tàu, trên nguyên
tắc để làm vợ cho các quang côn, những cành cây trụi lá; nhưng họ được đem
bán như bán nô lệ. Sớm muộn họ sẽ chạm mặt với thực tế phũ phàng, khác hẳn
những gì được ông chồng tương lai hứa hẹn. Họ sẽ lao động cực nhọc ở các
làng quê hẻo lánh, ngoài việc lo sinh đẻ. Nhiều cô dâu đã tìm đường trốn
đi, nhiều cô đành chịu đựng số phận.
Hai nhà báo
Patricia Wong và Gaël Caron bắt đầu chương trình với cảnh mua vợ của Xiao
Lu tại vùng phụ cận Sài Gòn. Các quang côn được tập trung tại một khách
sạn; họ bị ngăn cản không cho đi đâu, vì bọn lái buôn đã tịch thâu giấy
thông hành, hộ chiếu của họ. Rồi họ được đi xem mặt hàng, là các cô gái
Việt Nam tuổi ở 20. Một chuyến đi mua vợ như vậy tốn khoảng 5,000 đồng
Euro, vào khoảng 8,000 đô-la Mỹ; những cô còn trinh được trả giá cao hơn.
Giống như các siêu thị và cửa hàng bách hóa lớn ở Mỹ, khách tiêu thụ
không hài lòng với các “món hàng” này có thể đem đổi lấy món hàng khác
tương đương,“échangeable” trong nguyên văn. Bọn buôn người gồm cả
người Tàu và người Việt.
Trong gian phòng khách sạn, nhà báo quay cảnh Xiao Lu gặp cô dâu tên là Thu
Yến, một cô gái quê sợ sệt, nhút nhát. Hai người không thể nói chuyện gì
với nhau cả vì ngôn ngữ bất đồng. Tất nhiên không ai mở miệng nói đến chữ
“yêu.” Mấy ngày sau, họ về làng của cô gái ở vùng đồng bằng sông Cửu Long
làm lễ cưới, một nghi lễ không có giá trị pháp lý. Sau đám cưới, bà mối
người Tàu tên là bà Vương (Wang) đưa cho Thu Yến hộ chiếu với visa nhập
cảnh Trung Quốc. Mấy ngày sau, Thu Yến về đến nhà chồng, ở một làng trong
một thung lũng hẻo lánh; mọi người chung quanh nói thứ tiếng cô không hiểu được.
Hình minh họa
Trung Quốc có rất nhiều đàn ông ế vợ, một phần vì chính sách
của Mao Trạch Ðông chỉ cho phép mỗi cặp vợ chồng có một đứa con, áp dụng
cho phần lớn nhưng không phải tất cả dân Trung Hoa. Vì mong có con trai nối
dõi, nhiều người đã giết chết các trẻ sơ sinh con gái, nhiều nhất là ở miền
quê; gây ra cảnh trai thừa gái thiếu hiện nay.
Theo báo Nhà Kinh tế (The Economist, March 6, 2010), đầu năm
2010 Viện Khoa Học Xã Hội Trung Quốc (CASS) đã tiên đoán trong mười năm nữa
ở nước Tầu cứ năm (5) thanh niên đến tuổi cưới vợ sẽ có một chàng không thể
tìm được cô nào để “rước về.” Con số này tính ra dựa trên tỷ lệ số trẻ em
trai và gái sinh ra trong khoảng từ 5, 10 năm trước. Vào năm 2020 trong lớp
tuổi 19 trở xuống, sẽ có từ 30 đến 40 triệu thanh niên “thặng dư” so với số
phụ nữ độc thân cùng tuổi, nghĩa là họ không thể nào có vợ - trừ khi nhập
cảng phụ nữ hoặc xuất khẩu đàn ông!
Ðể độc giả thấy rõ con số đó lớn hay nhỏ ra sao, báo
Economist đã so sánh: Con số 40 triệu này lớn bằng tất cả số thanh niên
cùng tuổi ở nước Mỹ vào năm 2020, có vợ hoặc chưa có vợ. Trong lịch sử loài
người, trong thời gian không có chiến tranh, chưa bao giờ một nước nào trên
thế giới lại “chứa” một lực lượng đàn ông độc thân và ế vợ cao đến thế. Nếu
so sánh với Việt Nam thì con số 40 triệu đó cũng xấp xỉ một nửa dân số nước
ta, tức là gần bằng tổng số người đàn ông, con trai người Việt, kể từ trẻ
sơ sinh tới các cụ già.
Trong các xã hội
bình thường, cứ 100 trẻ em gái sinh ra thì có từ 103 đến 106 trẻ sơ sinh
con trai. Vì trẻ em con trai dễ bị chết yểu hơn con gái, cho nên khi chúng
lớn lên đến tuổi lập gia đình thì số trai gái cao xấp xỉ bằng nhau. Nhưng
tại nhiều nước hiện nay tỷ lệ 100 gái/105 trai không còn nữa. Trong những
năm từ 1985 đến 1989, tỷ lệ nam nữ ở Trung Hoa đã chênh lệch thành 100/108,
tức là 100 bé gái thì có 108 bé trai. Trong những năm từ 2000 đến 2004, tỷ
lệ càng nghiêng lệch thêm, 100 bé gái sinh ra thì sinh 124 bé trai. Tại nhiều
tỉnh ở miền Nam và Trung nước Tầu, tỷ lệ này lên tới 100/130 hay 140.
Tỉnh Quảng Ðông, ở sát nước ta, là nơi cứ 100 em gái ra đời thì có 120 em
trai. Ðến năm 2025, 2030, cứ 100 cô gái sẽ có 120 cậu trai muốn cưới làm
vợ. Nếu trong mươi năm tới ở tỉnh trù phú nhất Trung Quốc này, mà có độ
dăm, mười triệu thanh niên ế vợ, thì có ảnh hưởng gì tới xã hội Việt Nam
hay không?
Chương trình ti vi trên đài France 2 chắc sẽ làm các khán giả
người Pháp kinh ngạc. Nhưng đối với khán giả người Việt Nam thì chắc đó
cũng là một mối sỉ nhục. Trong lịch sử nước ta chưa bao giờ có cảnh phụ nữ
được đem bày hàng để bán, với điều kiện “không hài lòng thì đổi” để tận
tình phục vụ người tiêu thụ. Chỉ dưới chế độ “ưu việt” kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay mới biến các cô gái thành hàng
hóa xuất khẩu như vậy. Nhưng sau khi cảm thấy tủi nhục, người Việt Nam còn
lo ngại nữa.
Có một quy luật dân số học, trong quá khứ, nhận thấy rằng các
nước nhiều thanh niên ế vợ thường hay gây chiến với lân bang. Khi dân số
nước đó tăng lên nhanh hơn khả năng sản xuất, số thanh niên trai tráng
nhiều hơn, đa số trong tuổi lao động bị thất nghiệp, quá nhiều người không
thể nào kiếm được vợ vì thừa trai thiếu gái, thì chiến tranh có thể giúp
giải quyết cả ba vấn đề một lúc: thất nghiệp, dân số đông, và đàn ông ế vợ.
Chính quyền một quốc gia quá đông “quang côn” thấy đó là một cách giải quyết
số đàn ông thặng dư. Nếu không, đám thanh niên “bức xúc” và bất mãn đó sẽ
dùng thời giờ không làm việc để gây tội ác, hoặc quay ra làm cách mạng, nổi
loạn chống chính quyền. Không phải cuộc chiến tranh nào cũng xẩy ra vì quá
nhiều thanh niên ế vợ; nhưng trong một xã hội mà số đàn ông thặng dư đông
quá thì, khi kinh tế suy yếu, người cầm quyền thường gây chiến.
Ở Trung Quốc, ông
Tập Cận Bình mới nhậm chức đã gia tăng ngân sách quân sự, tỷ số gia tăng
lớn quá đến nỗi Bắc Kinh phải lên tiếng giải thích, khi nhiều quốc gia tỏ ý
lo ngại. Ông Tập Cận Bình tăng ngân sách quốc phòng chỉ để mua chuộc các
tướng lãnh Trung Quốc? Hay ông đang lo trước vấn đề do 35 triệu quang côn
sẽ gây ra trong mươi năm sắp tới?
Ngô Nhân Dụng
|
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment