“Sống mà không có tự do, dân chủ và nhân quyền thì
sống cũng như là chết”
- Thứ nhất : con người không
phải là con vật như chủ nghia cộng sản khẳng định vì con người còn có tâm
linh nghiã là có đời sống tinh thần, cho nên không chỉ có cần miếng ăn
là đủ mà còn biết suy tư để làm cho cuộc đời được thăng tiến. Từ chỗ
suy tư con người sinh ra những quan điểm khác biệt và để phân
biệt đúng sai một cách công minh các quốc gia tiến bộ đã chấp nhận
sinh hoạt chính trị đa đảng và để người dân toàn quyền chọn lựa
người điạ diện cho mình điều hành đất nước trong một nhiệm kỳ
nhất định, đó chính là tự do, dân chủ và nhân quyền.
- Thứ hai
: Đời sống tâm linh là đời sống siêu hình không thể thấy được ở thế
giới loài người và đã là con người thì dù bất kể là ai cũng đều phải chết
và ai cũng biết chết không phải là hết mà chỉ là chuyển đổi từ thế giới
hữu hình sang thế giới vô hình mà ở đó tất cả mọi sự việc đã làm trên
thế giới hữu hình sẽ hiện ra trước mắt mọi người và mọi sự đúng sai , tốt xấu
... mọi người sẽ rõ . Như thế sự sinh hoạt cuả các tôn giáo là một nhu cầu
không thế thiếu cuả con người, cho nên chủ trương vô thần và tiêu diệt tôn giáo
cuả chủ nghiã cộng sản là điều đi ngược lại lối sống cuả loài người
Larry Berman – Trần Quốc Việt
(Danlambao) lược dịch - “Đối với
các ông chúng tôi không hơn gì là chấm nhỏ trên bản đồ thế giới. Nếu các ông muốn
từ bỏ cuộc đấu tranh, thì chúng tôi sẽ chiến đấu một mình cho đến khi nào vô
phương, và rồi chúng tôi sẽ chết… Đối với chúng tôi, sự chọn lựa là giữa sống
và chết. Đối với chúng tôi ký vào hiệp định, mà chẳng khác gì đầu hàng tức sẽ
chấp nhận bản án tử hình, vì sống mà không có tự do là chết. Không, sống như
thế còn tệ hơn cả chết!” - Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu.
*
Vào ngày 18 tháng 10, Henry Kissinger bay trực tiếp từ Paris đến
Sài Gòn để báo cáo Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về hiệp định hòa bình. Buổi họp
ngày 19 tháng 10 kéo dài gần hai giờ. Sau khi lắng nghe Kissinger thuyết trình,
ông Thiệu muốn có bản thảo hiệp định. Ông được trao cho bản tiếng Anh.
Cuộc họp trở nên xấu đi. Đầu tiên, ông Hoàng Đức Nhã, cố vấn cho
Tổng thống Thiệu, chỉ được trao cho bản tiếng Anh. Ông Nhã phẫn nộ đáp
lại: “Chúng tôi không thể thương lượng số phận của nước mình bằng tiếng
nước ngoài!” Ông rất tức giận đòi có bản tiếng Việt. Ông Nhã muốn thấy
bản tiếng Việt mà những người cộng sản đã trao cho Kissinger.
Kissinger nói, “À, chúng tôi quên.” Ông Nhã
đáp: “Ông muốn nói gì thế, ông quên ư?”. Rồi ông Nhã chế giễu toàn
bộ quá trình hội nghị và ông nói với Kissinger, “Ông muốn bảo tôi người
Mỹ có thể hiểu tiếng Việt hơn người Việt? Chúng tôi muốn thấy bản tiếng Việt.”
Về sau khi nhận được bản tiếng Việt, ông Nhã mới nhận ra rằng
nhân dân Miền Nam được yêu cầu ký vào bàn hiệp định mà tương đương như bản
tuyên bố đầu hàng.
Trong buổi họp ấy ông Nhã nhớ lại, “Kissinger nói giải
pháp mới này khiến vị thế của Bắc Việt suy yếu hoàn toàn, và ngay cả Lê Đức Thọ
còn ôm tôi khóc. Lúc đó tôi nhìn ông ta chăm chú mà lòng rất hoài nghi. Tôi
nói, Lê Đức Thọ? Một tay cộng sản già giặn? Mà khóc sao? Rồi tôi nói đùa mà ông
ta không thích. Tôi nói: Coi chừng nước mắt cá sấu đấy.”
Sau này, ông Thiệu bảo ông Nhã, “Tôi muốn đấm vào miệng
Kissinger.”
Còn John Negroponte, trợ lý cho Kissinger, hồi tưởng lại cuộc
họp ấy theo ngôn ngữ ngoại giao:
“Bầu không khí cuộc họp ấy rất căng thẳng và rất khó chịu. Chúng
tôi đến Sài Gòn vào tháng 10 năm 1972 mang theo toàn bộ bản hiệp ước kết thúc
chiến tranh mà có quan hệ trực tiếp, thật sự quan hệ gần như hoàn toàn đến sự
tồn vong quốc gia của họ trong tương lai. Thế mà chúng ta yêu cầu họ ký ngay
vào hàng cuối cùng. Vì thế bầu không khí rất căng thẳng, và Tổng thống Thiệu
phản đối rất dữ dội bản thảo hiệp định.”
Ông Nhã thức khuya để đọc bản dịch tiếng Anh và ông nhận ra rằng
có những điểm mà “chúng tôi đã hoàn toàn bác bỏ trong các cuộc mật đàm
trước, và chúng tôi đã nghĩ rằng phía Mỹ đã đổng ý với chúng tôi là không nêu
ra những vấn đề ấy nữa, nhưng bây giờ chúng tôi thấy rằng những người cộng sản
lại nêu ra những vấn đề ấy dưới hình thức này hay hình thức khác.”
Chẳng hạn, bản thảo hiệp định đề cập đến ba quốc gia Đông Dương:
Lào, Cambodia và Việt Nam. Như vậy, ngay từ đầu Việt Nam được mô tả như là một
nước, chứ không phải hai nước. Nếu thế làm sao quân đội của nước mình rút ra
khỏi nước mình được? Từ đấy, ông Nhã hỏi Kissinger chuyện gì đã xảy ra với “bốn
quốc gia”. Kissinger đáp là do đánh máy sai. Ông Nhã cười “Tôi biết tẩy
các ông rồi. Số “3″ không được viết ở đấy. Cái từ “ba” viết ra không phải là
con số, nó là từ ba, B- A. Cho nên đây là điều chúng tôi không thích.”
Kế tiếp, ông Nhã suy đoán rằng cái gọi là Hội đồng Hòa giải và
Hòa hợp Dân tộc thực tế chỉ là một“liên hợp trá hình vì những người cộng sản
hơi thông minh hơn Hoa Kỳ.” Bản tiếng Anh đề cập đến hội đồng như
là “cấu trúc hành chánh” nhưng bản tiếng Việt lại ghi hội đồng
là “cơ cấu chánh quyền”, qua đó nên được dịch sang tiếng Anh “cấu
trúc chánh quyền”, như thế ám chỉ một cấu trúc từ trung ương đến cơ sở và
bao gồm toàn bộ chính quyền từ hành pháp, lập pháp đến tư pháp. Đây là vấn đề
chính đối với Miền Nam.
Cuối cùng sau khi trình bày xong, ông Nhã đưa ra 64 điểm cần
phải thay đổi.
Cuộc họp diễn ra cực kỳ tranh cãi, nhưng Tổng thống Thiệu vẫn
giữ nguyên lập trường. Ông Nhã báo cho Tổng thống Thiệu biết Kissinger đến Sài
Gòn để phản bội miền Nam Việt Nam, và vì đây là vấn đề sinh tử cho nên Tổng
thống cần nghĩ ra chiến lược nhằm đối phó với Kissinger.
Ông Nhã thuyết phục Tổng thống Thiệu hủy bỏ cuộc họp với
Kissinger vào cuối ngày. Kissinger nổi giận, nói với ông Nhã “Tôi là
Đặc sứ của Tổng thống Hoa Kỳ. Ông biết không nên đối xử với tôi như kẻ sai vặt.
Tôi phải gặp Tổng thống Thiệu tối nay.” Ông Nhã cứng rắn đáp
trả: “Đừng cảm thấy bị xúc phạm, tôi không bao giờ coi ông là kẻ sai
vặt. Tổng thống không thể tiếp ông vì quả thực có cuộc họp với các tướng lãnh.
Cuộc họp sẽ kéo dài bốn giờ.”
Kissinger bấy giờ ắt hẳn nhận thức Tổng thống Thiệu sẽ từ chối
ký hiệp định. Cho nên ông rời Sài Gòn sang Cambodia, nơi ông và Thủ tướng Lon
Nol nâng ly chúc mừng “hòa bình ở Việt Nam”. Khi ở Phnom Penh Kissinger khiến
Lon Nol có ấn tượng rằng Tổng thống Thiệu chấp thuận hiệp định. Khi biết
chuyện, Tổng thống Thiệu lại càng tức giận trước sự trân tráo của Kissinger.
Hòa bình vẫn còn mờ mịt. Vào ngày 21 tháng Mười Kissinger trở về
từ Phnom Penh và đi thẳng đến gặp Tổng thống Thiệu. Trong tâm trạng “căng thẳng
và rất khích động”, Tổng thống Thiệu nghĩ bản hiệp định được đưa ra này thậm
chí còn tồi tệ hơn hiệp định 1954: “Tôi có quyền nghi ngờ Mỹ đã âm mưu
với Liên Xô và Trung Cộng. Vì các ông thừa nhận sự hiện diện của Bắc Việt ở
đây, cho nên nhân dân miền Nam cho rằng Hoa Kỳ đã bán đứng họ và Bắc Việt đã
thắng cuộc chiến.”
Ông nói tiếp “Tiến sĩ Kissinger nói ngày hôm kia rằng Lê Đức
Thọ bật khóc, nhưng tôi có thể đoan chắc với ông ta rằng nhân dân Miền Nam là
những người đáng khóc, và người nên khóc là tôi… Nếu Mỹ muốn bỏ rơi nhân dân
Miền Nam, đó là quyền của họ!”
Tổng thống Thiệu nói dù chuyện gì xảy ra ông cũng cảm ơn Tổng
thống Nixon về tất cả những gì ông ta đã làm cho Miền Nam Việt Nam. Ông biết
Nixon phải hành động vì quyền lợi riêng của mình và vì quyền lợi của nhân dân
ông ta. Ông cũng phải hành động vì quyền lợi của nhân dân Miền Nam Việt Nam.
Kissinger nói với Tổng thống Thiệu con đường Tổng thống Thiệu
đang đi sẽ là con đường tự sát. Tổng thống Thiệu đáp rằng có từ 200.000 đến
300.000 quân Bắc Việt ở miền Nam và Hội đồng Hòa giải và Hòa hợp Dân tộc gồm có
ba thành phần. “Nếu chúng tôi chấp nhận văn kiện như hiện nay, chúng
tôi sẽ tự sát- và tôi sẽ tự sát.”
Kissinger cố gắng lần cuối cùng để thuyết phục Tổng thống Thiệu.
Kissinger nói trong vòng sáu tháng, nếu Tổng thống Thiệu không ký, quốc hội Mỹ
sẽ cắt viện trợ. Bất chấp những lời khẩn cầu của Kissinger, ông Thiêu vẫn từ
chối ký hiệp định.
Kisinger nói với ông Nhã, “Tổng thống đã chọn con đường
tử vì đạo. Nếu chúng tôi phải làm, Hoa Kỳ có thể ký hiệp ước hòa bình riêng với
Hà Nội. Còn về phần mình, tôi nhất định không bao giờ đặt chân lại Sài Gòn. Sau
vụ này. Đây là thất bại lớn nhất trong nghề nghiệp ngoại giao của tôi!”
“Chúng tôi rất lấy làm tiếc”, Ông Nhã đáp lời, “nhưng
ông phải nhớ chúng tôi có cả quốc gia để bảo vệ!”
Tổng thống Thiệu chỉ bản đồ nói, “Đối với các ông chúng
tôi không hơn gì là chấm nhỏ trên bản đồ thế giới. Nếu các ông muốn từ bỏ cuộc
đấu tranh, thì chúng tôi sẽ chiến đấu một mình cho đến khi nào vô phương, và
rồi chúng tôi sẽ chết… Đối với chúng tôi, sự chọn lựa là giữa sống và chết. Đối
với chúng tôi ký vào hiệp định, mà chẳng khác gì đầu hàng tức sẽ chấp nhận bản
án tử hình, vì sống mà không có tự do là chết. Không, sống như thế còn tệ hơn
cả chết!”
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment