Một Tài Liệu
về Trường Võ Bị Quốc Gia
và Các Sĩ Quan Tốt Nghiệp
và Các Sĩ Quan Tốt Nghiệp
Nguyễn kỳ Phong
Trong
hai năm 1973 và 1974, một tham vụ chính trị ở Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tên là James
Nach, bắt đầu thâu thập một số chi tiết lịch sử về nguồn gốc các trường đào tạo
sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) và sĩ quan tốt nghiệp từ các trường
đó.
Tác giả ghi lại rất nhiều chi tiết về mười khóa đầu của Trường Võ Bị Quốc
Gia Đà Lạt và năm khóa đầu của Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức. Đây là một tập tài
liệu với nhiều chi tiết lý thú. Ông James Nach còn bỏ công ra ghi lại chức vụ
đương nhiệm của một số sĩ quan tốt nghiệp.
Theo sự hiểu biết của người viết bài
này, tài liệu của James Nach là một trong hai tài liệu duy nhất của người Mỹ
nghiên cứu về hệ thống đào tạo sĩ quan và xuất thân của sĩ quan QLVNCH.
Năm
1970, cơ quan Advanced Research Projects Agency (một cơ quan nghiên cứu thuộc Bộ
Quốc Phòng Hoa Kỳ) có thực hiện một nghiên cứu với tựa đề An Institutional
Profile of the South Vietnamese Officer Corps.
Tuy nhiên, nghiên cứu này có
tính cách chính trị nhiều hơn là lịch sử, vì tài liệu chỉ nói đến hệ thống sĩ
quan tướng lãnh và phân lọai họ có chiều hướng theo “phe” nào trong thời điểm
đó.
Tài liệu của James Nach được viết ở Sài Gòn và gởi về Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ
với sự chuẩn hành của đại sứ Graham Martin.
Vì tài liệu nằm trong dạng công
văn, nên chỉ được lưu trữ trong văn khố hay các trung tâm nghiên cứu về Việt
Nam.
Bài viết dưới đây sơ lược lại những chi tiết lý thú của tác giả James Nach
trong The National Military Academy and Its Prominent Graduates, và, Origins of
the Vietnamese National Army, Its Officer Corps and Its Military Schools.
The
National Military Academy and Its Prominent Graduates
Trong
phần nghiên cứu về Trường Võ Bị Quốc Gia và Những Sĩ Quan Tốt Nghiệp Danh Tiếng,
James Nach sơ lượt lại sự thành hình của trường Võ Bị Quốc Gia.
Hai khóa đầu
tiên Trường Sĩ Quan Hiện Dịch bắt đầu ở Huế,
Khóa 1 tháng 12-1948, và Khóa 2
tháng 9-1949.
Tháng 10-1950 trường dọn về Đà Lạt và bắt đầu Khóa 3, với tên mới
là Trường École Militaire Inter-Armes de Dalat. Trường chánh thức đổi lại thành
Trường Võ Bị Liên Quân sau khi người Pháp rời Việt Nam năm 1955, và trở thành
Trường Võ Bị Quốc Gia từ tháng 4 năm 1963 cho đến khi giải tán (Sắc Lệnh
325-QP, 10-4-1963).
Hai Khóa 1 Phan Bội Châu (53 sĩ quan tốt nghiệp) và Khóa 2 Quang Trung (97 tốt nghiệp) ở Huế ra trường một số sĩ quan sau này trở thành những tướng lãnh quan trọng của đầu thập niên 1960.
Thủ khoa Khóa 1 là trung tướng Nguyễn Hữu Có;
Khóa 2 là thiếu tướng Hồ Văn Tố (chết bất thình lình năm 1961 trong lúc chỉ huy
Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức).
Những tướng lãnh tốt nghiệp Khóa 1 như các trung
tướng Đặng Văn Quang; Tôn Thất Đính, Nguyễn Văn Thiệu; Trần Văn Trung. Một số sĩ
quan cấp thiếu tướng và chuẩn tướng như, Bùi Đình Đạm; Phan Xuân Nhận; Tôn Thất
Xứng; Nguyễn Văn Chuân.
Khóa 2 có chín sĩ quan trở thành tướng lãnh, trung tướng
Ngô Dzu và Nguyễn Văn Mạnh; các thiếu tướng Trần Thanh Phong; Huỳnh Văn Cao;
Hoàng Văn Lạc; Lê Ngọc Triển; và chuẩn tướng Lê Trung Tường. Trung tá Vương Văn
Đông, một trong những nhân vật chủ mưu đảo chánh 11-11-1960, cũng ra từ Khóa 2
này.
Khóa 3 Trần Hưng Đạo có 135 sĩ quan tốt nghiệp.
Đây là khóa đầu tiên khai giảng
ở Đà Lạt.
Có chín sĩ quan trở thành cấp tướng — cấp tướng hạng “nặng ký.” Khóa
có Bốn trung tướng Hoàng Xuân Lãm (tư lệnh Quân Đoàn I; tốt nghiệp hạng 5);
Nguyễn Xuân Thịnh (tư lệnh binh chủng Pháo Binh; hạng 8); Lâm Quang Thi (tư lệnh
tiền phương Quân Đoàn I; 12); và Lữ Lan (tư lệnh Quân Đoàn II, 24).
Hai sĩ quan
tốt nghiệp trở thành tướng của Quân Chủng Không Quân là chuẩn tướng Võ Dinh
(tham mưu trưởng Không Quân VNCH) và chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Óanh (chỉ huy trưởng
Trung Tâm Huyến Luyện Không Quân).
Hai thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu (á khoa, tư
lệnh phó Quân Đoàn III khi bị tai nạn súng chết) và Lâm Quang Thơ. Tướng Thơ và
Thi đều trở về trường mẹ, làm chỉ huy trưởng trường Võ Bị Quốc Gia.
Từ Khóa 4 (Khóa Lý Thường Kiệt, tháng 11-1951 – tháng 12-1951) đến Khóa 10 (Khóa Trần Bình Trọng, tháng 10-1953 – tháng 6-1954) trường đào tạo thêm 23 tướng lãnh. Phần lớn là những tướng hành quân/ tác chiến, hơn là tướng tham mưu/ hành chánh.
Khóa 4 có hai trung tướng là Nguyễn Văn Minh (tư lệnh QĐ III, 1972) và cố
trung tướng Nguyễn Viết Thanh (tư lệnh QĐ IV khi tử nạn tháng 5-1970). Hai sĩ
quan kia là chuẩn tướng Đỗ Kiến Nhiểu (đô trưởng Sài Gòn) và thủ khoa Nguyễn
Cao Albert (giãi ngũ).
Riêng tên của cố trung tướng Nguyễn Viết Thanh được đặt
cho hai khóa tốt nghiệp sĩ quan của QLVNCH: Khóa 6/1970 Liên Trường Võ Khoa Thủ
Đức, và Khóa 26 Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Khóa 5 Hoàng Diệu (8-1951 – 5-1952), với
225 sĩ quan tốt nghiệp, là khóa đào tạo nhiều tướng lãnh nhất — 10 sĩ quan cấp
tướng.
Các trung tướng Nguyễn Văn Toàn; Nguyễn Vĩnh Nghi; Phạm Quốc Thuần; Dư
Quốc Đống; Phan Trọng Chinh. Hai thiếu tướng Trần Bá Di và Đỗ Kế Giai.
Các chuẩn
tướng Trần Văn Cẩm; Chương Dzếnh Quay; Lê Văn Tư. Có ba đại tá tốt nghiệp khóa
này cũng được nhắc đến nhiều là Dương Hiếu Nghĩa (thủ khoa, liên hệ đến vụ đảo
chánh 1-11-1963); Phạm Văn Liễu (ra trường hạng 19, liên hệ đến nhiều vụ đảo
chánh); và Lê Đức Đạt (hạng 20, tư lệnh sư đoàn 22 bộ binh khi bị mất tích ở
Tân Cảnh tháng 4-1972).
Khóa 6 Đinh Bộ Lĩnh (12-1951 – 10-1952; 181 sĩ quan tốt
nghiệp) có ba chuẩn tướng Lý Tòng Bá (thủ khoa); Trần Quang Khôi (hạng 6); và
Trần Đình Thọ (hạng 79). Nhà văn trung tá Nguyễn Đạt Thịnh cũng đến từ khóa
này.
Khóa 7 có chuẩn tướng Trương Quang Ân (thủ khoa, tử nạn trực thăng năm
1968); Lê Văn Thân; và Trần Văn Hai.
Khóa 8 có thiếu tướng Phạm Văn Phú, và chuẩn
tướng Huỳnh Thới Tây (tư lệnh Cảnh Sát Đặc Biệt). Khóa 9 không có sĩ quan tốt
nghiệp nào lên tướng. Khóa 10 Trần Bình Trọng (10-1953 – 6-1954) là khóa đông
nhất của 10 khóa đầu tiên, với 400 sĩ quan tốt nghiệp.
Thiếu tướng Lê Minh Đảo
(hạng 18); hai chuẩn tướng Vũ Văn Giai và Trần Văn Nhật. Mười khóa đầu của trường
Võ Bị Quốc Gia đào tạo tất cả 40 tướng trong số 80 tướng hiện dịch của năm 1974
(80 tướng hiện dịch không kể tướng của Quân Chủng Hải Quân hay Ngành Quân Y).
Trong khi 10 khóa đầu đào tạo nhiều tướng lãnh chỉ huy của QLVNCH, các Khóa 11 đến 20 đào tạo nhiều sĩ quan trung cấp, cột trụ của quân đội. Những sĩ quan cấp trung tá và đại tá của Khóa 14-18 hiện diện và chỉ huy hầu hết các đơn vị chủ lực của QLVNCH.
Khóa 16 Ấp Chiến Lược (226 sĩ quan tốt nghiệp; thủ khoa Bùi Quyền)
có nhiều sĩ quan đã lên đến cấp bậc trung tá hay đại tá, chỉ huy trung đoàn hay
lữ đoàn trong quân đội. Hai Khóa 19 và 20 thì có nhiều sĩ quan tiểu đoàn trưởng.
Khóa 19 có 394 sĩ quan tốt nghiệp và là khóa kém may mắn nhất: ba sĩ quan vừa tốt
nghiệp vài ngày đã tử trận ngay ở chiến trường, trong đó thủ khoa Võ Thành
Kháng (trận Bình Giả). Khóa 20 được coi là đông nhất (406 tốt nghiệp; thủ khoa
Trần Thanh Quang).
Khóa 22B là khóa đầu tiên ra trường với trình độ văn hóa bốn
năm. Nhưng khóa cũng không được may mắn khi thủ khoa Nguyễn Thanh Phóng bị tử
trận vài tháng sau đó, trong cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt năm 1970.
Origins
of the Vietnamese National Army, Its Officer Corps and Its Military Schools
Đây
là tài liệu nghiên cứu về Lịch Sử Quân Đội Quốc Gia, Hệ Thống Sĩ Quan, và Các
Trường Huấn Luyện Quân Sự. Tác giả James Nach đi ngược về năm 1939, khi Cao Ủy
Đông Dương, tướng Catroux, bắt đầu tuyển mộ và huấn luyện sĩ quan Việt Nam cho
quân đội Pháp và cho quân đội thuộc địa trong tương lai.
Đây không phải là một
thiện chí của chánh phủ Pháp đối với người dân thuộc địa, đây chỉ là một phòng
hờ cho thế chiến thứ hai bắt đầu nhen nhúm.
Tài liệu nói về một số trường đào tạo
cấp chỉ huy quân sự từ năm 1939 trở đi như, Nội Ứng Nghĩa Đinh và Nội Ứng Nghĩa
Quân. Theo tác giả Nach, trung tướng Văn Thành Cao và Trình Minh Thế của quân đội
Liên Minh Cao Đài được huấn luyện từ trường này. Người Pháp cũng lập ra một vài
trường huấn luyện quân sự cho các giáo pháo.
Trường huấn luyện Cái Vồn của Hòa
Hảo là nơi xuất thân của các tướng Trần Văn Soái, Cao Hảo Hớn, Lâm Thành
Nguyên.
Tác giả cho biết sau khi trường Cái Vồn bị đón cửa, một số sinh viên được
phép ghi danh nhập học trường Võ Bị ở Huế. Những trường khác được nhắc tên
trong giai đọan này như Trường Móng Cay, Trường Quân Chính, trường Quốc Gia
Thanh Niên Đoàn (một trường quân sự chính trị do Nhất Linh Nguyễn Tường Tam lập).
Năm 1946-47 Đảng Đại Việt của Trương Tử Anh thiết lập trường huấn luyện quân sự Lục Quân Trần Quốc Tuấn. Trường khai giảng ở Thanh Hóa, nhưng sau đó vì áp lực của Việt Minh nên phải dời về Yên Bái, và sau cùng về vùng Chapa gần biên giới Việt-Trung.
Trường này đôi khi còn được gọi là trường sĩ quan Yên Bái. Những
người đã theo học trường này gồm có thiếu tướng Phạm Xuân Chiểu; đại tá Phạm
Văn Liễu; đại sứ Đinh Trình Chinh (đại sứ ở Thái Lan); đại sứ; đại sứ Ngô Tôn Đạt
(đại sứ ở Đại Hàn); và ký giả Nguyễn Tú (Nhật Báo Chính Luận).
Cũng trong thời gian 1938-1940, quân đội Pháp thiết lập hai trường huấn luyện sĩ quan và hạ sĩ quan thành sĩ quan ở Thủ Dầu Một và Tong.
Đại tướng Dương Văn
Minh, và tổng trưởng Tư Pháp Lê Văn Thu theo học Trường Thủ Dầu Một; trường
Tong thì có những sĩ quan tốt nghiệp như các trung tướng Trần Văn Đôn; Linh
Quang Viên; Nguyễn Văn Vỹ; và Trần Văn Minh.
Sau đệ nhị thế chiến, Bộ Tư Lệnh Quân Đội ở Dông Dương gia tăng tuyển mộ lính thuộc địa cũng như huấn luyện cấp chỉ huy để phục vụ ở những đơn vị này. Trường Võ Bị Võ Bị Liên Quân Viễn Đông được thành lập tháng 7-1946 tại Đà Lạt. Trường chỉ khai giảng một khóa duy nhất, với 16 sĩ quan tốt nghiệp.
Những sĩ quan tốt
nghiệp trường này gồm có hai đại tướng Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm; trung
tướng Trần Ngọc Tám và Dương Văn Đức; các thiếu tướng Nguyễn Văn Kiểm (chánh võ
phòng của tổng thống Thiệu); Lâm Văn Phát; Bùi Hữu Nhơn; Cao Hảo Hớn; và Dương
Ngọc Lắm.
Năm 1947-1948 trường được dọn Vũng Tàu và có tên mới là École
Militaire Nuoc Ngot (Trương Võ Bị Nước Ngọt, Vũng Tàu).
Những sĩ quan tốt nghiệp
trường này có cố trung tướng Đỗ Cao Trí; thiếu tướng Nguyễn Xuân Trang (Tham
Mưu Phó Phòng Nhân Viên, Bộ Tổng Tham Mưu); đại tá Trang Văn Chính (chỉ huy phó
Chiến Tranh Chính Trị); và đại tá Bùi Quang Định (Bộ Chiêu Hồi).
Trong năm năm,
1949-1953, một trung tâm huấn luyện hoàn hảo sĩ quan được thành lập ở Cap St.
Jacques.
Trung tâm huấn luyện năm khoá. Khóa 1 có những sĩ quan tốt nghiệp như
cố đại tướng Cao Văn Viên; cố trung tướng Nguyễn Chánh Thi; chuẩn tướng Nguyễn
Hữu Hạnh; và đại tá Vũ Quang Tài.
Như đã nói ở phần đầu bài viết, năm 1948 một trường đào tạo sĩ quan được thành lập ở Huế đễ bắt đầu lịch sử Trường Võ Bị Quốc Gia.
Tác giả James Nach đã sơ lượt
về Trường Võ Bị Quốc Gia. Cũng trong cùng tài liệu, ông Nach sơ lược về lịch sử
Trường Liên Quân Võ Khoa Thủ Đức.
Tài liệu này cũng công phu không kém tài liệu
về Trường Võ Bị Quốc Gia. Vì khuôn khổ giới hạn của bài viết, ở đây chỉ tóm tắt
lại những chi tiết đáng ghi nhớ.
Nguyên thủy lúc thành hình là trường Sĩ Quan
Trừ Bị Thu Duc va Nam Dinh (Les Écoles des Cadres de Réserve de Thu Duc et Nam
Dinh), với Khóa 1 Lê Văn Duyệt được khai giảng ngày 1 tháng 10-1951 ở hai nơi,
Thủ Đức và Nam Định. Thủ Đức có 278 sĩ quan tốt nghiệp; Nam Định có 218.
Khóa 1
đào tạo tất cả 19 tướng lãnh cho QLVNCH, trong đó có bốn trung tướng, Trần Văn
Minh; Nguyễn Đức Thắng, Lê Nguyên Khang, và Đồng Văn Khuyên (á khoa). Sau Khóa
1, trường dời về Thủ Đức.
Trong mười khóa đầu tiên, Khóa 4 Cương Quyết (tháng
12-1953 – th̀́áng 6-1954) và Khóa 5 Vì Dân (tháng 6-1954 – tháng 2-1955) có số
sinh viên tốt nghiệp nhiều nhất, 1.148 sĩ quan cho Khóa 4; 1.396 cho Khóa 5.
Khóa 4 có được năm sĩ quan lên cấp tướng: cố trung tướng Ngô Quang Trưởng; thiếu
tướng Bùi Thế Lân; cố chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng và Hồ Trung Hậu; và chuẩn tướng
Nguyễn Văn Điềm.
Khóa 5 có chuẩn tướng Lê Văn Hưng. trừ những sĩ quan tướng
lãnh, Khóa 4 có nhiều sĩ quan cấp trung tá và đại tá chỉ huy những đơn vị chủ lực
của QLVNCH. Nhìn lại lịch sử cuộc chiến, đây là những sĩ quan đứng mũi chịu sào
của giai đọan khói lửa 1965-1972.
Theo tài liệu của James Nach, từ năm 1951 đến
năm 1965, Thủ Đức đào tạo 20.927 sĩ quan. Đến tháng 9-1973, có tất cả 80.115 sĩ
quan tốt nghiệp từ trường.
---------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------
--------------
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment