FYI
From: duan le
Loạt
12 bài viết của anh Đặng Chí Hùng đang làm rúng động bọn CSVN. Trong đó, bài
viết này vạch rõ dã tâm (tâm dã thú) của ông Hồ chí minh chỉ là người ham quyền
đoạt lợi cho bản thân và đảng CSVN, cam tâm làm tay sai cho Nga Tàu, mạo nhận
mình là Nguyễn Ái Quốc, phá hoại nền độc lập non trẻ của VN, xúi đẩy toàn dân
VN lao vào cuộc chiến đẫm máu, v.v. Tội ác của Hồ chí minh đáng phải bị phanh
thây nghìn mảnh, đem cho loài thú hoang ăn, cũng chưa đủ.
Xin mọi người dân VN hãy bỏ chút thì giờ đọc kỹ bài này và 11 bài viết trước của anh Đặng Chí Hùng, hầu giải đáp mọi nghi vấn về lịch sử VN thời cận đại vẫn còn vương vấn trong đầu. Xin quý vị tiếp tay chuyển những bài viết này càng nhiều về trong nước là đã góp phần vào việc chuyển hóa tốt đẹp cho quê huơng VN chúng ta.
Xin mọi người dân VN hãy bỏ chút thì giờ đọc kỹ bài này và 11 bài viết trước của anh Đặng Chí Hùng, hầu giải đáp mọi nghi vấn về lịch sử VN thời cận đại vẫn còn vương vấn trong đầu. Xin quý vị tiếp tay chuyển những bài viết này càng nhiều về trong nước là đã góp phần vào việc chuyển hóa tốt đẹp cho quê huơng VN chúng ta.
Những sự thật không thể chối bỏ (phần 12) - Sự ngụy tạo về
"Mùa Thu Độc Lập"
Đặng Chí Hùng (Danlambao) - Đảng cộng sản và ông Hồ Chí Minh đã nắm quyền cai trị bằng dấu mốc “cướp chính quyền” và sau đó đã duy trì quyền lực bằng mọi thủ đoạn mị dân. Cho đến nay, nhờ vào đội ngũ bồi bút mang hàm giáo sư sử học, tiến sỹ nghiên cứu của đảng, họ đã nhào nặn nên một cuộc Cách Mạng Mùa Thu hoàn toàn giả tạo. Chính việc này đã làm cho không biết bao nhiêu thế hệ người Việt bị rơi vào một cái bẫy: “Đảng cộng sản, Hồ Chí Minh dù có sai lầm cũng có công kháng Pháp, giải phóng dân tộc”. Nhưng sự thật có phải như vậy không?
A.
Cách mạng chẳng qua là một cuộc cướp chính quyền của cộng sản:
1.
Sơ lược về tình hình thế giới:
Sau
khi Mỹ thả 2 quả bom nguyên tử xuống đất Nhật, san bằng 2 thành phố Hiroshima
ngày 6 tháng 8 năm 1945, và Nagasaki ngày 9 tháng 8 năm 1945, Hoàng Đế Nhật Bản
phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện vào ngày 15 tháng 8 năm 1945. Nhờ vậy, đại
chiến thế giới lần II, do phe Phát Xít Đức, Ý, Nhật chủ xướng từ năm 1939 được
coi là chấm dứt hoàn toàn trên cả 5 Châu: Âu, Phi, Á, Úc, và Mỹ.
Khi
kết thúc đại chiến thế giới lần II, chính phủ Mỹ hỗ trợ Cao trào các Tiểu nhược
quốc Thuộc địa trên toàn Thế giới, đang bị các nước Thực dân Đế quốc da trắng
đô hộ cai trị áp bức, vùng lên giành lại Độc lập Tự do cho Dân tộc mình, để xây
dựng Thể chế Chính trị theo mô thức Dân chủ Tự do Tư bản.
Trong
cùng lúc đó, Khối Quốc tế Cộng sản do Liên Xô lãnh đạo cũng nhân cơ hội này,
dùng các tay sai người bản xứ lôi cuốn các nhóm công nông vô sản dùng bạo lực
hăm dọa song hành với phương thức tuyên truyền xảo quyệt, buộc quảng đại quần
chúng dân lành phải đi theo dưới mỹ từ làm Cách mạng giải phóng quê hương, để
bành trướng thế lực nhằm thực hiện sách lược nhuộm đỏ Toàn cấu và tiến lên “Thế
giới đại đồng”.
2.
Việt Nam đã được độc lập mà không cần cộng sản:
Tại
Việt Nam, vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 (hai ngày sau khi quân
Nhật lật đổ Pháp nắm toàn quyền cai trị Đông Dương), Vua Bảo Đại được Vua Nhật giúp
tái lập Quốc Gia Việt Nam Độc Lập (thống nhất cả 3 miền Bắc Trung Nam) trong
Khối Đại Đông Á do Nhật chủ xướng. Ông Trần Trọng Kim đã được Vua Bảo Đại cử
làm Thủ Tướng thành lập chính phủ điều hành Quốc gia, và ban bố chương trình
hưng quốc vào ngày 8 tháng 5 năm 1945, trong đó quy định Quốc Kỳ là cờ
Quẻ Ly, Quốc Ca là bài “Việt Nam minh châu trời Đông” của nhạc sĩ Hùng
Lân.
Để
chứng minh cho luận điểm này tôi xin đưa ra các bằng chứng sau đây để khẳng
định rằng nước Việt chúng ta không cần Hồ Chí Minh và đảng cộng sản vẫn được
độc lập như các nước khác.
Đầu
tiên, trên Wiki (http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%BF_qu%E1%BB%91c_Vi%E1%BB%87t_Nam) có
đoạn viết:
“Ngày
9 tháng 3 năm 1945, khi tình hình chiến tranh Thái Bình Dương thay đổi bất lợi,
Nhật đổi chính sách và đảo chính Pháp, bắt giam các tướng lãnh và tước khí giới
của quân đội Pháp ở Đông Dương. Đại sứ Nhật ở Đông Dương là Matsumoto Shunichi
giao cho đại diện Pháp là Toàn quyền Đông Dương Đô đốc Jean Decoux tối hậu thư
đòi người Pháp phải chấp nhận vô điều kiện quyền chỉ huy của Nhật trên mọi
phương diện. Ở Huế đại úy Kanebo Noburu vào trình báo vua Bảo Đại quyền lực của
Pháp đã bị loại.[1] Cùng chiều hướng đó Đế quốc Nhật Bản thỏa thuận trao trả
độc lập cho Việt Nam trên danh nghĩa. Hai ngày sau, 11 tháng Ba vua Bảo Đại
triệu cố vấn tối cao của Nhật là đại sứ Yokoyama Masayuki vào điện Kiến Trung
để tuyên bố nước Việt Nam độc lập.[2] Cùng đi với Yokoyama là tổng lãnh sự
Konagaya Akira và lãnh sự Watanabe Taizo.[3] Bản tuyên ngôn đó có chữ ký của
sáu vị thượng thư trong Cơ mật Viện là Phạm Quỳnh, Hồ Đắc Khải, Ưng Úy, Bùi
Bằng Đoàn, Trần Thanh Đạt, và Trương Như Đính, nguyên văn chiếu chỉ đề ngày 27
Tháng Giêng ta năm thứ 20 niên hiệu Bảo Đại:[4] “Theo tình hình thế giới nói
chung và hiện tình Á Châu, chính phủ Việt Nam long trọng công bố rằng: Kể từ
ngày hôm nay, Hòa ước Bảo hộ ký kết với nước Pháp được hủy bỏ và vô hiệu hóa.
Việt Nam thu hồi hoàn toàn chủ quyền của một Quốc gia Độc lập.”
Như
vậy đây là bằng chứng đầu tiên cho thấy sự thực là người Nhật đã trao trả độc
lập cho nước Việt Nam ta mà không phải công lao gì của cộng sản. Khi người Nhật
quyết định trao trả tự do thì vua Bảo Đại cũng đã ra chiếu chỉ tuyên bố độc lập
và khẳng định chúng ta hủy những cam kết bào hộ của Pháp. Đây cũng là một bằng
chứng cho thấy chính quyền Bảo Đại ngoài độc lập với Nhật còn độc lập với Pháp.
Thứ
hai, một đoạn văn trên website của tỉnh Thừa Thiên Huế đã công
nhận sự kiện Nhật trao trả độc lập cho Việt Nam là có thật. Trong bài giới
thiệu về điện Kiến Trung có đoạn: “Ngày 9 tháng 3, Nhật
đảo chính Pháp và thỏa thuận trao trả độc lập cho Việt Nam. Hai ngày sau, 11
Tháng Ba vua Bảo Đại triệu cố vấn tối cao của Nhật là đại sứ Yokoyama Masayuki
vào điện Kiến Trung để tuyên bố nước Việt Nam độc lập. Cùng đi với Yokoyama là
tổng lãnh sự Konagaya Akira và lãnh sự Watanabe Taizo.”.
Đây là links của bài viết: http://dulichhue.com.vn/new/vi/a4841/dien-kien-trung.html.
Một
website của đảng cộng sản cũng phải công nhận một sự thật lịch sử hiển nhiên là
Nhật đã chấp nhận trao trả độc lập cho Việt Nam thông qua chính quyền của vua
Bảo Đại.
Thứ
ba, Chính quyền Liên Xô sau khi nhận được tin Nhật trao trả độc lập
cho Việt Nam đã phải thốt lên qua lời của Stalin ghi trong cuốn sách có tên tạm
dịch “Đường dài xã hội chủ nghĩa”. Cuốn sách này là tổng kết những phát
biểu về xã hội chủ nghĩa Liên Xô và thế giới của Lê Nin, Stalin, Breznep...
được viết bởi N. Badasov – một nhà nghiên cứu lịch sử tại Liên Xô – đảng viên
đảng cộng sản Liên Xô. Cuốn sách tại trang 233 có viết về Stalin đã thốt
lên: “Thật sự khó khăn cho hệ thống xã hội chủ nghĩa khi Việt Nam được
người Nhật ưu ái”. Điều này càng minh chứng thêm cho sự kiện chính
quyền Nhật trao trả độc lập cho Việt Nam là có thật.
Kết
luận: Qua ba bằng chứng chúng ta thấy rằng nước Việt Nam chúng ta đã
được người Nhật trao trả độc lập theo tinh thần đại đông Á mà không phải phụ
thuộc vào Pháp vào Nhật về mặt chính quyền. Nhưng vấn đề ở đây, từ trước tới
nay đảng cộng sản Việt Nam luôn rêu rao chính quyền của vua Bảo Đại, Trần Trọng
Kim là “bù nhìn”. Luận điểm này sẽ được tìm hiểu ở nội dung thứ 3 sau đây.
3.
Chính phủ của ông Trần Trọng Kim không phải chính phủ bù nhìn.
Việc
chứng minh luận điểm chính Phủ của ông Trần Trọng Kim không phải là chính phủ
bù nhìn nhằm chứng tỏ sự thật: Đây là một chính phủ hợp pháp và không cần thiết
phải có một chính quyền nào của cộng sản cả.
Chính
phủ của ông Trần Trọng Kim được Hoàng Đế Bảo Đại thành lập sau ngày 9 tháng 3
năm 1945, ngày Nhật đảo chính Pháp và chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, rất
ngắn, từ ngày 17 tháng 4 năm 1945 đến ngày 25 tháng 8 năm 1945 kể cả thời gian
xử lý thường vụ. Tổng cộng hơn bốn tháng. Chính phủ này thường bị những người
Cộng Sản và luôn cả các tác giả các sách giáo khoa hay những nhà nghiên cứu
chuyên môn ở miền Bắc thời trước và sau năm 1975 trực tiếp hay gián tiếp gọi là
bù nhìn, là Việt gian, là tay sai của Nhật. Nhưng sự thật có phải như vậy hay
không?
Đầu
tiên, Sự việc minh chứng rõ rệt nhất cho một chính phủ hợp hiến và
không phải bù nhìn đó là việc chính quyền của ông Trần Trọng Kim tồn tại được
bốn tháng, rất ngắn ngủi nhưng đã làm được nhiều việc lớn như điều đình thành
công với người Nhật để họ trả lại toàn bộ ba xứ bắc-trung-nam, thống nhất đất
nước, chính phủ "có quyền tự trị khác hẳn với lời đồn rằng chính phủ
ông là bù nhìn". Điều này được thể hiện rất rõ trong cuốn “Một
cơn gió bụi” của chính ông Trần Trọng Kim – chương 4 – Ra Huế lập chính phủ
(xuất bản năm 1949 tái bản năm 1969). Một chính phủ đi từ số không, trong vòng
4 tháng tồn tại, không quân đội hùng mạnh mà chỉ thông qua đàm phán với Phát
Xít Nhật đang hùng mạnh để lấy độc lập, tự trị cho nhân dân có đáng được gọi là
“bù nhìn” không? Thực chất chỉ là luận điểm bôi nhọ và chụp mũ của cộng sản mà
đó chính là ngón nghề quen thuộc của cộng sản.
Thứ
hai, cho đến nay chính những người cộng sản cũng đã phải công
nhận một sự thật không thể chối bỏ đó là Chính phủ của ông Trần Trọng Kim không
phải là một chính quyền bù nhìn mặc dù họ chưa dám thừa nhận sự vu khống của
đảng cộng sản cho chính phủ của ông Kim. Trong một bài viết đăng trên website
của sở văn hóa tỉnh Nghệ An có links như sau: http://vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song/cuoc-song-quanh-ta/3710-hue-nam-1945-va-chinh-phu-tran-trong-kim.html
Tác
giả Lê Xuân Khoa trong bài viết của mình có tên “Huế
năm 1945 và chính phủ Trần Trọng Kim” đã viết như
sau:“Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời trong một hoàn cảnh rất tình cờ của
lịch sử, không do kết quả tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của một đảng phái hay một phong trào chính trị nào. Sau gần một thế kỉ bị
Pháp đô hộ, lần đầu tiên nước Việt Nam được độc lập (dù mới chỉ một phần) mà
không phải hi sinh xương máu.”
Rõ
ràng việc tác giả này đánh giá nước Việt Nam chúng ta được độc lập (dù chỉ một
phần) mà không phải hi sinh xương máu cũng cho thấy chính phủ của ông Trần
Trọng Kim là một sự công nhận đầu tiên chính phủ đó rất hợp hiến.
Tiếp
sau đó tác giả Lê Xuân Khoa viết:“Chính phủ Trần Trọng
Kim ra đời trong những điều kiện khó khăn về chính trị, an ninh và kinh tế như
vậy. Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Nội các, bên cạnh công tác khẩn cấp
cứu trợ nạn đói ở miền Bắc đã làm ngót hai triệu người thiệt mạng, chính phủ
Trần Trọng Kim đã ấn định một chương trình sáu điểm:
1.
Chuyển giao tất cả các cơ sở hành chính cho các viên chức Việt Nam.
2.
Thâu hồi đất Nam Kỳ và các nhượng địa đã dành cho Pháp.
3.
Ân xá toàn thể các phạm nhân chính trị.
4.
Cho phép thành lập các đảng phái chính trị.
5.
Miễn thuế cho công chức, thợ thuyền và dân nghèo.
6.
Thiết lập các Ủy ban tư vấn quốc gia để soạn thảo Hiến pháp và nghiên cứu cải
tổ chính trị, hành chính và giáo dục.
Chỉ
trong thời gian bốn tháng (từ 17 - 4 đến 16 - 8), chính phủ Kim đã thực hiện
được gần hết chương trình này. Kết quả có thể được tóm tắt như sau:
Cứu
đói: Bộ Tiếp tế do bác sĩ Nguyễn Hữu Thi cầm đầu nỗ lực điều động việc vận tải
thóc từ Nam ra Bắc. Lúc này, Pháp đã mất khả năng ngăn cấm việc tiếp tế gạo và,
nhờ sự can thiệp của chính phủ Kim, giới quân phiệt Nhật cũng không còn thi
hành chính sách độc đoán về sản xuất nông phẩm…”
Như
vậy chỉ trong một thời gian ngắn chính quyền của ông Trần Trọng Kim đã thực thi
được những điều lớn lao mà một chính phủ đúng nghĩa không phải bù nhìn đã thực
hiện được. Ngay như công việc hết sức khó khăn là phần cứu đói cũng đã thực
hiện rất tốt thông qua đàm phán với Nhật. Vậy thì đây không thể là chính phủ bù
nhìn được. Tại sao chính phủ bù nhìn lại toàn làm được những điều lợi cho dân
cho nước?. Đây là minh chứng cho sự bịp bợm của đảng cộng sản nhằm bôi nhọ
chính phủ của ông Trần Trọng Kim.
Có
nhiều người sẽ thắc mắc một người có quốc tịch Mỹ, gốc Việt, nguyên Phó viện
trưởng Viện Đại học Sài Gòn, tiến sĩ triết học như ông Lê Xuân Khoa viết sẽ có
phần “bênh vực” cho ông Trần Trọng Kim. Nhưng sự việc nó được đăng tải trên một
website của tình Nghệ An, của đảng cộng sản Việt Nam cho thấy tình chính xác
của bài viết.
Thứ
ba, cũng cần nhắc lại cuốn sách “Đường dài xã hội chủ
nghĩa” của tác giả N. Badasov đã giới thiệu ở trên. Chính tác
giả cuốn sách này khi đánh giá về lịch sử Việt Nam cũng có đoạn viết:“Một
chính phủ ngắn ngủi của một người theo trường phái dân tộc như ông Trần Trọng
Kim đã nỗ lực làm được nhiều điều cho đất nước. Tiếc rằng nó không được hợp lắm
trong xu hướng phát triển của phong trào cộng sản …”
Đây là một mình chứng cho thấy người cộng sản Liên Xô không hề đánh giá thấp
công lao của chính quyền ông Trần Trọng Kim. Và người Liên Xô không hề coi đây
là một chính quyền bù nhìn như sự chụp mũ của cộng sản Việt Nam.
Thứ
tư, Trong cuốn sách Décolonisation du Vietnam: Un Avocat
Tðmoigne (Công cuộc giải thực dân của Việt Nam - Một luật sư, hồi ký)
(Paris: L’Harmattan, 1994), 62; Tác giả cuốn hồi ký bằng Pháp văn này là luật
sư Trịnh Đình Thảo, viết sau năm 1975 và trước khi ông mất năm 1986 nhưng tới
năm 1994 mới được xuất bản ở Pháp, do trưởng nam của ông là luật sư Trịnh Đình
Khải đứng tên tác giả, trang 62,63 có viết:“Khoảng tháng 6
- 1945, khi Thủ tướng Kim gặp Tổng tư lệnh Tsuchihashi để yêu cầu Nhật dứt
khoát trả lại ba tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và toàn bộ đất Nam Kỳ cho Việt
Nam, ông đã nói: "Quân đội Nhật đã đánh quân đội Pháp và công nhiên hứa
hẹn trả quyền tự chủ cho nước Việt Nam. Bởi vậy tôi không quản tuổi già và sự
khó khăn của hoàn cảnh mà đứng ra lập chính phủ. Tôi làm việc một lòng giúp
nước tôi, cũng như các ông lo việc giúp nước Nhật… Nếu các ông cho tôi là người
làm việc cho nước Nhật, việc ấy không phải là phận sự của tôi, tôi sẵn lòng xin
lui". Chỉ tiếc rằng vài tháng sau, lúc gần đạt được mục tiêu thì Chính phủ
Kim phải ra đi.” Chính tuyên bố của ông Trần Trọng Kim đã cho
thấy một sự thật là ông không chịu làm việc cho Nhật mà chỉ làm một việc duy
nhất là cho sự độc lập cho dân tộc Việt Nam. Vậy càng có thể khẳng định sự thật
chính quyền của ông Kim không phải là chính phủ bù nhìn.
Kết
Luận: Qua 4 dẫn chứng cho ta thấy có nhiều bằng chứng bằng sự việc,
tuyên bố và tư liệu trung gian, cộng sản công nhận chính quyền của ông Trần
Trọng Kim thực chất không phải chính phủ bù nhìn như cộng sản tuyên truyền.
Chính phủ ông Trần Trọng Kim mang tiếng là thân Nhật, nhưng thật ra chỉ là lợi
dụng cơ hội Nhật đảo chính Pháp để nắm lấy quyền cai trị nhằm dần dần phục hồi
độc lập hoàn toàn cho dân tộc. Đó là phương cách thực tế và khôn ngoan trong
hoàn cảnh Việt Nam lúc đó. Mặc dù đảng cộng sản luôn luôn vu khống cho chính
quyền ông Trần Trọng Kim làm “bù nhìn” cho Nhật nhưng cộng sản không có bất cứ
một minh chứng cụ thể nào cho thấy điều họ nói là đúng. Đây là một hành động
bóp mép lịch sử của đảng cộng sản mà đứng đầu là ông Hồ Chí Minh.
4.
Thủ đoạn cướp công của ông Hồ Chí Minh và cộng sản.
Để
thực hiện âm mưu cướp chính quyền hợp hiến của ông Trần Trọng Kim thì chính
quyền Việt Minh của cộng sản mà đứng đầu là ông Hồ Chí Minh đã tiến hành nhiều
hành động mờ ám.
Khoảng
hơn 5 tháng sau ngày chính quyền ông Kim ra đời, vào ngày 17 tháng 8 năm 1945
(hai ngày sau khi Vua Nhật tuyên bố đầu hàng quân Đồng Minh do Hoa Kỳ lãnh
đạo), các đoàn thể Công chức và quần chúng Việt Nam họp mít tinh trước Nhà Hát
Lớn tại Hà nội, để ủng hộ ông Trần Trọng Kim tiếp tục làm Thủ Tướng. Nhưng, đã
bị nhóm Việt Minh của Hồ Chí Minh trà trộn vào lèo lái biến thành cuộc xuống
đường đòi Chính phủ Trần Trọng Kim từ chức. Đồng thời, nhóm Hồ Chí Minh và Việt
Minh cũng đưa người vào Huế làm áp lực buộc Vua Bảo Đại phải thoái vị, để
nhường quyền cho nhóm Việt Minh thành lập các Ủy ban Nhân dân Cách mạng thay
thế các tổ chức hành chánh của Chính phủ Trần trọng Kim.
Vào
ngày 28-8-1945, trong khi quân đội Mỹ đổ bộ lên chiếm đóng đất
Nhật Bản thua trận đầu hàng, thì 5 Đoàn quân Trung Hoa Dân Quốc của ông Tưởng
Giới Thạch đại diện Liên Hiệp Quốc do Tướng Lư Hán chỉ huy, cũng tiến vào Việt
Nam bằng 5 ngả: Lạng Sơn, Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang, Móng Cái, để thực hiện
việc giải giới quân Phiệt Nhật tại phía Bắc Vĩ Tuyến 16 của Bán đảo Đông Dương.
Đi theo các Đạo quân Trung Hoa này, có các toán thuộc Việt Nam Cách Mạng Đồng
Minh Hội về theo, để phối hợp cùng các Đoàn thể Việt Nam đấu tranh ở trong
nước, thành lập Chính phủ Liên Hiệp gồm thành phần đại diện của mọi Phe nhóm
Đảng phái, cũng như vận động quần chúng tham gia ứng cử và bầu cử đại diện vào
Quốc Hội Lập Hiến cho Việt Nam. Mọi chuyện tiến hành êm đẹp, Hồ Chí Minh (thuộc
phe Việt Minh Cộng sản chiếm đa số trong Quốc Hội) được bầu làm Chủ tịch
Chính phủ Liên Hiệp, Cụ Nguyễn Hải Thần làm Phó Chủ tịch, và cựu Hoàng Bảo Đại
được mời làm Cố vấn cho Hồ Chí Minh Chủ Tịch Chính phủ Liên Hiệp.
Ngày
2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh, đại diện Chính phủ Liên Hiệp đọc bản Tuyên
ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, trước đông đảo Đồng bào Việt
Nam tham dự cuộc mít tinh tại vườn hoa Ba Đình ở Hà Nội.
Để
chứng minh cho những thủ đoạn nhằm cướp chính quyền hợp hiến của ông Trần Trọng
Kim chúng ta cần phải xem xét những bằng chứng sau đây.
Đầu
tiên, trong cuốn sách “British in Vietnam: prelude to
disaster, 1945-6” của tác giả người Anh, ông Peter Neville, xuất
bản 2007 có một số diễn biến đáng ghi nhận mà tác giả trình bày trong giai đoạn
Nhật đảo chánh Pháp cho tới ngày Việt Minh cướp chính quyền. Ngày 9/3/1945,
Nhật đảo chánh Pháp. Ông Charles Fenn là đai úy tình báo OSS của Hoa Kỳ được
gửi về Đông Dương làm việc. Ông Fenn đã có một buổi gặp gỡ thú vị với Hồ Chí
Minh tại Côn Minh, 17/3/1945. Fenn kể lại (trang 51):“It
seems he has already met Hall, Blass and de Sibour (all OSS officers in
Kunming) but got nowhere with any of them. I asked him what he wanted of them.
He said – only recognition of his group (called Viet Minh League). I had
vaguely heard of this as being communist and asked him about it. He said the
French call all Annamites communists who want independence - Dường
như ông ta (Hồ Chí Minh) đã gặp các ông Hall, Blass và de Sibour (tất cả là sĩ
quan tình báo OSS tại Côn Minh) nhưng không biết các ông ấy ở đâu. Tôi hỏi ông
muốn họ làm gì cho ông. Ông ta nói - chỉ cần sự nhìn nhận nhóm của ông ta (tức
là Việt Minh). Tôi ngờ ngợ đã nghe về nhóm này, họ là công sản và tôi hỏi ông
Hồ về vấn đề đó. Ông ta nói người Pháp gọi tất cả ngưòi Việt là cộng sản, những
người muốn độc lập.”
Qua
đây chúng ta thấy được điều gì. Đó là OSS (một tổ chức tình báo Mỹ tiền thân
của CIA) lúc này đang giúp Việt Nam độc lập nhưng họ đã nghi ngờ Hồ Chí Minh là
cộng sản. Trên thực tế thì Hồ Chí Minh là cộng sản, nhưng ông ta lại phải chối
từ điều đó và đổ cho người Pháp vu oan. Đây là khởi điểm cho dã tâm núp bóng
dân tộc để tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản mà tôi đã đề cập đến tại phần 11. Rõ
ràng chủ nghĩa cộng sản không bao giờ cho phép tồn tại khái niệm chủ nghĩa dân
tộc vì chủ nghĩa cộng sản chủ trương “Vô tổ quốc, thế giới đại đồng” thì việc
đảng cộng sản và Hồ Chí Minh tiêu diệt chính quyền dân tộc của ông Kim là điều
hiển nhiên phải xảy ra.
Thứ
hai, Trên tờ “Cứu Quốc” (sau này đổi tên thành tờ
Nhân Dân cho đến ngày nay đề tuyên truyền cho cộng sản Việt Nam) của Việt
Minh ra ngày 29/8/1945, có đăng bản tin:“Đêm 25-8-45,
máy truyền thanh vang rạy khắp mọi phố, mọi ngả đường, mọi hang cùng, ngõ hẻm
dục đồng bào đúng 11 giờ ngày 26 đi biểu tình nghênh tiếp một số ủy viên trong
chính phủ lâm thời và phái bộ điều tra Mỹ mới về Hà Nội. Sôi nổi và thao thức
mong đợi…, Anh Võ Nguyên Giáp bằng một giọng đanh thép, vạch rõ bổn phận của
quốc dân trong lúc này là phải gấp đoàn kết, gạt bỏ hẳn tư tưởng đảng phái, tôn
giáo, giai cấp, mau gây một tinh thần chiến đấu hùng hậu để đối phó với mọi
tình thế gay go nghiêm trọng rất có thể xảy ra…”
Và
chính ông Võ Nguyên Giáp khi nói về sự kiện này đã nói:“chúng
ta phải đoàn kết và thề quyết hy sinh đến giọt máu cuối cùng để thực hiện sự
đoàn kết đó, trong chính phủ lâm thời sẽ có thay đổi và mở rộng phạm vi để đón
tiếp các vĩ nhân…”.
Vấn
đề ở đây là: Ai là vĩ nhân cần đón tiếp và tại sao phải đón tiếp phái đoàn của
Mỹ? Xin được trình bày như sau.
Ở
đây vĩ nhân mà cộng sản đề cập tới là phái bộ Mỹ OSS (Office of Strategic
Services) dẫn đầu là thiếu tá Archimedes Patti (Một sỹ quan tình báo đã từng hỗ
trợ Hồ Chí Minh). Hồ Chí Minh và tập đoàn cộng sản cướp chính quyền Trần Trọng
Kim ngày 19/8/1945, sau lúc Nhật bị hai trái bom nguyên tử của Mỹ bỏ tại
Hiroshima và Nagasaki. Như bản tin trên, Việt Minh đang thành lập “chính
phủ lâm thời.” Trước khi tuyên bố chính phủ một cách chính thức, phái đoàn Việt
Minh vận động ráo riết để tìm phe ủng hộ. Không ai hơn là Mỹ. Thế nên, ngày
25/8/1945, trên các làn sóng, báo chí Việt Minh kêu gọi thúc giục dân ra đường
ngày hôm sau, 26/8/1945, để nghênh tiếp phái bộ Mỹ OSS cùng phái đoàn Việt
Minh. Chính phủ không do dân bầu ra thì ít nhất cũng phái có một quốc gia nào
khác công nhận. Nếu không thì, không hơn không kém, cũng giống như một đảng
cướp từ trong rừng ra thành dùng vũ lực cướp bóc rồi tự thành lập chính phủ cho
mình. Do vậy mà “tình thế gay go nghiêm trọng rất có thể xảy
ra” như lời Võ Nguyên Giáp nói. Điều này cho thấy tính bất chính của
chính quyền do Hồ Chí Minh đứng đầu muốn lợi dụng Mỹ để công nhận sự hợp pháp
cho hành động cướp chính quyền của ông Trần Trọng Kim.
Cuộc
biểu tình ngày 26/8/1945 để chuẩn bị cho ngày 2/9/1945 kết quả
như thế nào? Phái đoàn Mỹ đã không có mặt tại cuộc biểu tình. Chắc chắn ông
Patti được lệnh từ Washington khi biết Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc, một
thành viên quốc tế cộng sản đang hoạt động tại Đông Dương. Liền đó, ông Hồ lập
tức cho Võ Nguyên Giáp hướng dẫn một phái đoàn đến ngay chỗ cư ngụ của Patti
tại Hà Nội. Xin trích nguyên văn đoạn sau đây trong sách “Why Vietnam”
của Patti, in dưới một tấm hình, sau trang 234:“26
August 1945, Hanoi. Ho Chi Minh sends an official delegation headed by Vo
Nguyen Giap to welcome the American OSS mission to Hanoi. While the band plays
the American National Anthem, Giap and his delegation join the author and the
OSS team in saluting the American flag.” Đoạn này được
dịch: “Hồ Chí Minh gửi một phái đoàn dẫn đầu bởi Võ Nguyên Giáp để nghênh tiếp
nhân viên tình báo OSS của Mỹ tại Hà Nội. Trong khi giàn nhạc đánh bài Quốc Ca
Hoa Kỳ, ông Giáp và phái đoàn của ông ta đứng cùng với người viết sách này
(Patti) và đoàn OSS nghiêm chào cờ Mỹ.”
Võ Nguyên Giáp (cavat) tiếp
đón Thiếu tá tình báo Mỹ Archimèdes Patti
|
Như
vậy có thể thấy ông Hồ và đảng cộng sản đã lợi dụng Mỹ để thực hiện việc hợp
thức hóa chính quyền cướp công của mình nhưng đã bị người Mỹ nhận ra chân
tướng.
Thứ
ba, trong những chuỗi hành động mưu mô của mình nhằm thủ tiêu chính
quyền hợp hiến của ông Trần Trọng Kim. Ông Hồ và đảng cộng sản không qua được
mắt của chính những đồng minh của mình. Trong cuốn sách của tác giả Hà Cẩn với
tiêu đề “Mao Chủ tịch của tôi” được tôi giới thiệu ở Phần 9 cũng có đề cập đến sự việc này ở trang 145
như sau:“Việt Minh muốn họ thể hiện vai trò chính yếu trong hệ thống
chính quyền Việt Nam sau khi có chính phủ lâm thời. Chính Phủ Trần Trọng Kim
cần phải bị loại bỏ trước khi họ gây hại cho phong trào cách mạng vô sản mà Mao
Chủ Tịch đang dìu dắt Việt Minh…” Các bạn có thể lật lại Phần 9 để thấy một cuốn sách đã được tái bản của
người cộng sản Trung Quốc công nhận âm mưu loại bỏ đối thủ của mình mà Việt
Minh và Hồ Chí Minh âm mưu nhằm thực hiện cuộc “Cách mạng vô sản mà Mao dìu
dắt”.
Thứ
tư, chúng ta thấy gì trong sự việc Hồ Chí Minh dùng tuyên ngôn độc
lập của Mỹ ngày 2/9/1945? Có hai lý do ở đây: Lý do thứ nhất đó là việc Hồ Chí
Minh đạo ý tưởng (đã được nhiều tác giả đề cập) nhưng lý do thứ hai không kém
phần quan trọng đó là: Núp bóng Mỹ nhằm công nhận chính quyền đi cướp công của
mình.
Như
chúng ta đã biết, kết thúc thế chiến thứ hai, Mỹ được coi như quốc gia sáng
giá. Pháp, Anh, Nga, Tàu bị kiệt quệ về nhiều mặt... Trong lúc Hồ Chí Minh là
chủ tịch của chính phủ "Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa" mà trên thực tế
chưa có quốc gia nào công nhận. Không còn ai ngoài Mỹ mà ông Hồ muốn nhắm vào.
Hồ Chí Minh là một người cộng sản đã có thành tích hoạt động trên 20 năm với
tập đoàn cộng sản Liên Xô, Trung Cộng. Vì quá muốn Hoa Kỳ công nhận, nên Hồ Chí
Minh đã có nhiều thủ thuật trước ngày 2 tháng 9: nhờ thiếu tá tình báo OSS
Archimedes Patti vận động với chính phủ Hoa Kỳ, làm những cuộc biểu dương đoán
tiếp vinh danh phái đoàn OSS (như đã trình bày ở trên). Và thủ thuật cuối cùng
là dùng ngay lời trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ. Nhưng rồi, cuối cùng
thì Hoa Kỳ đã không công nhận Hồ Chí Minh.
Không
ngừng ngay tại đó sau khi bị Hoa Kỳ bỏ rơi, Hồ Chí Minh tiếp tục vận động, viết
thư gửi lãnh đạo Hoa Kỳ. Đã có 8 lá thư từ 1945 đến 2/1946 ông Hồ gửi cho Tổng
Thống Truman (một trong các bức thư đó tôi đã gửi tới bạn đọc ở Phần 11 làm bằng chứng). Trong những lá thư, nhất
là những lá thư đầu ông Hồ đề cập tới nạn đói nhờ Hoa Kỳ giúp đỡ, nhưng ông
Truman đã bỏ qua không hề quan tâm. Lý do tại sao? Tổng thống Truman đã thừa
biết Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc, một đảng viên cao cấp của Đảng Quốc
Tế Cộng Sản, mặc dù ông Hồ dấu kín quá trình hoạt động cộng sản, chưa bao giờ
Hồ tiết lộ vấn đề này cho những người Mỹ biết, ngay cả trong giai đoạn làm tình
báo cho OSS với bí danh Lucius.
Kết
Luận: Qua 4 dẫn chứng ở trên chúng ta thấy âm mưu hết sức thâm hiểm của
Hồ Chí Minh nhằm hợp thức hóa sự cướp đoạt công lao của đảng cộng sản đối với
chính quyền hợp hiến của ông Trần Trọng Kim.
B.
Ông Hồ Chí Minh và huyền thoại chống Pháp
1.
Ban đầu ông Hồ và đảng cộng sản không hề chống Pháp:
Người
cộng sản cho rằng Hồ Chí Minh và cộng sản có công Chống Pháp, đuổi Nhật. Ở phần
trên tôi đã chứng minh Hồ Chí Minh không đuổi Nhật mà thực ra do người Nhật bị
đồng Minh giải giáp và cướp công của chính quyền ông Trần Trọng Kim. Vậy còn
chống Pháp thì sao? Xin được trình bày sau đây.
Đầu
tiên, trong cuốn sách “British in Vietnam: prelude to disaster,
1945-6”(đã giới thiệu ở phần trên) có đoạn viết về sự việc này. Ngay lúc
này mới vào 3/1945, ý đồ bất chánh đã thấy manh nha. Ông Hồ chỉ cần Mỹ nhìn
nhận Việt Minh để chuẩn bị cho ngày cướp chính quyền và thành lập "chính
phủ." Ông ta cũng không dám xác nhận mình là cộng sản khi bị ông Fenn hỏi,
rồi nhập nhằng đỗ thừa Pháp chụp cho cả khối người Việt đấu tranh đòi độc lập
là cộng sản. Khi Fenn hỏi ông Hồ về vấn đề người Pháp tại Việt Nam thì ông ta
từ chối việc tổ chức của ông ta chống Pháp. Việt Minh coi vấn đề chống Pháp
không là nhu cầu cần thiết lúc bấy giờ. Hơn nữa Vua Bảo Đại đã tuyên bố Việt
Nam độc lập sau khi Nhật đảo chánh Pháp. Ông Neville còn nhắc lại, ngay cả
Trường Chinh tuyên bố (trang 52):“...that the Japanese
takeover marked the end of 87 years of French colonialism -Người Nhật lật đổ
làm dấu hiệu chấm dứt 87 năm thực dân của Pháp,’ và
ông Hồ cũng nói, ‘ The French wolf was finally devoured by the Japanese
fascist hyena – Con chó sói Pháp đã bị ăn tươi bởi con chó sói fascist Nhật
hung tợn hơn.”
Điều
này cho thấy ông Hồ và đảng cộng sản đâu có coi người Pháp là kẻ thù? Và đâu
cần chống Pháp. Thực tế kẻ thù họ coi trọng là người Nhật thì lại trao trả độc
lập cho Việt Nam thông qua chính phủ của ông Trần Trọng Kim. Vậy thì trong tư
tưởng của ông Hồ không hề có ý tưởng chống Pháp ban đầu.
Thứ
hai, Thất bại ngay ngày 2/9/1945 khi không được Mỹ công nhận (phần nêu
trên), Hồ Chí Minh tính sang một thủ đoạn khác, một kế sách khác: Đi đêm với
viên đại diện Pháp, Jean Sainteny, mong Pháp quay đầu trở lại Việt Nam.
Sainteny lại là đảng viên Đảng Xã Hội nên việc giúp Hồ, một thủ lãnh Đảng Cộng
Sản Việt Nam, cũng không có gì vô lý. Hơn nữa, và quan trọng không kém, tại
Pháp hiện trong giai đoạn này Đảng Xã Hội đang nắm quyền quốc hội, đứng đầu bởi
thủ tướng Felix Gouin (1/1946 - 6/1946). Đảng Xã Hội và Đảng Cộng Sản sau sát
nhập như một.
Ngày
28/5/1946 phái đoàn Việt Minh do Phạm Văn Đồng dẫn đầu tới Pháp dự hội nghị tại
Fontainebleau. Hồ Chí Minh cũng sang Pháp, nhưng đi riêng. Như vậy là thế nào?
Hồ đã đoán được Phạm Văn Đồng thất bại nên phải làm một kế sách khác để cứu vãn
tình hình. Thật vậy, Hồ Chí Minh đã đoán đúng. Phái đoàn Phạm Văn Đồng lủi thủi
ra về trước sự hờ hững của quốc hội Pháp. Tại sao có điều này?
Xin
trích lại nguyên văn một đoạn sau đây trong “Đồng chí Hồ Chí Minh”,
tác giả cộng sản E-Cô-bê-lép (đã được giới thiệu ở phần 8), trang 323:
"Những
người cộng sản Pháp đã làm hết sức mình để buộc hội đồng chính phủ phải chú ý
đến ý kiến của đoàn đại biểu nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Tiếc rằng, Đảng
cộng sản Pháp không chiếm được ưu thế trong nội các. Mùa thu 1946, những kẻ tán
thành đường lối cứng rắn đối với nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chiếm ưu thế
trong các giới chính phủ Pháp. Chính vào lúc này vũ đài chính trị Pháp ngả về
phe hữu. Trong cuộc bầu cử ngày 2 tháng 6, Đảng cộng sản và Đảng xã hội Pháp
mất đa số trong quốc hội lập hiến và ủy ban hiến pháp, còn người đứng đầu chính
phủ không phải là đảng viên xã hội như trước đây nữa mà là Bi-đôn, thủ lãnh
Đảng phong trào cộng hòa bình dân thuộc phái tăng lữ."
Minh
chứng này cho thấy gì? Hồ Chí Minh không chủ trương chống Pháp khi còn là Pháp
thân cộng sản. Khi nước Pháp đã có một chính quyền dân chủ thì đảng cộng sản
Pháp đã thất bại và âm mưu của Hồ Chí Minh cũng thất bại và ông ta phải đi sang
Pháp trong một kế hoạch đi đêm mới. Vậy thực chất Hồ Chí Minh chỉ chống Pháp
dân chủ sau này chứ không chống Pháp cộng sản.
Thứ
ba, Giáo sư William Duiker (một người thiên tả) trong sách “Ho
Chi Minh A Life” cũng đã đưa ra hình ảnh và những
chứng minh khoa học về hiện tượng Fontainebleau này (Ho Chi Minh, William
Duiker, trang 426) tạm dịch như sau:“Vào đầu tháng 6,
1946, đại diện nước Pháp, ông Jean Sainteny đưa Hồ Chí Minh đi từ thành phố
Biarritz đến Paris để dự hội nghị hòa bình tại Fontainebleau. Tại đây, ông Hồ
và Sainteny chờ đợi máy bay đến khi đang ngồi trong phi trường tại Paris.
Sainteny, trong hồi ký của ông, đã ghi lại là Hồ Chí Minh tỏ ra lo sợ một cách
lạ lùng trên vấn đề hội họp tại Fontainebleau.”
Thật
vậy, chẳng những ông Duiker diễn tả ông Hồ tỏ ra lo sợ một cách lạ lùng còn cho
người đọc thấy hình ảnh Hồ chụp với Sainteny tại phi trường Paris với gương mặt
vô cùng bất bình thường.
Vậy
tại sao ông Hồ phải sợ? Đó là ông Hồ sợ chính phủ Pháp dân chủ không công nhận
chính quyền của mình. Một chính quyền bất hợp pháp. Và như vậy ông ta đâu có
chống Pháp lúc ban đầu mà còn mong muốn chính quyền Pháp công nhận.
Thứ
tư, thêm một chứng minh hùng hồn khác trong sách “Hỏi và Đáp
về Cuộc Đời và Sự Nghiệp của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Viện Bảo Tàng
HCM, nxb Trẻ, 1999.” “Hỏi: Tạm ước 14-9-1946
do ai ký? Nhằm mục đích gì? Đáp: Tạm ước 14-9-1946 do Chủ Tịch Hồ Chí Minh thay
mặt Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa với Chính phủ Pháp. Đây là một
sách lược ngoại giao tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm làm cho nhân dân ta
có thêm thời gian để chuẩn bị toàn quốc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp
xâm lược.”
Rõ
ràng, quốc hội Pháp nay không còn lãnh đạo bởi phe Đảng Xã Hội và Cộng Sản nữa
nên việc “liên hiệp Pháp” của Hồ Chí Minh coi như không thể
thực hiện một cách lâu dài như dự tính trong Hiệp Ước Sơ Bộ. Bước đường cùng,
ông Hồ tìm đến gặp Bộ Trưởng Thuộc Địa, ông Marius Moutet, cũng là đảng viên Xã
Hội. Hồ Chí Minh gõ cửa nhà Moutet lúc 2 giờ sáng, 14/9/1946, để hai bên ký một “tạm
ước", có tên “Modus Vivendi”, trong đó gồm 11 điều khoản có
lợi hai bên. Tuy nhiên, tạm ước này không có giá trị gì cả, bởi Moutet không
phải là đại diện của quốc hội Pháp, ông chỉ là một viên chức của bộ thuộc địa
mà thôi, cũng là phe cánh của Hồ Chí Minh thời gian Hồ còn bên Pháp hoạt động trong
Đảng Cộng Sản.
Đảng
cộng sản giải thích trong sách giáo khoa cho rằng Hồ Chí Minh có “sách
lược ngoại giao tài tình" để “có thêm thời gian” chuẩn bị
thật quả đúng không sai chút nào. Nhưng sự thật đó là: Đi nài nỉ không thành
công, biết mình đã bị bỏ rơi, bị “phe hữu" lên nắm quyền chống lại “phe
tả” (tức cộng sản) nên ông Hồ đâm ra bối rối, và trong cơn túng
quẩn phải làm một cách vá víu là tìm gặp Moutet ký tạm ước vô giá trị này để “câu
giờ.” Nhiều sách báo của cộng sản cũng hay đề cập tới 4 tháng ông
Hồ ở bên Pháp để vận động. Sách ghi khá chi tiết về những nhân vật Hồ Chí Minh
gặp. Họ không ai khác hơn là các thành phần của Đảng Xã Hội và Đảng Cộng Sản
Pháp. Ngay cả lúc trở về Việt Nam, ngày 22 tháng 9, 1946, ông Hồ còn nương níu
một lần chót bằng cách viết thư cho một “đồng chí” người Pháp
là bà Sô-Dít để mong bà ta giúp đỡ làm cách nào để Pháp hợp tác với “Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa.”
Vậy
thực chất ký tạm ước và viết thư xin Pháp hợp tác với “Việt Nam dân chủ cộng
hòa” là gì? Đó chính là việc muốn Pháp để cho yên thân cướp chính
quyền và cai quản đất nước. Thực chất ban đầu ông Hồ và đảng cộng sản không
chống Pháp từ ban đầu.
Thứ
năm, trong cuốn sách nghiên cứu khá sâu sắc về quốc tế cộng sản “Chủ
thuyết của chúng ta” của học giả A.Schenalder - một đảng viên đảng cộng
sản CHDC Đức - được ấn hành tại Đông Đức năm 1981, trên trang 168 (Đã giới
thiệu phần 11) có nói đến Hồ Chí Minh và cộng sản Việt
Nam được tạm dịch như sau:“Ông Hồ Chí Minh mong muốn người Pháp thừa
nhận chính quyền của ông ta như một sự thừa nhận sự thắng thế của quốc tế vô
sản hơn là việc chống lại người Pháp.” Qua đây cho ta
thấy việc ông Hồ và đảng cộng sản mong muốn được người Pháp thừa nhận hơn là
thực sự giải phóng dân tộc, chống Pháp như họ tuyên truyền.
2.
Thực chất của sự kiện Điện Biên Phủ 1954:
Nhưng
vấn đề được đặt ra là tại sao lại có sự kiện Điện Biên Phủ 1954? Nếu không giải
thích được lý do thực sự của cuộc chiến này thì chúng ta dễ bị đảng cộng sản
lừa bịp rằng họ chống Pháp giải phóng dân tộc. Tôi xin trình bày sự kiện Điện
Biên Phủ như sau. Thực chất thì đảng cộng sản và Hồ Chí Minh sau khi không đạt
được mục đích thân Pháp như đã trình bày ở trên thì họ quay sang chống lại Pháp
để tranh thủ sự ủng hộ và thúc ép của thế giới cộng sản nên mới có cuộc chiến
phí người tốn của 1954. Nếu như không có chính quyền bất hợp pháp của cộng sản
mà đứng đầu là Hồ Chí Minh thì chẳng có cuộc chiến đó và dân tộc ta không phải
chịu hậu quả cho đến ngày nay. Xin được dẫn chứng như sau:
Đầu
tiên, chúng ta tổng hợp lại các bài mà tôi đã trình bày thì thực chất
ông Hồ Chí Minh chỉ là một gián điệp của Tàu cộng nhằm nhuộm đỏ Việt Nam
rồi Hán hóa từng bước. Như vậy Hồ Chí Minh sau khi không được Pháp ủng hộ và
công nhận thì đã thực hiện triệt để yêu cầu của Trung cộng để đánh Pháp. Câu
nói “Đánh cho Liên Xô, Trung quốc” đã nói lên toàn bộ sự việc này. Việc
tướng Trung cộng Vi Quốc Thanh chỉ huy Điện Biên Phủ cũng đã minh chứng cho sự
việc đó.
Thứ
hai, vào tháng 6/1946, khi chính phủ mới của Pháp, dẫn đầu là thủ
tướng Georges Bidault (6/1946 - 11/1946), đã công khai chống Hồ Chí Minh với lý
do ông Hồ là cộng sản. Dẫn chứng được trình bày rõ mà E-Cô-bê-lép đã ghi trong
sách được trích ở trên thì việc ông ta phải chống Pháp là điều đương nhiên. Nếu
không chống Pháp thì đảng cộng sản và ông Hồ Chí Minh sẽ bị nhân dân lột mặt nạ
“Thân Pháp” và chiêu bài dân tộc để lừa dối nhân dân ta nhằm nhuộm đỏ Việt Nam
(Phần 11) sẽ bị bóc mẽ. Đó chính là lý do chính để
ông Hồ và đảng cộng sản phải tuyên bố chống Pháp.
Thứ
ba, Quay ngược trở lại tài liệu của Liên Xô. Trong cuốn sách có tên
gọi tạm dịch ra tiếng Việt “Liên Xô- Trung Quốc và Việt Nam, vấn đề chưa
được biết” của tác giả người Nga, Ruslan Kobachenko, nhà giáo kiêm nhà
nghiên cứu lịch sử Châu Á từng giảng dạy tại đại học Minsk-Nga, ông cũng là
đảng viên đảng cộng sản Liên Xô) đã giới thiệu ở Phần 10). Cuốn sách này đã được nhà xuất bản Lịch sử
của Liên Bang Nga xuất bản năm 1995, có đoạn trong trang 200 như sau: “Người
Pháp đã mắc sai lầm lớn khi không chịu công nhận chính quyền cộng sản tại Việt
Nam sau ngày 2/9/1945 và điều này dẫn đến thất bại của họ tại Điện Biên Phủ 9
năm sau đó...” Tại sao tác giả này lại coi việc Pháp
không công nhận chính quyền cộng sản của Hồ Chí Minh là một sai lầm? Đó chính
là việc dẫn đến sự trở mặt của Việt Minh dẫn đến sự kiện Điện Biên Phủ.
Sau
đó tại trang 216, tác giả lại thêm: “Việt Minh cuối cùng cũng nhận ra rằng
chống Pháp là nhiệm vụ hàng đầu để cho người dân Việt Nam công nhận sự thắng
thế của chủ nghĩa cộng sản”. Đoạn trích này minh
chứng cho việc Cộng sản Việt Nam đã nhận ra việc cần thiết phải chống Pháp như
một sự tất yếu đề nhuộm đỏ Việt Nam mà ngay chính cả Liên Xô cũng nhận ra.
Kết
luận: Như vậy qua 3 dẫn chứng cho thấy Hồ Chí Minh thực chất chỉ chống
Pháp khi ông ta không thân được với Pháp và sự kiện chống Pháp sau này mà tiêu
biểu là cuộc chiến tại Điện Biên Phủ chỉ là tấm phông cho bộ mặt thật theo cộng
sản nhuộm đỏ Việt Nam của ông Hồ.
Kết
Luận Chung:
Qua
các dẫn chứng của đảng cộng sản Việt Nam, Đức, Liên Xô, Trung Quốc và nhiều dẫn
chứng của phía Mỹ, trung lập cũng như thân cộng cho thấy:
-
Việt Nam đã được Nhật trao trả độc lập sau khi Nhật đuổi Pháp thông qua chính
quyền Trần Trọng Kim.
-
Chính phủ của ông Trần Trọng Kim là một chính quyền hợp hiến, vì dân, vì nước
không phải bù nhìn như cộng sản chụp mũ.
-
Ông Hồ Chí Minh và đảng cộng sản tìm mọi cách để được Mỹ và Pháp công nhận chứ
không phải chống Mỹ, đuổi Pháp như họ thường ngụy xưng. Nhưng khi bị phát hiện
ra cái đuôi cộng sản họ quay sang làm chư hầu cho Liên Xô và đặc biệt là nô lệ
cho Trung cộng để đánh Pháp nhằm che đậy âm mưu cộng hóa, Hán hóa, nhuộm đỏ
Việt Nam.
-
Cuộc Chiến Điện Biên Phủ và sau này là cuộc Chiến tranh Nam Bắc sau này sẽ
không xảy ra gây đau thương cho dân tộc nếu có một chính phủ không cộng sản ở
Việt Nam.
-
Không có cộng sản đất nước ta vẫn có độc lập và không cần đổ máu, tốn kém tài
nguyên, mất biển đảo cho Trung cộng.
Như
vậy chúng ta có thể thấy “Mùa thu độc lập” mà đảng cộng sản rêu rao công
trạng là ngụy tạo, cướp công của người khác, lừa dối dân tộc và cộng hóa, Hán
hóa Việt Nam đồng thời gây đau thương chiến tranh cho dân tộc. Ông Hồ Chí Minh
và đảng cộng sản phải chịu trách nhiệm trước toàn thể nhân dân Việt Nam về sự
việc này. Không có đảng cộng sản đất nước chúng ta sẽ độc lập và hùng mạnh chứ
không chịu sự “đô hộ” của Trung cộng như hiện nay chúng ta đang thấy.
Chính
sửa và hoàn thiện: 01/08/2012
P/S: Xin chân thành
cảm ơn tác giả Truyền Tấn và Dân Làm Báo đã cung cấp thêm tài liệu về tội ác Hồ
Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam. Tôi đã biết cuốn sách mà tác giả Truyền Tấn
giới thiệu nhưng chưa có thời gian nghiên cứu, nhưng trong tương lai gần nó sẽ
giúp ích trong việc bổ xung tài liệu tố cáo Hồ Chí Minh. Tôi mong muốn được tất
cả bạn đọc góp thêm nhiều tài liệu để sớm đưa sự thật ra trước ánh sáng nhằm
đưa nhân dân Việt Nam khỏi vòng kiềm tỏa của cộng sản bán nước.
__________________________
Đã đăng:
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment