Những
sự thật không thể chối bỏ (phần 7) - Trí thức cũng chẳng khá hơn
Đặng
Chí Hùng (Danlambao) - Nói
về Cải cách ruộng đất thì đó là một cuộc thảm sát với phú nông,
địa chủ… trong đó có phần lớn là oan sai. Nhưng nhắc đến Nhân văn Giai
phẩm lại là câu chuyện khác. Lần này đến trí thức cũng bị tiêu diệt. Lý
do rất đơn giản cho sự tiêu diệt đó là họ dám viết, dám nghĩ đúng với những gì
họ nhận thấy được từ xã hội thối nát của cộng sản. Họ cần nghệ thuật gắn liền
với tư tưởng tự do, dân chủ nhưng… đó là cái gai trong mắt cộng sản.
Bài
viết này chỉ nhắc lại cho chúng ta những gì thuộc về sự thật, những sự thật đau
đớn của một chế độ muốn ngu dân để cai trị. Một chế độ phi nhân tính với những
sự thật đáng hổ thẹn cho muôn đời.
Sơ
lược về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm
Phong
trào Nhân Văn – Giai Phẩm là phong trào được cho là có xu hướng chính trị, đòi
tự do dân chủ của một số văn nghệ sĩ và trí thức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
khởi xướng đầu năm 1955 và bị chính thức dập tắt vào tháng 6 năm 1958.
Phong
trào này có một tờ báo cho mình với tên gọi Nhân Văn, đây là một tờ báo
chuyên về văn hóa, xã hội, có trụ sở tại 27 Hàng Khay, Hà Nội. Đứng đầu tờ báo
là ông Phan Khôi làm chủ nhiệm và ông Trần Duy làm thư kí tòa
soạn. Ngoài ra nó còn cùng với tạp chí Giai Phẩm, hình thành nên nhóm
Nhân Văn–Giai Phẩm (NVGP).
Mục
tiêu hoạt động của nhóm NVGP là giúp cho sự tự do suy nghĩ, tự do trong sáng
tác của các văn nghệ sĩ. Họ muốn hướng tới một quan điểm nghệ thuật vị nghệ
thuật thực sư. Nghệ thuật theo tiêu chí của nhóm này phải tách khỏi chủ trương
tô hồng cách mạng giả dối của văn nô cộng sản. Xin nêu ra đây một số ví dụ nhỏ
để thấy chủ trương hết sức hợp lý của nhóm NVGP trong vấn đề trung thực, dân
chủ trong xã hội VNDCCH lúc đó.
Trong
tạp chí Giai phẩm Mùa xuân được ấn hành tháng giêng năm 1956, do nhà thơ
Hoàng Cầm và Lê Đạt chủ trương, về sau bị tịch thu, có bài “Nhất
định thắng” của nhà thơ Trần Dần, miêu tả hoàn cảnh đời sống miền
Bắc xã hội chủ nghĩa trong những ngày đầu đất nước chia cắt, tác giả bài thơ bị
qui kết chống phá, "bôi đen" chế độ, với những câu thơ nổi tiếng:
Tôi
bước đi
không
thấy phố
không
thấy nhà
Chỉ
thấy mưa sa
trên
màu cờ đỏ
Nhân
văn số 3 ra ngày 15 tháng 10 đăng bài của ông Trần Đức Thảo về mở rộng
dân chủ, phát triển phê bình trong nhân dân. Trần Duy cũng góp tiếng nói
đấu tranh cho tự do dân chủ trong Nhân văn số 4 ra ngày 5 tháng 11 năm 1956.
Trong số cuối cùng, số 5 báo Nhân văn, ông Nguyễn Hữu Đang nhận xét về
những điều bảo đảm tự do dân chủ trong Hiến pháp Việt Nam 1946 và so sánh với
tình hình thực tế lúc bấy giờ.
Ngày
15 tháng 12 năm 1956, Ủy ban hành chính Hà Nội ra thông báo đóng cửa báo Nhân
Văn. Số 6 không được in và phát hành. Tổng cộng Nhân Văn ra được 5 số báo và
Giai Phẩm ra được 4 số báo (Tháng Ba, Tháng Tư, Tháng Mười và Tháng Chạp 1956)
trước khi phải ngừng xuất bản.
Sau
đó, hầu hết các văn nghệ sĩ tham gia phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm bị đưa đi
học tập cải tạo về tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Một số bị treo bút một thời gian
dài: Lê Đạt, Trần Dần, số khác không tiếp tục con đường sự nghiệp
văn chương, thậm chí có người bị giam giữ trong một thời gian dài và tiếp tục
bị giám sát trong nhiều năm sau khi mãn tù như trường hợp ông Nguyễn Hữu
Đang. Dư luận chung thường gọi đây là "Vụ án Nhân Văn–Giai
Phẩm".
Trong
số này đa phần là những nghệ sĩ nổi tiếng, là tinh túy của nền văn học nghệ
thuật nước nhà. Họ thực sự là những tri thức đáng kính với những tư tưởng tự
do, dân chủ nhưng đã bị đảng cộng sản kìm kẹp và bức bách cả về tư tưởng lẫn
thân thể. Ắt hẳn chúng ta không thể nào quên một Hữu Loan đằm thắm nhưng
cương trực với “Màu tím hoa sim” bất hủ. Ấy vậy mà ông cũng như hàng
chục văn nghệ sĩ ấy đã bị đảng cộng sản vu khống, chụp mũ cho tư tưởng chống
đảng, phản động. Nhưng có thực sự họ có tội hay không? Tôi xin trình bày ở phần
sau đây.
Họ
không phải là phản động
Nói
là phản động thì đảng cộng sản là bậc thầy về chụp mũ và quy kết. Phải hiểu
đúng từ phản động thế nào. Thực tế một xã hội muốn phát triển và tiến bộ thì
phải không ngừng vận động. Phản động ở đây có nghĩa là đứng yên, không vận
động, là chống lại sự tiến bộ đó. Phản động là một từ có nghĩa đen, không có
nghĩa bóng, phản động mang một ý nghĩa tiêu cực. Tuy nhiên bản thân các văn
nghệ sĩ ở đây hoàn toàn hoạt động nghệ thuật theo tư tưởng ôn hòa, dân chủ, tự
do. Đó không thể coi là phản động được. Bản thân sự phản ánh trung thực của họ
là một sự có lợi cho tiến bộ xã hội. Nhưng đảng cộng sản đã đánh đồng khái niệm
chống lại ách độc tài của họ với việc chống lại sự phát triển của xã hội. Đó là
một sự vu khống vô cùng bẩn thỉu của đảng cộng sản Việt Nam.
1.
Họ đã nói gì?
Phong
trào Nhân Văn Giai Phẩm quy tụ những người trí thức can đảm nhất ở miền Bắc
Việt Nam trong thời đại của họ. Sau bài thuyết trình của Nguyễn Mạnh Tường,
trong hai số báo Nhân Văn vào tháng 11 năm 1956, Nguyễn Hữu Đang đã hai
lần nêu cao chủ trương phải thiết lập một chế độ pháp trị. Ông nêu ra những
điều trong hiến pháp năm 1946 bảo đảm các công dân có quyền tự do ngôn luận, tự
do xuất bản, tự do hội họp, tự do cư trú, tự do đi lại, vân vân. Điều 11 nói: “Tư
pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ giam cầm người công dân Việt Nam”
nhưng ngay trong thời đó các nhà trí thức như Phan Khôi, Nguyễn Mạnh
Tường, Đặng Đình Hưng cũng bị đi “cải tạo” không thời hạn; các văn
nghệ sĩ như Trần Dần, Tử Phác vô cớ bị bắt giam.
NVGP
là một đợt bột phát trào lưu tư tưởng dân chủ ở miền Bắc Việt Nam có tiền đề
ngay từ khi hình thành nhà nước VNDCCH lưỡng sinh giữa DCTS và toàn trị cộng
sản tiến dần đến mô hình kiểu chủ nghĩa Mao, phát sinh trên nhiều lĩnh vực đời
sống xã hội nhưng mạnh mẽ nhất là lĩnh vực ngôn luận mà lực lượng hăng hái nhất
là trí thức khoa học xã hội và văn nghệ sỹ, tập trung xung quanh hai ấn phẩm là
báo Nhân Văn và tập san Giai Phẩm.
Có
lẽ cần phải cho mọi người nghe ý kiến của ông Nguyễn Hữu Đang trả lời Thụy
Khuê ngày tháng 9- 1995 khi bà hỏi thực chất của phong trào Nhân Văn Giai
Phẩm là gì: "Thực chất phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, nếu đứng về mặt
chính trị, thì đó là một cuộc đấu tranh của một số người trí thức, văn nghệ sĩ
và một số đảng viên về chính trị nữa, là chống, không phải chống đảng cộng sản
đâu, mà là chống cái chủ nghĩa Staline và chống chủ nghĩa Mao Trạch Đông. Sự
thâm nhập của chủ nghĩa Staline và chủ nghĩa Mao trạch Đông đưa đến nhiều hiện
tượng- nói là chuyên chính thì chưa đủ- phải nói là cực quyền toàn trị, nó gay
gắt ghê lắm… Nó gay gắt ghê lắm!"
Trên
báo Giai Phẩm Mùa Thu, Nguyễn Hữu Đang đã mở cuộc phỏng vấn để
các nhà trí thức khác có dịp lên tiếng: Trần Đức Thảo đòi phải có tự do
ngôn luận, tự do nghiên cứu, tự do phê bình. Ông Đặng Văn Ngữ viết: “Dưới
một chế độ độc tài không ai dám chỉ trích chính phủ thì còn đâu mà thấy khuyết
điểm về tự do dân chủ?”. Đào Duy Anh kêu gọi giới trí thức phải “đấu
tranh” cho tự do, quyết chống lại bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân; Phan
Khôi viết “bàn về lãnh đạo văn nghệ” để phê bình toàn thể việc lãnh
đạo xã hội. Ông Phan Khôi dám phơi bày sự thật đó là một chế độ cộng sản
độc tài như thể một biến thể của chế độ phong kiến kiểu mới. Ông nêu ví dụ đám
cầm đầu văn nghệ lúc đó đả kích thơ Trần Dần viết hoa chữ “Người” là
phạm tội, vì chữ “Người” viết hoa chỉ được dùng để nói đến Hồ Chí Minh thôi.
Việc này không khác gì việc Phạm húy trong tư tưởng phong kiến.
Phong
trào Nhân Văn Giai Phẩm chứng tỏ giới trí thức Việt Nam không bao giờ lãng quên
trách nhiệm với lịch sử. Ngay từ đầu thời Pháp thuộc các Nho sĩ như Nguyễn Đình
Chiểu, Phan Đình Phùng, Nguyễn Cao đã bảo vệ tiết tháo sáng ngời. Họ muốn dùng
ngòi bút của mình để nhắc nhở cho nhân dân ta những yếu tố lịch sử trung thực
của dân tộc. Họ xứng đáng tiếp nối truyền thống hào hùng của biết bao đời anh
linh dân tộc.
Nhóm
NVGP cũng cho thấy một điều những người trí thức Việt Nam không bao giờ quên
nhiệm vụ của mình là tranh đấu cho tự do và cho sự thật. Trong báo Nhân Văn,
Trần Đức Thảo viết “Người trí thức hoạt động văn hóa cần tự do như
khí trời để thở.” Người trí thức phải đỏi hỏi các quyền tự do được phát
triển vì đó là “nhiệm vụ số một của mình cũng như của toàn dân”. Ông Trần Dần
đã viết: “Biểu hiệu cao nhất của trách nhiệm người viết là thái độ tôn
trọng, trung thành với sự thực… Tôn trọng, trung thành với sự thực vừa là trách
nhiệm, vừa là lập trường, vừa là phương pháp làm việc của người viết… Nếu như
sự thực ngược lại chính sách, chỉ thị, thì phải viết sự thực chứ không phải là
bóp gò sự thật vào (cho đúng) chính sách!”. Trần Dần đã viết những hàng
trên trong bản dự thảo để trình bày trước một hội nghị giới văn nghệ trong quân
đội năm 1955. Tất nhiên bản dự thảo đó không bao giờ được công bố, nhưng nó cho
thấy Trần Dần đúng là một chiến sĩ. Lê Đạt đã dùng những câu thơ để lên
án chế độ độc tài chuyên chế: “Đem bục công an máy móc đặt giữa tim người –
Bắt tình cảm ngược xuôi theo đúng luật đi đường nhà nước!”.
Kết
Luận 1: Qua phần kết luận đầu tiên ta có thể thấy xuyên
suốt nhưng tác phẩm và tuyên bố của mình. Nhóm các tác giả trí thức trong NVGP
đã cho thấy họ là nhưng người trung thực, can đảm và có tư tưởng dân chủ, tự do
dựa trên lòng yêu nước nồng nàn, có trách nhiệm với dân tộc. Vậy họ không thể
là những người phản động như các đảng cộng sản chụp mũ.
2.
Những bằng chứng khách quan:
Để
nhìn nhận các tác phẩm của các bên về sự thật nhóm NVGP có tội hay không chúng
ta cần phải nhìn thẳng vào các bài báo, cuốn sách nói về NVGP một cách trung
thực nhất từ nhiều phía.
Trước
tiên là cuốn sách "Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam"
(Trăm hoa đua nở trong đêm Việt Nam)
của Georges Boudarel. Georges Boudarel, nay đã qua đời, là nhà giáo,
đảng viên cộng sản Pháp, 1947 sang Việt Nam với mục đích tranh đấu chống chính
quyền thuộc địa. Sau hai năm dạy học tại Sài Gòn, Boudarel theo Việt Minh, đặc
trách nhiệm vụ "cải tạo" tù nhân Pháp ở trại 113. Năm 1966, vì không
còn đồng ý với chính quyền Hà Nội, ông trở về Pháp. Trong thời gian ở Việt Nam,
ông đã gặp gỡ nhiều nhà văn nhà thơ, trong đó có những thành viên NVGP và
Boudarel đã mang được về Pháp những tờ Nhân Văn, Giai Phẩm, và một số báo xuất
bản ở Hà Nội trong thời kỳ này.
Cuối
1987 đầu 1988, trong bối cảnh "cởi trói văn nghệ" của Tổng bí thư Nguyễn
Văn Linh, Georges Boudarel đã viết loạt bài tựa đề Dissidences
intellectuelles au Viêt-Nam L'affaire Nhan Van-Giai Pham (Trí thức phản
kháng tại Việt Nam, vụ Nhân Văn Giai Phẩm), in trên hai tập san Sudestasie (số
50 tháng 1/1988) và Politique Aujourd'hui en Europe (phụ bản tháng giêng năm
1989), sau tập hợp và đào sâu thành cuốn "Cent fleurs écloses dans la
nuit du Vietnam" (Trăm hoa đua nở trong đêm Việt Nam) do Jacques
Bertoin in năm 1991 tại Paris.
Trong
cuốn "Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam" có đoạn tác
giả đã viết về những người bị chính quyền cộng sản Việt Nam gán ghép cho tội
danh chống đảng phản bội như sau: "Sự thật họ không phải là những kẻ
hèn nhát. Họ đã dám nói thật những gì họ thấy và họ nghĩ. Họ xứng đáng là những
trí thức can đảm". Đây là sự khẳng định cho sự trung thực và hết sức
thẳng thắn của tác giả Pháp (đã từng theo cộng sản này) đối với sự thật về các
nhân vật trong vụ án NVGP.
Để
nói về sự tự do trong tư tưởng của nhóm này. Tác phẩm cũng có đoạn: "Họ
là những nhà dân chủ về tư tưởng. Những ý thức đó dường như là quá xa xỉ với
một chế độ độc đảng ở Việt Nam.". Điều này khẳng định nhóm NVGP không
thể là phản động. Họ đơn thuần muốn có một sự tự do, dân chủ trong sáng tác
nghệ thuật không theo khuôn mẫu của đảng cộng sản áp đặt.
Tiếp
đến là cuốn sách của tác giả Hoàng Văn Chí, tức Mạc Định, soạn
giả “Trăm hoa đua nở trên đất Bắc” (THĐNTĐB), do Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do
Văn Hóa xuất bản tại Sài Gòn, 1959. Trong tác phẩm của mình ông Hoàng Văn Chí
cũng đã đánh giá về những trí thức từng là chỗ quen biết của mình hết sức sâu
sắc. Ông khẳng đinh trong cuốn sách của mình về những trí thức như sau "Thật
là bất công khi định tội họ phản bội tổ quốc, họ chỉ phản đối đảng mà
thôi!"
Tác
phẩm của Hoàng Văn Chí, cho đến nay vẫn là tác phẩm hoàn chỉnh nhất về phong
trào NVGP. Phần lớn những thành viên khác đều có mặt trong cuốn sách này, với
một tiểu sử khá đầy đủ, với những chi tiết đáng quý và những bài viết tiêu biểu
của họ trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, đặc biệt tiểu sử Phan Khôi
và Văn Cao, với những chi tiết mà hiện nay không tìm thấy ở đâu. Một
phần vì Hoàng Văn Chí có liên hệ gia đình với Phan Khôi, nên một số dữ kiện chỉ
ông biết, mà không tìm thấy ở những tư liệu khác.
Ngay
khi tôi đang hoàn thiện bổ sung cho bài viết này thì ngày 28/06/2012 có một
cuộc hội thảo về nhà thơ Phùng Cung do Công ty Văn hóa & Truyền
thông Nhã Nam phối hợp cùng Trung tâm Văn hóa Pháp L’Espace tổ chức buổi tọa
đàm giới thiệu tuyển tập thơ Xem đêm của ông. Cuộc tọa đàm này có sự có
mặt của Nhà nghiên cứu Phạm Toàn, Nhà phê bình văn học Phạm Xuân
Nguyên, Nhà văn Thái Kế Toại, Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha. Các
bạn có thể tham khảo tại links sau:(http://bookaholicclub.com/?p=17034).
Trong đoạn có đánh giá của Hoàng Cầm về những tác phẩm của Phùng Cung: "Nhìn
chung ở tập Xem đêm, mối quan hệ giữa những người miền quê nghèo được Phùng
Cung diễn tả chân thực đến mức không thể bỏ hoặc thay một từ nào.".
Điều này càng thêm minh chứng cho bản chất của các tác phẩm trong NVGP chỉ đem
lại sự thật chứ không hề có ý chống đối lại dân tộc. Đó là điều đảng cộng sản
không mong muốn.
Bản
thân cuốn sách "Điều đọng lại" in năm 1992 tại nhà xuất bản Văn
Hóa của đảng cộng sản Việt Nam cũng đã khẳng định việc kìm kẹp và kết tội
vô lý với những cá nhân trong NVGP là một sai lầm. Cuốn sách này có lưu trữ tại
thư viên quốc gia Việt Nam có đoạn ở trang 173 "Sai lầm ở việc nóng vội
kết tội NVGP là phản động dẫn đến những động thái xấu cho nền văn học cận đại ở
Việt Nam. Họ không phải là những người chống lại dân tộc. Nhận định sai lầm về
họ cũng là điều đáng suy ngẫm." Cũng cuốn này còn trích dẫn lời của
ông Nguyễn Văn Linh - cựu tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam trong
việc đánh giá về sai lầm trong NVGP và cởi trói trong tư tưởng của nghệ sĩ
trang 265 có viết “Hãy cởi trói cho văn nghệ sĩ để tránh những sự cố đáng
tiếc lặp lại của Nhân văn giai phẩm”.
Kết
luận 2: Qua các tác phẩm của các tác giả trung lập, lề
dân hay lề đảng đều đánh giá sự thẳng ngay, trung thực của các tác giả, tác
phẩm trong NVGP. Họ không có tội phản động như những gì đảng cộng sản đã ghép
cho họ trong quá khứ.
Nhận
xét: Từ kết luận một và hai có thể thấy từ tư tưởng,
lời nói cho đến tác phẩm của các tác giả, tác phẩm trong NVGP là thực sự tiến
bộ và can đảm. Họ đã được các tác phẩm nhiều phía đánh giá đúng về sự thật:
NVGP Không phải phản động, không chống đảng. Họ chỉ nói lên sự thật của xã hội
miền Bắc dưới ách độc tài của đảng cộng sản thông qua nghệ thuật chân chính,
không chấp nhận làm văn nô.
Tội
ác!
Tập
tài liệu tựa đề “Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước tòa án dư luận” do Nxb Sự
Thật (nay là Nxb Chính Trị Quốc Gia), in tháng 6, năm 1959, tại Hà Nội, là tài
liệu đầu tiên, tập hợp những trích dẫn bài viết hoặc diễn văn tố cáo, lên án,
buộc tội NVGP của đảng cộng sản Việt Nam. Trong phần cuối cuốn sách, có một
chương nhỏ, trích "những lời thú tội" của các thành viên NVGP,
còn hầu như toàn thể dành cho phía công tố "phát hiện tội", với những
lời lẽ vô cùng khiếm nhã ngay từ miệng, hoặc từ ngòi bút của giới được gọi là
"trí thức văn nghệ sĩ" đối với các đồng nghiệp và bạn hữu của mình đã
tham gia NVGP.
Tập
tư liệu dày 370 trang này - chứng tích một thời mà chữ nghĩa đã đạt tới đỉnh
cao của sự bồi bút - còn hữu ích về mặt lịch sử và văn học sử, nó mở ra nhiều
khía cạnh của vấn đề NVGP: về tầm vóc của phong trào, về không khí đàn áp thời
đó, về mức độ khốc liệt của cuộc đấu tố. Đồng thời nó cũng gián tiếp trả lời
những lập luận gần đây, cố tình hạ thấp hoặc thu gọn tầm vóc của phong trào
NVGP thành một cuộc "đánh đấm nội bộ", tranh giành thế lực cá nhân,
không liên hệ gì đến vấn đề tự do tư tưởng.
Trong
cuốn sách đó có viết: "Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối
văn nghệ phục vụ chính trị, thực tế là phản đối văn nghệ phục vụ đường lối
chính trị cách mạng của giai cấp công nhân. Chúng đòi "tự do, độc
lập" của văn nghệ, rêu rao "sứ mạng chống đối" của văn nghệ,
thực ra chúng muốn lái văn nghệ sang đường lối chính trị phản động.
Nhóm
"Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối văn nghệ phục vụ công nông binh, nêu
lên "con người" trừu tượng, thực ra chúng đòi văn nghệ trở về chủ
nghĩa cá nhân tư sản đồi trụy.
Nhóm
"Nhân Văn - Giai Phẩm" hằn học đả kích nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa,
nhất là văn nghệ Liên Xô, đả kích nền văn nghệ kháng chiến của ta. Thực ra,
chúng phản đối chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng đòi đi theo chế độ tư bản chủ
nghĩa.
Nhóm
"Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối sự lãnh đạo của Đảng đối với văn
nghệ, chúng đòi "trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ", thực ra chúng đòi đưa
quyền lãnh đạo văn nghệ vào tay bọn phản cách mạng.”
Điều
này cho thấy sự quy chụp táo tợn và trơ trẻn của đảng cộng sản với những văn nghệ
sĩ thực thụ muốn dùng ngòi bút nghệ thuật vào đóng góp cho dân chủ. Hành động
đánh phá và quy chụp này cho thấy đảng cộng sản độc tài chính là kẻ thù không
đội trời chung của tự do, dân chủ.
Tố
Hữu, khi ấy là Ủy viên Trung ương Đảng Lao Động Việt
Nam, phụ trách về công tác văn hóa văn nghệ, tuyên truyền được coi là người dập
tắt phong trào Nhân Văn–Giai Phẩm. Trong cuốn “Qua cuộc đấu tranh chống nhóm
phá hoại "Nhân Văn - Giai Phẩm" trên mặt trận văn nghệ, nhà xuất
bản Văn Hóa, 1958, mà ông là tác giả, Tố Hữu đã nhận định về phong trào này và
những người bị coi là dính líu như sau: "Lật bộ áo "Nhân Văn -
Giai Phẩm" thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián
điệp, mật thám, lưu manh, trốt-kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những
tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu
dâm;" (trg 9. Sđd).
Hay
có đoạn: "Trong cái công ty phản động "Nhân Văn - Giai Phẩm"
ấy thật sự đủ mặt các loại "biệt tính": từ bọn Phan Khôi, Trần Duy
mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn gián điệp Thụy An, từ bọn trốt-kít Trương
Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt. Một đặc
điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ và
tư sản phản động, và đều ngoan cố giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ của
mình, cố tình chống lại cách mạng và chế độ;". (trg
17. Sđd).
Báo
cáo tổng kết vụ "Nhân Văn - Giai Phẩm"
cũng do Tố Hữu viết có kết luận về tư tưởng chính trị và quan điểm văn nghệ của
phong trào Nhân Văn–Giai Phẩm như sau:
“Những
tư tưởng chính trị thù địch Kích thích chủ nghĩa cá nhân tư sản, bôi nhọ chủ
nghĩa cộng sản. Xuyên tạc mâu thuẫn xã hội, khiêu khích nhân dân chống lại chế
độ và Đảng lãnh đạo. Chống lại chuyên chính dân chủ nhân dân, chống lại cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Gieo rắc chủ nghĩa dân tộc tư sản, gãi vào đầu óc
sô-vanh chống lại chủ nghĩa quốc tế vô sản.”
Đến
đây ta có thể thấy đội ngũ văn nô của đảng cộng sản đã cố tình nhào nặn lên một
hình tượng ngược lại hoàn toàn với những gì được coi là sự thật về NVGP. Đảng
cộng sản đã cố tình quy chụp một cách vô lý những trí thức dám nói thẳng thật
về những nghịch lý trong xã hội độc tài cộng sản.
Đối
với văn nghệ do đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Trường Chinh là người
đã đưa các quan điểm văn nghệ của Mao Trạch Đông vào hoạt động Văn hóa Cứu quốc
từ năm 1943, kiên trì bảo vệ nó cho tới khi đổi mới, đã tạo ra rất nhiều vụ án
văn nghệ khác nữa, là nhân tố chính làm cho nền văn nghệ Việt Nam hoàn thành
nhiệm vụ tuyên truyền nhưng tụt hậu so với sự phát triển chung của văn nghệ
nhân loại. Trường Chinh thì xuyên suốt các văn kiện từ khởi thủy cho đến sau
này đều dựa trên các nguyên lý văn nghệ của Mao Trạch Đông: "bắt văn
nghệ phục vụ chính trị, lấy mục tiêu sáng tạo văn nghệ là phục vụ công nông
binh, phục vụ tuyên truyền như là một mệnh lệnh tuyệt đối cho văn nghệ sĩ".
Chưa bao giờ thấy ông đưa ra các yếu tố tự do tư tưởng, tự do sáng tác, tự do
ngôn luận làm điều kiện cho sự thành công của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Ấy
là chưa nói đến phương pháp lập luận của Trường Chinh đầy chất ngụy biện, giả
dối, phản khoa học, thực dụng về chính trị. Rất nhiều mệnh đề của ông khi đưa
vào vận hành quản lý văn nghệ đều đi ngược lại với tinh thần của nó. Và chính
bản thân ông trong một số trường hợp cụ thể đối với một số tác phẩm đã thể hiện
thái độ hẹp hòi, thiển cận, quy chụp, trù dập văn nghệ sĩ.
Ngược
lại Nguyễn Hữu Đang và Nguyễn Đình Thi quan niệm: "…để
thực hiện nền văn hóa mới, trước hết chúng ta phải củng cố nền độc lập hoàn
toàn và làm thực hiện chính thể dân chủ cộng hòa triệt để... Ban bố triệt để
quyền tự do tư tưởng và tự do ngôn luận, chính là cởi mở cho văn hóa trở nên
sầm uất, và đem một luồng sinh khí mạnh mẽ thổi vào cái văn hóa bao lâu phải
sống trong những phòng ngục chật hẹp, thiếu ánh sáng, thiếu hơi nóng của mặt
trời. Sách vở và báo chí được xuất bản tự do, nền văn nghệ của ta mới có thể
dồi dào phong phú”.
Chính
vì có sự khác biệt quá lớn về tư tưởng và những yếu tố chính trị trong việc tồn
vong của đảng cộng sản trước những bài viết phơi bày sự thật, đảng cộng sản đã
trả thù hèn hạ với những người thuộc nhóm NVGP.
Ngày
10- 12- 1959 Tòa án nhân dân Hà Nội khai mạc phiên tòa xử Vụ án gián điệp
hoạt động phá hoại hiện hành. Nội dung bản án kết tội như sau: "Chúng
là những tên gián điệp phản cách mạng, phá hoại hiện hành, hoạt động có tổ
chức, thực hiện âm mưu của địch, tiến hành những hoạt động chiến tranh tâm lý
đê hèn nhất, những hoạt động phá hoại thâm độc nhất, để cuối cùng lật đổ chế độ
chúng ta ở miền Bắc."
Kết
quả tuyên án như sau:
Nguyễn
Hữu Đang 15 năm tù giam, 5 năm quản chế sau khi ra tù.
Lưu
Thị Yến tức Thụy An 15 năm tù giam, 5 năm quản chế sau khi ra tù,
Trần
Thiếu Bảo tức Minh Đức 10 năm tù giam, 5 năm quản chế sau khi ra tù.
Phan
Tại 6 năm tù giam, 3 năm quản chế.
Lê
Nguyên Chí 5 năm tù giam, 3 năm quản chế......
Ngoài
ra sau đó còn tiếp tục có những hoạt động là dư âm hậu quả của NVGP về sau này:
Năm
1960: Phùng Cung bị bắt. Lý do: Tiếp tục sáng tác các truyện ngắn có nội dung
bất mãn, chống đối, phản động.
Năm
1968: Vụ án xét lại chống Đảng. Bắt giam Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Đặng
Kim Giang, Trần Minh Việt, Trần Thư, Vũ Thư Hiên, Lê Trọng Nghĩa, Huy Vân…
Nhiều văn nghệ sĩ nhất là những người đi học ở Liên Xô về hoặc có quan hệ với
Liên Xô bị đưa vào diện phân biệt đối xử.
Năm
1982: Hoàng Cầm bị bắt cùng Hoàng Hưng vì việc định đưa tập thơ Về Kinh Bắc ra
nước ngoài. Hoàng Cầm bị giam 18 tháng, Hoàng Hưng bị giam 39 tháng.
Về
sau này, các nhà trí thức trong NVGP khi viết hồi ký hoặc phát biểu về quãng
đời trong tăm tối của mình trong lao tù cũng như trong cuộc sống thường nhật đã
miêu tả rất rõ về những cái ác mà đảng cộng sản gây ra cho họ.
Luật
sư Nguyễn Mạnh Tường qua bài phát biểu rất quan trọng trước Mặt trận Tổ
quốc Hà Nội ngày 30-10-1956 đã phân tích những sai lầm của chính quyền đi từ
sai lầm CCRĐ ở nông thôn sang sai lầm trong chế độ mậu dịch ở thị thành, tất cả
nằm trong bản chất thiếu dân chủ. Ông chỉ ra nguồn gốc các sai lầm đó và trình
bày những nguyên tắc để sửa sang lại bộ máy pháp luật, chính trị của đất nước.
Ông phê phán khẩu hiệu: "Thà chết 10 người oan còn hơn để sót một địch
không những quá tả một cách vô lý mà còn phản lại cách mạng". Năm 1992
tại Paris nhà xuất bản Quê mẹ của Võ Văn Ái in cuốn hồi ký bằng
tiếng Pháp của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường Un Excommunie (Kẻ bị khai trừ)
với tiểu tựa Hanoi 1954- 1991: Proces d ún intellectuel (Hà Nội 1954-
1991: Kết án một nhà trí thức). Cuốn sách nêu lên những sự thật khi bị o ép,
theo dõi của đảng cộng sản với ông trong cuộc sống đói khổ, thiếu thốn.
Những
sự việc bỉ ổi của đảng cộng sản còn thể hiện qua việc đối xử bất công với nhà
thơ ưu tú Hữu Loan. Hay như một người nữ nghệ sỹ Thụy An đã phải
chịu cảnh mù lòa, tàn tạ trong nhà tù cộng sản được miêu tả qua cuốn sách “Thép
đen” của Đặng Chí Bình.
Ngoài
ra Năm 2001 Nhà xuất bản Văn Nghệ California Hoa Kỳ xuất bản cuốn nhật
kí của Trần Dần tên là “Trần Dần” ghi trích những ghi chép của
Trần Dần trong hai thời kỳ CCRĐ và NVGP 1954- 1960. Đặc biệt đây là một cuốn
sách thật nhất về NVGP, về cuộc sống thời kỳ này của dân tộc mà người ta không
thể tìm thấy các hình ảnh rớm máu ấy trong các tác phẩm tuyên truyền công khai
ở miền Bắc. Cùng với đó còn có một số cuốn khác đề cập đến NVGP như: “Hồi ký
Đêm giữa ban ngày” của Vũ Thư Hiên do NXB Văn nghệ ở Hoa Kỳ….
Nhận
xét: Với các nhà trí thức yêu nước hoạt động trong
lĩnh vực nghệ thuật thì việc quy chụp họ phản động đã là một tội ác. Vì vũ khí
chiến đấu cho công bằng dân chủ xã hội của họ chính là ngòi bút và tác phẩm.
Kết luận vu khống của đảng cộng sản giành cho họ là một tội ác. Nhưng chưa dừng
lại ở đó. Đảng cộng sản còn bắt họ vào tù, đày ải và hành hạ họ trong cuộc
sống. Đó là một tội ác không thể chấp nhận được đối với trí thức.
Những
kẻ chủ mưu:
Như
đã nói ở trên, Trường Chinh và đảng cộng sản của ông ta chính là kẻ thù
trực tiếp trong vụ án NVGP. Trường Chinh chủ trương áp đặt tu tưởng của đảng và
của Mao cho các văn nghệ sĩ trí thức lúc đó. Đi cùng với Trường Chinh là đội
ngũ văn nô như Tố Hữu, Đặng Thai Mai ra sức tuyên truyền và bôi
nhọ nhóm NVGP như một "lũ phản động". Họ dùng đến cả tòa án của độc
đảng để đẩy những con người vô tội vào tù.
Nhưng
trên thực tế có một kẻ thủ ác giấu mặt hết sức nhan hiểm đó là ông Hồ Chí
Minh. Như chúng ta đã biết tôi từng chứng minh về hệ thống chính trị trong
đảng cộng sản Việt Nam trong các phần trước. Ông Hồ Chí Minh thực sự là kẻ chỉ
đạo và viết ra chủ trương của các hành động của đảng cộng sản.
Trên
thực tế, Hồ Chí Minh kiêm nhiệm hai chức Chủ Tịch Đảng và Tổng
bí Thư từ (9/1956 đến 9/1960). Như vậy NVGP rõ ràng xảy ra trong thời
kỳ ông Hồ phải là người có quyền lực chính trị cao nhất, lúc này Lê Duẩn cũng
chưa có vai trò rõ rệt (Như đã chứng minh ở phần 2).Vậy ông Hồ không thể vô can trong sự việc
này.
Trong
hội nghị lần thứ 10 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (họp từ ngày 25/8/56 đến
24/9/56), Trường Chinh bị "nghiêm khắc kiểm điểm sai lầm"
trong công tác cải cách ruộng đất, phải tự kiểm thảo và xin từ chức. Hoàng
Quốc Việt và Lê Văn Lương, bị loại ra khỏi Bộ Chính trị, Hồ Viết
Thắng ra khỏi Ban Chấp Hành Trung ương Đảng. Hồ
Chí Minh kiêm nhiệm hai chức Chủ Tịch Đảng và Tổng bí Thư từ (9/1956 đến
9/1960). Sau đó là thời kỳ Lê Duẩn làm Tổng Bí
Thư (9/1960 đến 7/1986), xảy ra vụ Xét Lại Chống Đảng.
Vụ
NVGP xảy ra dưới thời Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Đảng kiêm Tổng bí thư
Tháng
Giêng năm 1956, Giai Phẩm Mùa Xuân vừa ló dạng thể hiện tự do sáng tác, đã bị
dập tắt ngay. Vậy có thể hiểu là Trường Chinh đã giao cho Tố Hữu,
người có tư thù với Hoàng Cầm, Trần Dần và Lê Đạt trong
việc phê bình tập thơ Việt Bắc, xử lý vụ Giai phẩm mùa xuân theo chỉ thị
của Hồ Chí Minh.
Ngày
9/12/1956 Hồ Chí Minh ký sắc lệnh báo chí. Đóng cửa Nhân Văn. Phong trào
NVGP bị dập tắt lần thứ nhì, tháng12/56. Tháng 2/57 trong Đại hội văn nghệ toàn
quốc lần thứ hai, họp từ 20 đến 28/2 tại Hà Nội, Trường Chinh kêu gọi
đấu tranh "đập nát âm mưu phản động" của nhóm NVGP.
Như
vậy ta có thể thấy Trong tháng 8 và 9 năm 1956, có hai sự kiện trùng hợp đáng
kể:
Trường
Chinh phải từ chức Tổng Bí thư. Phong trào NVGP phát
triển trở lại. Quyết định cho phép Hội văn nghệ tổ chức lớp học tập dân chủ 18
ngày, theo đường lối Liên Xô, trong tháng 8/1956, rõ ràng không thể là của một Trường
Chinh đã mất chức quyết định được. Người quyết định về việc này chỉ có thể
là Hồ Chí Minh đứng đầu đảng và nhà nước chứ không thể là ai.
Cuối
năm 57: Mao Trạch Đông hạ lệnh đánh phái hữu. Huy Cận và Hà
Xuân Trường được cử đi học tập chính sách của Trung Quốc. Khi họ trở về,
tháng 2/58 việc thanh trừng NVGP được tổ chức quy mô và toàn diện trong hai lớp
đấu tranh Thái Hà.
Lần
này nữa, trách nhiệm hẳn cũng đến từ từng cao nhất của cấp lãnh đạo của ông Hồ
Chí Minh vì tôi đã từng chứng minh ở các phần trước, ông Hồ luôn coi tư
tưởng của Mao là kim chỉ nam cho hành động “Tư tưởng của Mao không thể sai.”
Trả
lời câu hỏi chủ tịch Hồ Chí Minh có trách nhiệm như thế nào về vụ NVGP, Nguyễn
Hữu Đang tuyên bố: "Cái việc mà người ta cứ nói là việc nọ việc kia
là người dưới làm chứ cụ Hồ không biết, cụ Hồ không thực tiễn làm, đó là một
cách nói không đúng sự thật. Người ta thấy việc gì mà có dư luận kêu ca, thắc
mắc thì không muốn để cái kêu ca thắc mắc đó hướng vào vị lãnh tụ mà người ta
suy tôn tuyệt đối. Có thể nói là người ta thần thánh hóa cụ Hồ. Vì cái lý do nó
là như thế. Thực chất thì cụ Hồ không phải là người bị vô hiệu hóa trong bộ máy
lãnh đạo của đảng và của dân tộc. Cụ Hồ lúc nào cũng là người có đầy đủ quyền
hành, lúc nào cụ cũng sáng suốt, linh lợi, lúc nào cụ cũng có uy tín với dân và
cũng có quyền đối với các đồng chí trong đảng, đối với những người lãnh
đạo."
Ngoài
ra ông Hồ Chí Minh còn là người viết cuốn: “truyện về chiến sĩ
thi đua” nhằm đưa ra tư tưởng. Cuốn sách này đã tiến hành định hướng cho
nền văn học nước nhà phải theo sự chỉ đạo của đảng, của ông Hồ trong viết thế
nào và viết cái gì. Vậy ông ta chính là kẻ chủ trương cho trào lưu chống lại
NVGP.
Trong
cuốn “Điều đọng lại” in năm 1992 tại nhà xuất bản Văn Hóa của đảng cộng
sản Việt Nam cũng có đoạn trang 121: “Bác Hồ đã chỉ đạo việc cách mạng
trong các loại hình nghệ thuật. Không thể để cho việc ca tụng thói hư tật xấu
của chủ nghĩa tồn tại trong xã hội chúng ta. Những kẻ chống đối lại đường lối
của đảng cần phải nghiêm khắc xem xét lại”. Việc này cho thấy ông Hồ hoàn
toàn ủng hộ và còn chỉ đạo cấp dưới về chủ trương xét lại với những nhóm có tư
tưởng dân chủ như NVGP là một ví dụ.
Kết
Luận: Ông Hồ Chí Minh đã dùng ảnh hưởng của
mình để tiến hành viết sách định hướng cho nền nghệ thuật nước nhà, ông ta có
một vai trò quyết định trong vấn đề chính sách và chủ trương trong hệ thống
chính trị. Ông ta cũng phải chịu trách nhiệm lớn lao trong vụ việc NVGP. Đó là
sự thực không thể chối bỏ.
Kết
luận chung:
Trong
khuôn khổ bài này tôi đã chứng minh việc kết tội NVGP phản động là một tội ác
chính trị mà đảng cộng sản gây ra cho giới trí thức. Sau cuộc cải cách ruộng
đất đẫm máu thì hành động bức bách bỏ tù những nhà trí thức cũng là một hành
động cho thấy chủ trương độc tài ngay từ trong tư tưởng của chế độ cộng sản tại
Việt Nam.
Ông
Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam hoàn toàn không thể vô can đổ lỗi
cho sai lầm trong NVGP. Họ đã cố tình chụp mũ để đẩy những con người can đảm
nhưng trung thực này vào vòng lao lý do họ đặt ra. Ông Hồ là kẻ thủ tiêu tư
tưởng dân chủ tự do dân tộc. Và đây là một tội ác của ông Hồ!. Có thể thấy: Trí
thức cũng chẳng khá hơn đại bộ phận nhân dân dưới chế độ độc tài đảng trị của
ông Hồ và đảng cộng sản Việt Nam!
Ngày
28/06/2012
danlambaovn.blogspot.com
_______________________________
_______________________________
Đã đăng:
danlambaovn.blogspot.com/.../nhung-su-that-khong-choi-bo-phan-1.html
danlambaovn.blogspot.com/.../nhung-su-that-khong-choi-bo-phan-2-ho.html
http://danlambaovn.blogspot.com/2012/06/nhung-su-that-khong-choi-bo-phan-3-bac.html
http://danlambaovn.blogspot.com/2012/06/nhung-su-that-khong-choi-bo-phan-4.html
http://danlambaovn.blogspot.com/2012/06/nhung-su-that-khong-choi-bo-phan-5-noi.html
http://danlambaovn.blogspot.com/2012/06/nhung-su-that-khong-choi-bo-phan-6-du.html
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment