CSVN BẤT LỰC
CẢ KHÁCH
QUAN LẪN CHỦ QUAN
VỀ CẢI TỔ
KINH TẾ BỆNH HOẠN
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh
tế
Geneva, 10.08.2012. Cập nhật
30.05.2013
Đã từ nhiều năm nay, đứng trước tình
trạng phá sản Kinh tế, nhưng đảng CSVN bất lực không thể cải tổ tận căn
nguyên, mà chỉ sử dụng những xảo trá gian manh để thoa dịu lòng dân, làm
cho dân tin vào thiện chí của đảng và hy vọng. Những xảo trá gian manh này
giống như thoa dầu cù là ngòai da cho căn bệnh trầm trọng nội tạng. Tỉ dụ
điển hình nhất mới xẩy ra cuối tuần vừa rồi là sử dụng Nick Vujicick để đi
khuyên những doanh nhân hãy kiên nhẫn đừng đóng của Công ty. Bản Tin về
cách thoa dầu cù là như sau:
HỎI: Vì sao
anh lại có ý tưởng nói chuyện với giới doanh
nhân Việt?
ĐÁP: Ồ, ban đầu tôi chỉ định giao lưu với sinh
viên và khoảng 9000 trẻ em đường phố. Nhưng sau đó, phía Việt Nam đề nghị giao lưu với giới doanh nhân. Họ đưa ra số liệu là hàng trăm ngàn DN phải bỏ trốn, tự
tử, hoặc vào nhà thương điên. Họ nói doanh nhân Việt giờ còn tuyệt vọng hơn
những người khuyết tật. Và vì thế tôi đồng ý nói chuyện và chủ đề
đưa ra là “Đừng bao giờ bỏ cuộc” (doanh nhân bỏ cuộc vì thua lỗ do phá sản kinh tế của nhà
nước chứ không phải họ thiếu tinh thần!) dù nói thật tôi không tin việc cứ lao đầu vào rọ là một giải pháp
khôn ngoan. Nhà giàu tuyệt vọng nguy hiểm hơn nhà nghèo, bởi người
ta sẽ sốc nặng và suy sụp rất nhanh khi không quen với sự tuyệt vọng. Tôi
nghĩ sự tuyệt vọng nào cũng cần được giúp đỡ, nhất là sự tuyệt vọng của những
người bình thường.
Chúng tôi cập nhật bài đã viết ngày
10.08.2012 để độc giả thấy cái sự bất lực cải tổ đã từ những năm trước đây,
chứ không phải ngày nay đến nỗi phải sử dụng lời khuyên đạo đức Nick
Vujicick để vực lại một tình trạng Kinh tế phá sản.
Bài ngày 10.08.2012 viết cho một Tờ
báo in. Tờ báo này đã tóm tắt bằng Anh ngữ. Chúng tôi muốn trích ra nguyên
văn bản tóm bằng Anh ngữ này để quý độc giả Trẻ, quen với Anh ngữ, ý thức tầm
quan trọng tương lai Kinh tế VN:
It
is time to push the CPV to an end
Prof. Dr. Nguyen Phuc Lien
In this article, Prof. Dr.
Nguyen Phuc Lien emphasized the downturn of the economy of VN in 2011 and
2012, which will create a hardship for all components of the people and
lead them to standing up for their life. This is a lengthy study, therefore,
we will outline the major points of the writer’s original in Vietnamese
only:
1. The downturn of the economy
of VN (and the economy of China recently too) has originated from the
mechanism and structure of that economy. It is not temporary issues or
problems, but is a matter of substance, which originated from an irrational
market economy under the socialist directions, to the degree that the World
Bank as well as IMF had to call for Vietnam’s substantial reforms. This is
not a matter of change of some details, but a fundamental change, or a
change of mechanism. The reason: the state firm sector doesn’t work, and
even pushes the economy to a situation of near collapse by their corruption
and costly operation. They swallowed most of the financial resources of the
budget, but failed to create the equivalent products/services.
Consequently, the people and workers have been allocated little resources
for production as well as improving their standards of living. The widening
gap of financial and economic resources between the people and cadres,
members of the communist party is larger and larger. The people can’t
accept it in the long run.
2. If no change will ever take
place, the masses will be pushed to a dead end and have to stand up to
liberate themselves from the communist mechanism. In China, a 10-meter Mao
Zedong statue was recently demolished by the people in Hainan. The masses
in China and VN are determined to push the communist party into the abyss.
Considering the cause of the
risings in the Jasmine Revolution in Northern Africa and the Middle East, a
major cause was the poverty of a large component of the people. The STOMACH
RIGHT is what the people claimed in most revolutions: The 1789 French
Revolution, the 1917 Revolution in Russia (by Lenin), the 1989-91
Revolutions in Eastern Europe and Russia, all had the roots from the
failure of the economies concerned to respond to the needs of the people.
The Vietnamese communist party
is also not exempted from the people’s move to terminate the communist
mechanism and make their life affordable and viable.”
Nguyên
cớ sụp đổ Kinh tế là ở Lãnh vực Kinh tế thực,
chứ
không phải chỉ do hệ thống Ngân Hàng/Tàichánh
Đầu tháng 6 vừa rồi, trước những
lời kêu gọi của World Bank và IMF về cải tổ tận căn nguyên của mô hình Kinh
tế để tránh sụp đổ toàn diện, CSVN bắt đầu cải tổ về hệ thống Ngân Hàng và
Tài chánh được CSVN coi như nguyên cớ chính sụp đổ Kinh tế.
Việc cải cách bắt đầu bằng mua nợ
của một số Ngân Hàng mà Hãng Thông Tấn AFP phê bình như sau:
HO CHI MINH CITY (AFP/10 June
2012 1233 hrs): Vietnam's drive to restructure its troubled banking sector
is being derailed by powerful interest groups as the political will needed
to force through painful reforms falters, experts say.
Những nhóm lợi ích dựa trên thế
lực Chính trị đã biến việc mua nợ trở thành thưởng công cho những Ngân Hàng
đã phạm lỗi. Thực vậy Chuyên gia Kinh tế VŨ THÀNH TỰ ANH đã nói rõ ra như
sau:
“Ba ngân hàng đầu tiên sáp nhập
không những không bị mất vốn, chủ sở hữu vẫn tại vị, mà còn được Ngân hàng
Nhà nước bơm thêm vốn, được BIDV hỗ trợ thanh khoản. Các ngân hàng này đã
được thưởng vì làm sai”.
Khi mà Chính trị can thiệp vào,
hay mạnh hơn nữa là nắm “chủ đạo “ Kinh tế, thì Kinh tế phục vụ cho Chính
trị chứ không phải do Dân và cho Dân. Chính vì vậy mà chúng tôi luôn luôn
kêu gọi phải DỨT BỎ CÁI CƠ CHẾ CSVN HIỆN HÀNH chủ trương độc tài Chính trị
nắm độc quyền Kinh tế.
Điều chúng tôi ngạc nhiên là khi
bàn về cải tổ Ngân Hàng/Tài chánh trong dịp đầu tháng 6 vừa rồi, Chuyên gia
kinh tế Vũ Thành Tự Anh lại không nhắc đến bệnh hoạn của hệ thống Ngân
Hàng/Tài chánh, mà nói đế những lý do BỆNH HOẠN của nền KINH TẾ THỰC gồm hiệu
lực sản xuất hàng hóa/dịch vụ của những Tập đoàn Kinh tế quốc doanh trong một
bối cảnh CUNG/CẦU hàng hóa và dịch vụ tại quốc nội cũng như từ nước ngoài.
Oâng nói:
“Có ba vấn đề. Thứ nhất, hiệu quả
nền kinh tế kém. Tiền được bơm ra, thuế được cắt giảm, nhưng “sức khỏe” nền
kinh tế sẽ khó gượng dậy ngay bởi ốm yếu từ trước. Thứ hai, đầu ra của sản
phẩm. Hiện một số doanh nghiệp (DN) vẫn còn năng lực sản xuất, nhưng không
có đầu ra, nên cũng không có nhu cầu về đầu vào. Điều này ảnh hưởng đến các
nhà cung ứng, tạo hiệu ứng đình trệ dây chuyền trong cả nền kinh tế. Thứ
ba, bất ổn về chính sách, bất ổn kinh tế vĩ mô đang tạo ra chi phí rất lớn.”
Bất lực mà CSVN không thể cãi tổ
được, đo là những người có quyền Chính trị nắm đầu các Tập đoàn Kinh tế nhà
nước. Đó không phải là những điều hành Kinh tế cho Lợi nhuận tối đa cho Tập
đoàn, mà chỉ dùng quyền hành Chính trị để THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ cho Lợi nhuận
riêng của mình mà người ta đang gọi là những nhóm lợi ích. Cũng vậy, trong
tình hình khủng hoảng Kinh tế Thế giới hiện giờ, nhất là hai Thị trường lớn
Hoa kỳ và Liên Au, CSVN không thể xuất cảng được và Dân chúng trong nước
thì yếu kém về mãi lực. Đây là Luật Kinh tế về CUNG/CẦU.
CSVN dường như đang hãnh diện về
việc Lạm phát giảm xuống. Chúng tôi thì nhìn việc giảm Lạm phát này như một
triệu chứng của CƠN XOÁY THỤT GIÁ (Spirale Déflationniste) mà Thế giới đã
phải kinh hoảng cho những năm 1929-30. Bất lực không làm TĂNG HIỆU NĂNG sản
xuất của những Tập đoàn Kinh tế nhà nước và hoàn toàn bất lực trước việc GIẢM
CẦU hàng hóa/dịch vụ trong quốc nội và nhất là từ nước ngoài, việc sụp đổ của
Cơ chế Chính trị/Kinh tế CSVN như một định mệnh vậy.
Giống
như Đại Khủng hoảng 1929-30:
Sản
xuất quá đáng làm cơn xoáy thụt giá
Trong khi theo rõi sự sôi bỏng
Khủng hoảng Tài chánh, Kinh tế và Chính trị tại Hoa kỳ, nhất là Au châu,
chúng tôi đọc được những yếu tố cho thấy triệu chứng Thế giới đang đi đến một
cuộc Đại Khủng Hoảng Kinh tế thực (Récession de l’Economie réelle) tương tự
như cuộc Đại Khủng hoảng năm 1929-30 mà nguồn gốc đến từ Trung quốc.
Thời tiền 1929-30, Tây phương
quá hồ hởi với Kỹ nghệ hóa bằng Máy Nổ, đã sản xuất quá nhiều
(Surproduction) mà không kể đến Mãi lực Tiêu thụ để đến nỗi Cơn xoáy Thụt
giá (Spirale Déflationniste) xẩy ra làm cho phía Sản xuất phá sản và
buộc lòng phải hủy bỏ Hàng hóa để nâng Giá lên. Thực vậy, nếu không phá huỷ
hàng hóa đã sản xuất, thì phía CUNG vẫn cao hơn phía CẦU làm cho Giá bán vẫn
tiếp tục thụt xuống. Gía tiếp tục thụt xuống thì không có Lợi nhuận nên phải
thải thợ, thậm chí đóng cửa xí nghiệp. Thất nghiệp tràn lan càng làm cho
Mãi lực xuống giốc và và Giá bán càng thụt xuống.
Tại hai Thị trường Hoa kỳ và các
nước Liên Au ngày nay, Mãi lực từ Tư nhân đến Nhà nước kiệt quệ vì hai cuộc
Khủng hoảng NỢ TƯ năm 2008 và NỢ CÔNG năm 2011. Mãi lực kiệt quệ có nghĩa
là phía CẦU giảm và buộc lòng Giá bán trên Thị trường phải đi theo chiều thụt
xuống. Thông tin báo chí trong giai đoạn này đã cho thấy phía CẦU hàng hóa
và dịch vụ đang hạ xuống. Lấy một số tỉ dụ:
*
Thống kê công khai Trung quốc đã cho thấy lượng xuất cảng TQ quốc trong
tháng 10/2011 hạ xuống 60%. Thị trường Nhà cửa Trung quốc xuống giá trầm trọng.
Trung quốc cũng cho biết đà Lạm phát đang hạ dần. Điều này có nghĩa là dân
chúng không hồ hởi chi tiêu làm tăng Lạm phát như trước nữa. Đó là phản ứng
của dân chúng vì thiếu Mãi lực tiêu thụ.
*
Cũng trong tháng 10/2011, Đức cũng tuyên bố việc ngưng trệ sản xuất vì lượng
CẦU nước ngoài giảm. Chính Thụy sĩ cũng cho Thống kê cho thấy việc thải thợ
tăng lên do giảm sản xuất.
*
Thống kê nghiên cứu về du lịch sang Luân đôn nhân Thế vận Hội năm 2012 ước
lượng rằng số du lịch sẽ giảm tới 60%.
Đó là những tỉ dụ cho thấy ảnh
hưởng của Khủng hoảng Tài chánh/ Kinh tế làm Mãi lực Tiêu thụ giảm hẳn xuống.
Chúng ta có thể đang bắt đầu Cơn xoáy thụt giá (Spirale Déflationniste)
Trung
quốc và Việt Nam ngày nay:
Sản
xuất quá đáng và ích kỷ tích lũy vốn tồn đọng
Chúng tôi muốn trình bầy trong
phần này những điểm chính cho dự phóng một cuộc Đại khủng hoảng mà những
gian giảo Kinh tế Trung quốc là nguồn gốc.
Trong những thập niên, nhất là
sau khi vào được WTO / OMC, Trung quốc như “say máu “ sản xuất và xuất cảng
tràn lan hàng Made in China ra Thế giới, nhất là hai Thị trường Hoa kỳ và
Liên Au. Tối thiểu trong 10 năm trướng vào WTO / OMC, Trung quốc đã sử dụng
những biện pháp đại hạ giá gian giảo để moi móc Mãi lực của Hoa kỳ và Liên
Au:
(i)
Thu Mãi lực của Hoa kỳ và Liên Au
*
Hạ giá thành hàng hóa bằng một quyền lực Chính trị độc tài bắt ép nhân lực
Trung quốc phải nhận lương “ăn cháo với muối “. Khối dân nghèo nội địa chết
đói buộc phải nhận đồng lương ăn cháo để sống. Việc này có sự cấu kết của
Tư bản Đen từ Mỹ, Aâu châu, Nhật, Nam Hàn, thậm chí cả Chệt Đài Loan. Tư bản
Đen cấu kết với độc tài Chính trị để bóc lột nhân lực Trung quốc và làm cho
độc tài TQ trở thành Tư bản Đỏ.
*
Cũng Độc tài Chính trị Trung quốc sử dụng Tỷ giá đồng Yuan thấp đối với
Dollar và Euro để giảm giá hàng xuất cảng thêm một lần nữa. Thái độ cố chấp
gian giảo này vẫn tiếp tục và còn tiếp nữa dù với những lời hứa suông khi mỗi
lần Trung quốc bị công kích. Trong cuộc Họp G20 năm ngoái 11.11.2010 tại Seoul,
Mỹ làm mạnh đòi Trung quốc cho Tỷ giá đồng Yuan uyển chuyển (Flexible), thì
Trung quốc lại gian giảo bằng cách cho đồng Yuan uyển chuyển trong một cái ống
mà cái ống này lại cứng nhắc hạ thấp bên dưới đồng Đo-la. Ký giả
Harold THIBAULT viết : «La Chine est le vilain petit canard accusé de
maintenir artificiellement sa monnaie à un niveau trop faible…” (Le
Monde 10.11.2010, p.15). (Trung quốc là con vịt nhỏ láu cá bị tố cáo là cố
thủ giữ tiền của mình ở mức độ rất thấp…)
*
Ngoài việc giảm giá thành bằng lương ăn cháo của công nhân và thủ thuật giữ
Tỷ giá đồng Yuan thấp, họ còn dùng những chất liệu rởm để sản xuất hàng bán
ra. Đây là những hàng giả và độc hại. Đây cũng là chủ đích hạ giá hàng của
Trung quốc.
(ii) Ngăn cản Hoa kỳ và
Liên Au thu lại Mãi lực từ Trung quốc
Trung
quốc sản xuất tràn lan hàng hóa hạ giá và thu vào tối đa Mãi lực từ Hoa kỳ
và Liên Aâu. Số thu vào ấy lại không được tiêu ra theo luật lưu hành Tài
chánh của Kinh tế, mà Trung quốc tích lũy kỹ làm Dự trữ vốn ngoại tệ. Hoa kỳ
và Liên Au sở dĩ để dễ dàng cho Trung quốc bán hàng thu lấy Mãi lực vì Hoa
kỳ và Liên Au “mơ mộng “ sẽ xuất cảng hàng hóa kỹ nghệ sang khối người khổng
lồ Trung quốc để thu lại Mãi lực. Nhưng Hoa kỳ và Liên Au chỉ “mơ mộng“ vì
đồng tiền mà Tư bản đỏ Trung quốc đã cất giữ, thì họ cất kỹ lắm không nhả
ra:
*
Một đàng đối những hàng Kỹ nghệ cao cấp, Trung quốc chỉ muốn cho “Gián điệp
“ Kinh tế đi ăn cắp mẫu và Kỹ thuật để họ tự sản xuất lấy.
*
Một đàng Tư bản Đỏ Trung quốc không nâng cấp Mãi lực cho dân chúng Trung quốc
để Hoa kỳ và Liên Au có thể bán hàng hóa cho dân Trung quốc mà thu mãi lực
lại được. Chũng theo Ký giả Harold THIBAULT, viết trong Le Monde ngày
10.11.2010, p.15, về cuộc Họp G20 ngày 11.11.2010 tại, rằng những Lãnh đạo
Trung quốc đều biết cái giải quyết đơn giản mà Hoa kỳ và Liên Au đòi hỏi : «La
solution est bien connue : réorienter l’économie vers la consommation
intérieure. Pour cela, laisser le yuan grimper, améliorer les salaires pour
permettre aux Chinois de dépenser. ».(Cái giải quyết đã được biết rõ : hướng
Kinh tế về tiêu thụ nội địa. Để thực hiện, hãy để cho đồng yuan tăng lên,
hãy trả lương cao hơn để cho phép dân Trung quốc tiêu thụ).
Quan
điểm làm Kinh tế của Tư bản Đỏ Trung quốc không giống Tây phương. Henry
FORD đã nói : “Tôi trả lương cao cho Công nhân để họ có Tiền mua xe hơi mà
tôi sản xuất “. Đó là quy luật làm ăn lâu dài. Thực vậy để Henry FORD có thể
sản xuất xe hơi lâu dài, thì phải nâng đỡ Mãi lực của người Tiêu thụ xe hơi
để hai bên cùng sống chung lâu dài với nhau. Nhưng Kinh tế của Tư bản Đỏ là
đoản hạn, chộp giựt trong thời gian họ còn tại chức có quyền thu vét tiền bạc,
chứ không tuân thủ quy luật Kinh tế làm ăn lâu dài với nhau.
Tư
bản Đỏ Trung quốc đã sản xuất xả láng và tích lũy Tiền bạc tạo thành một
số vốn mà Giáo sư Don PATINKIN, cựu Khoa trưởng Khoa Kinh tế Đại học
Tel-Aviv gọi là “Encaise Oisive“ (Quỹ tích lũy ứ đọng). Năm 1969, tôi viết
một Tập nghiên cứu để trình nộp cho Đại học ở Thụy sĩ, gọi là Mémoire de
Licence với đầu đề ENCAISSE OISIVE de DON PATINKIN. Việc tích lũy Vốn ứ đọng
này làm ngưng trệ lưu hành vốn của Kinh tế. Vốn lưu hành trên Thế giới như
dòng nước sông luôn luôn chảy vòng trong một Chu kỳ. Ơû một giai đoạn nào
nó, mình dùng Vốn để làm Kinh tế, thì phải thả ra cho dòng nước sông để người
khác có thể dùng được. Khi mình đào một cái ao cho dòng nước sông chảy vào,
rồi đắp đập xây cống giữ chặt lấy nước trong ao cho mình, thì dòng nước
sông sẽ cạn dần và người khác khan hiếm nước sông.
Con
số USD.3200 tỉ mà Trung quốc giữ kỹ hiện nay như nước trong ao tù, chính là
Encaisse Oisive làm cho dân Hoa kỳ và Liên Au cũng như những quốc gia của
Tây phương phải thiếu Vốn. Vì vậy:
=>
Việc Trung quốc Sản xuất tràn lan và xuất cảng xả láng đang tạo ra tình trạng
SURPRODUCTION giống như thời kỳ trước Đại Khủng hoảng Kinh tế những năm
1929-30.
=>
Việc tồn trữ Encaisse Oisive của Trung quốc khiến Mãi lực dân Hoa kỳ và
Liên Au kiệt quệ với NỢ CÔNG, NỢ TƯ chồng chất, nên phía CẦU hàng hoá và dịch
vụ thụt xuống sẽ tạo SPIRALE DEFLATIONNISTE (Xoáy thụt giá) giống như thời
kỳ Đại Khủng hoảng 1929-30.
Giữa
THẶNG DƯ và NỢ NẦN, có những liên hệ nhân quả hỗ tương. Kinh tế gia Martin
WOLF, trước đây là Giám đốc World Bank tại Aán Độ và hiện nay là Bình luận
gia trưởng của Báo Financial Times đã viết về tình hình dư vốn của Trung quốc
và thiếu vốn của Hoa kỳ và Liên Au như sau: “Les excédents des uns
dépendent de la capacité des autres à s’endetter. Créanciers et Débiteurs
sont líes les uns aux autres comme des siamois..”(Những thặng dư của những
người này tùy thuộc vào khả năng của những người kia vay mượn. Các Chủ nợ
và các Con nợ gắn liền với nhau như những đứa trẻ sinh ra bị nối liên thân
xác.) (Le Monde 8.11.2011, page 2)
Trung
quốc là nguồn gốc làm phát sinh Khủng hoảng Nợ nần và Thất nghiệp hiện nay.
Cái Khủng hoảng của Con nợ sẽ trở ngược lại phá hoại Kinh tế của Chủ nợ
Trung quốc vậy.
Những biện pháp chặn đứng gian giảo
Kinh tế Trung quốc
càng làm GIẢM CẦU hàng hóa Trung quốc
và Việt Nam
Trong
tình trạng Khủng hoảng Kinh tế và Thất nghiệp hiện nay tại Hoa kỳ và Liên
Au, trước hết cần phải có biện pháp khởi công phục hồi Kinh tế để giảm Thất
nghiệp, đồng thời phải cứng rắn ngăn chặn Trung quốc “xuất cảng những gian
giảo Kinh tế“ không những sang Hoa kỳ, Liên Au mà còn khắp nơi.
Trước
cảnh Khủng hoảng Nợ nần, Suy thoái Kinh tế và Thất nghiệp hiện nay của Hoa
kỳ và Liên Au, người ta không dám nghĩ tới Độ Phát triển Kinh tế cao để hồ
hởi nữa, nhưng nghĩ đến những biện pháp khiêm tốn để có thể khởi công Kinh
tế. Người ta nghĩ đến những biện pháp sau đây:
1)
Biện pháp thứ nhất : Ngăn cản không cho hàng hóa Trung quốc xâm nhập Hoa kỳ
và Liên Au để tiếp tục làm giảm Mãi lực của hai Thị trường này nữa. Đây là
những biện pháp Che chở Mậu địch (Protectionnisme commercial) được coi như
tự bảo vệ Mãi lực của dân mình.
2)
Biện pháp thứ hai : Chính Hoa kỳ và Liên Au đi bước đầu khiêm tốn
phát triển là đưa những hàng hóa thường dùng của đại chúng từ Trung quốc về
sản xuất tại Hoa kỳ và Liên Aâu. Việc làm này một mặt tạo công ăn việc làm,
tạo bước phát triển và cũng là làm tăng Mãi lực cho dân mình, và một mặt đừng
để thất thoát Mãi lực vì hàng Trung quốc.
3)
Biện pháp thứ ba: Chế tài những đại Công ty Liên quốc gia đã sản xuất hàng
từ Trung quốc bằng cách lấy thuế cao lên đối với những đại Công ty này đã lợi
dụng Mãi lực Hoa kỳ và Liên Au để thu vào Lợi nhuận cao do chênh lệch Giá
thành sản xuất hạ tại Trung quốc và Giá bán cao tại hai Thị trường Hoa kỳ
và Liên Au.
4)
Biện pháp thứ tư: Cứng rắn yêu cầu Trung quốc phải để cho Tỷ giá đồng Yuan
uyển chuyển theo với đồng Đo-la và đồng Euro. Nếu Trung quốc vẫn cố chấp,
thì đây là việc dùng Tiền tệ để cạnh tranh Thương mại bất hợp pháp. Phải
đưa vấn đề ra WTO/OMC để có những quyết định chế tài.
Tóm lại và KẾT LUẬN:
*
CSVN bất lực trong việc CẢI TỔ làm tăng HIỆU NĂNG sản xuất của những Tập
đoàn Kinh tế nhà nước vì hai lý do:
=>
Chính những người phải lo việc CẢI TỔ lại là những Lãnh đạo Chính tự bản
thân yếu kém về quản trị Kinh tế;
=>
Họ chỉ lo THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ cho đầy túi cá nhân trong một thời gian ngắm
nắm quyền Chính trị, chứ không quan tâm đến tiền đồ Kinh tế cho Dân chúng
và Đất Nước.
*
Trong tình trạng bất lực tăng HIỆU NĂNG như vậy, CSVN còn bất lực trong việc
làm tăng phía CẦU hàng hóa/dịch vụ:
=>
Tại Quốc nội, dân chúng bị bóc lột và không có đủ mãi lực. Thêm vào đó,
hàng hóa Trung quốc lại tràn lan tại sân nhà;
=>
Từ nước ngoài, Khủng hỏang, Thất nghiệp làm giảm CẦU đối với hàng hóa/dịch
vụ Trung quốc và Việt Nam. Đồng thời khuynh hướng Bảo Hộ Mậu Dịch tăng lên
để giải quyết Thất nghiệp mỗi nước. Tất cả đều làm giảm CẦU hàng hóa/dịch vụ
Trung quốc & Việt Nam.
KẾT LUẬN của chúng tôi là phải gấp rút DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN BỆNH HOẠN HIỆN NAY để
dân mới có thể thăng tiến và đất nước bắt đầu phát triển thực sự trong lâu
bền.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh
tế
Geneva, 10.08.2012. Cập nhật
30.05.2013
|
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment