Liên
Hội Nhân Quyền
Việt Nam ở Thụy Sĩ
kính
chuyển đến quý bạn đọc và quý diễn đàn
bài
của bà Phạm Thanh Nghiên ’, tác giả Nhựt ký *** Uất ức - Biển
ta ơi***,
Viết cho Phụ Nữ Nhân Quyền
Viết cho Phụ Nữ Nhân Quyền
Phạm Thanh Nghiên
Hải Phòng ngày 4 tháng 12 năm 2013
“Mày mà là phụ nữ à!”.
Câu nói được “phun” ra từ cửa miệng một tên công an mật
vụ khi hắn bị một phụ nữ là tôi chất vấn về lối hành xử thô bạo và vô lễ. Có lẽ,
đối với một người phụ nữ, không còn sự xúc phạm nào nặng nề hơn thế.
Hắn vừa chửi bới, vừa xông vào tận cổng định cướp chiếc
máy chụp hình trên tay tôi, thái độ sừng cồ và dữ tợn. Hắn giơ cánh tay lên định
đánh tôi nhưng kịp dừng lại: “Còn có những cách khác hữu hiệu hơn nhiều để
trừng phạt “con nhãi nhép phản động”, hơn là đánh “nó” ở đây”. Chắc
hắn nghĩ như thế nên hạ cánh tay xuống. Phía bên ngoài cổng, Nguyễn Hoàng Vi
đang la hét, vùng vẫy giữa hàng chục tên mật vụ khác đã đứng chầu sẵn từ trước
để bắt cô.
Đấy là một trong những sự việc “nho nhỏ” xảy ra hồi
tháng 4 năm 2013. Khi mà hàng chục “chiến sĩ công an” mặc thường phục đã được
huy động canh gác ngày đêm trước tư gia nhà tôi với nhiệm vụ chắc hẳn họ đã rất
tự hào: không cho tôi bước ra khỏi cổng đồng thời ngăn cản và bắt giữ bất cứ
ai tới thăm hỏi tôi trong những ngày đó. Và hắn, chỉ là một trong nhóm
những tên chịu trách nhiệm ngăn cản không cho tôi bước ra khỏi cổng, nơi các đồng
đội khác của hắn đang vây bắt và lôi bạn tôi đi thẩm vấn hàng giờ đồng hồ ở trụ
sở công an phường Đông Hải 1.
Không một điều khoản nào trong luật pháp của Nhà nước
CHXHCN Việt Nam cấm việc các công dân đi thăm hỏi hay gặp
gỡ nhau. Càng không có một quy định nào cho phép công an hay bất cứ cá nhân, tổ
chức nào ngăn cản quyền tự do đi lại của công dân. Khi bị tôi chất vấn, những kẻ
nhân danh đại diện cho luật pháp này hoặc chỉ biết im lặng, hoặc lớn tiếng chửi
bới, đe dọa. Và tất nhiên không chỉ có thế: bắt bớ và thẩm vấn là khâu cuối
cùng để hoàn tất chu trình trấn áp đối với những người bị coi là “chống chế độ
xã hội chủ nghĩa tươi đẹp”.
Từ tháng 4 đến nay, rất nhiều sự kiện đã xảy ra với
tôi: bị triệu tập, bị ngăn cản quyền đi lại (dù là ra khỏi cửa), bị bắt giữ giữa
đường, bị thẩm vấn, bị phạt tiền chỉ vì ra khỏi địa phương không xin phép chính
quyền, và bạn bè tới thăm bị ngăn cản, bắt giữ…
Sự việc mới nhất xảy ra với tôi là ngày 25 tháng 11 vừa
qua, điện thoại di động của tôi và của mẹ tôi đã đột ngột bị cắt, chỉ sau vài
giờ Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam được thành lập. Khi được hỏi, phía cung cấp
dịch vụ điện thoại đã không ngần ngại thừa nhận chính An Ninh (không nói rõ cơ
quan An ninh nào) ra lệnh cắt. Đối với chúng tôi, đó là những chuyện thường
xuyên phải đối mặt. Đến nỗi chúng tôi sẽ rất ngạc nhiên thậm chí hoang mang nếu
được yên thân trong một thời gian ngắn.
Trong khi ở các quốc gia tiến bộ, phụ nữ - một nửa của
thế giới – đang dần dần được cân bằng và bình đẳng về cơ hội với một nửa còn lại.
Thì tại Việt Nam , khi mà vấn đề “Nhân Quyền - Dân Chủ” trở
thành điều cấm kỵ thì giá trị của người phụ nữ càng bị coi rẻ. Nhất là những phụ
nữ không chấp nhận sống theo định hướng và sắp đặt của giới cầm quyền. Cuộc sống
của những phụ nữ này đồng nghĩa với vô số rủi ro và nguy hiểm. Rất nhiều người
chỉ vì hành động theo lương tâm và trách nhiệm của mình mà phải trả giá bằng những
năm tháng lao tù: Lê Thị Công Nhân, Bùi Thị Minh Hằng, Mai Thị Dung, Tạ Phong Tần,
Võ Thị Thu Thủy, Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Phương Uyên, Trần Thị Thúy, Hồ Thị
Bích Khương, Lê Thị Kim Thu, Lô Phương Thảo, Nguyễn Đặng Minh Mẫn, Phạm Thanh
Nghiên…và nhiều người khác nữa. Nhưng, dù là nạn nhân của hàng loạt những vi phạm
nhân quyền trầm trọng và kéo dài chúng tôi vẫn thấy mình còn may mắn hơn rất
nhiều những phụ nữ khác. Họ không có cơ hội lên tiếng hoặc không biết cách để kể
về câu chuyện của chính họ.
“Chúng ta nên làm gì khi Nhân quyền của chúng ta bị
xâm phạm?”.
Im lặng? Chấp
nhận? Quy hàng? Tự vẫn?
Không.
Đó không nên là sự lựa chọn của bất cứ ai. Dẫu biết rằng nếu chúng ta đối mặt
có nghĩa chúng ta sẽ đứng trước những thách thức đầy hiểm nguy và khốn khó.
Nhưng chúng ta sẽ mạnh mẽ hơn nếu chúng ta ngồi lại với nhau. Câu chuyện của mỗi
người sẽ được nhiều hơn những sự lắng nghe và chia sẻ. Chính quyền có thể coi sự
ngồi lại với nhau ấy như một hành động xấc xược và thách thức nhưng không thể
vì thế mà chúng ta không dám thể hiện niềm tự hào và tình yêu thương của chúng
ta. Đối mặt bây giờ để đảm bảo một tương lai tốt đẹp sau này là một sự lựa chọn
cần thiết.
Cắt điện thoại, sách nhiễu, đe dọa, trù dập, đánh đập,
bắt bớ, tù đày…có thể là những thứ mà bất cứ ai trong số chúng ta muốn có Nhân
Quyền sẽ phải đối mặt. Đừng để những thứ đó ngăn cản tình yêu, niềm tự hào và
khát vọng của chúng ta, những Phụ nữ Nhân quyền.
Phạm Thanh Nghiên
*** Uất ức - biển
ta ơi ! ***
Ghi chép của Phạm Thanh Nghiên
“…Lẽ
ra, vụ việc này đã phải trở thành một sự kiện nghiêm trọng trong quan hệ quốc tế,
cần phải làm sáng tỏ. Nhưng do chính quyền bưng bít thông tin, nên đã hơn ba
năm trôi qua, hầu hết người dân vẫn không hay biết…”
Khởi hành lúc 8 giờ từ Hà Nội, đúng 12 giờ trưa, hai
chúng tôi mới đến được Thanh Hoá. Cho đến hôm nay, tôi cũng khó lý giải tại sao
một người vốn mắc bệnh “say xe” như tôi lại có thể ngồi lì trên ô-tô hơn 4 giờ
đồng hồ như vậy. Phải rồi, đây không phải là một chuyến đi du lịch, một chuyến
viếng thăm ai đó thông thường. Mà tôi đi tìm gặp người thân các nạn nhân bị sát
hại trong chuyến ra khơi định mệnh ba năm về trước với ước muốn được chia sẻ…
Tháng 1 năm 2005, mười sáu con người cùng đi đánh cá
trên một chiếc thuyền, tám người vĩnh viễn ra đi, tám người còn lại trở về với
nỗi kinh hoàng tột độ. Thủ phạm gây ra tội ác, không ai khác là bọn Tàu tặc - kẻ
mà chính quyền Việt Nam luôn luôn ca ngợi là người đồng chí tốt, người
làng giềng tốt của nhân dân Việt Nam . Một chuyến đi đặc
biệt và ý nghĩa như vậy có lẽ đã nâng đỡ tôi, xua đi nỗi mệt nhọc thường xuyên
mà tôi hay bị khi thực hiện những chuyến đi xa.
Việc tìm kiếm không mấy dễ dàng. Chúng tôi chỉ được biết
họ thuộc hai xã Hoằng Trường và Hoà Lộc. Sau khi ăn trưa tại một quán ven đường,
con trai người chủ quán chở chúng tôi bằng xe tắc-xi đến xã Hoằng Trường với chặng
đường ngót ba mươi cây số. Số tiền phải trả cho chuyến tắc-xi gấp gần ba lần số
tiền đi từ Hà Nội về Thanh Hoá. Đến Hoằng Trường, hai người chúng tôi bắt đầu
cuộc hành trình bằng đôi chân trên con đường đất ghồ ghề gần 10km, tìm tới nhà
của các ngư phủ bị nạn.
Càng đi sâu vào làng, cái nghèo của làng chài càng hiện
rõ. Khác hẳn những hình dung trước kia của tôi về một phiên chợ tấp nập của miền
quê biển. Ở đây, chợ chiều vắng ngắt, vài quán lá lụp xụp, hàng hoá nghèo nàn…
Khi chính quyền Trung Quốc liên tục lấn chiếm lãnh thổ
Việt Nam, giết hại ngư dân lương thiện của chúng ta đang đánh cá trong vịnh Bắc
Bộ, hàng trăm thanh niên, sinh viên, văn nghệ sĩ trí thức trong nước đã biểu
tình chống lại tội ác của chính quyền Trung Quốc, đồng thời ở bất cứ đâu trên
thế giới này có người Việt Nam sinh sồng đều có những cuộc biểu tình phản đối
Trung Quốc, thì ở Việt Nam mọi thông tin đều bị Nhà Nước giữ kín. Vì thế chúng
tôi thấy cần phải tìm ra những điều khuất lấp để cung cấp cho độc giả những sự
thực mà báo chí trong nước cố tình bưng bít, bị cho là “nhạy cảm”. Cho tôi nói
lời xin lỗi gia đình các nạn nhân, nếu sau khi gặp gỡ chúng tôi và kể ra sự thật
mà bị chính quyền gây rắc rối. Tôi xin cảm ơn những người đã giúp đỡ chúng tôi
trong thời gian chúng tôi tìm hiểu và muốn làm sáng tỏ sự kiện đau xót này. Thật
ra, những việc làm này hết sức bình thường ở những đất nước có tự do thông tin,
nhưng lại là điều cấm kỵ trong một thể chế thiếu tự do, dân chủ và đang nấp
trong ống tay áo hung thủ.
Đầu tiên, chúng tôi dự định tìm gặp ông trưởng thôn,
nhờ ông đưa đến nhà các nạn nhân. Nhưng nghĩ lại, trưởng thôn chẳng qua cũng là
“cánh tay nối dài của đảng”, ít có xác suất được giúp đỡ, mà biết đâu lại bị
gây khó dễ! Cuốc bộ chừng vài cây số, chúng tôi ghé vào quán của một bà lão bán
quà vặt. Quán là mấy tấm liếp dựng tạm. Bàn là một tấm gỗ kê bằng gạch, bày bán
đủ thứ lặt vặt: trái cây, bánh kẹo. Bà lão chủ quán tên là Thao, có mái tóc trắng
như cước. Thấy chúng tôi loay hoay tìm ghế ngồi, bà lão ân cần: “Cô cậu kê tạm
mấy viên gạch, lót giấy báo này mà ngồi!”. Biết chúng tôi ở xa đến, tìm gặp người
nhà các nạn nhân bị tàu chiến Trung Quốc bắn chết, bị thương ba năm trước, mấy
người phụ nữ ngồi gần đấy xúm đến. Họ kể về nỗi khổ của các nạn nhân, họ kể khổ
cho chính cả họ. Bà Thao đứng lên, một lát sau bà trở lại với một cậu thanh
niên còn rất trẻ: “Đây là cháu anh Lê Văn Xuyên, ngư dân bị tàu Trung Quốc bắn
chết. Cậu này sẽ đưa hai cháu đi.”. Như là trách nhiệm của mình, bà còn ghi vào
cuốn sổ tay của tôi “danh sách” những người bị nạn trên biển. Tự nhiên tôi ước
ao, giá như ở cái làng chài này có những cán bộ biết thương xót cho đồng loại
như bà Thao, chắc hẳn nỗi đau của gia đình các nạn nhân được vơi đi chút ít.
Chúng tôi đến nhà anh Lê Văn Xuyên gần 5 giờ chiều.
Ngôi nhà tuềnh toàng như bao gia đình nông thôn Việt nam khác. Trùm lên căn nhà
là không khí lạnh lẽo. Tôi thường sờ sợ khi bước chân vào gia đình có người chết
trẻ. Lần này thì khác. Tôi không thấy sợ mà thay vào đó là nỗi đau xót, như họ
là người thân của mình vậy. Chị Thanh, vợ anh Xuyên đưa tôi sang nhà thân nhân
Nguyễn Văn Tòng. Rồi lần lượt các chị tiếp chân đưa chúng tôi đến từng gia đình
một. Họ có chung một cảnh nghèo; một nỗi đau, Và chung một nỗi uất ức.
Chuyện ba năm trước:
“Thuyền ra biển được hai ngày thì gặp tầu chiến Trung
Quốc. Họ rượt đuổi chúng tôi. Chúng tôi không hiểu tại sao họ rượt đuổi. Đây là
ngư trường chúng tôi vẫn hành nghề từ bao năm nay. Trước đó, họ không bắn pháo
hiệu hay có bất cứ tín hiệu gì cảnh cáo trước, càng không có bất cứ biểu hiện
gì để chúng tôi tin là họ sẽ tấn công chúng tôi cả.”. Anh Nguyễn Văn
Dũng, một trong tám người sống sót kể lại.
“Hôm đó là sáng ngày 8 tháng 1 năm 2005…”. Trương Đình
Thái, kể lại với một tâm trạng vẫn còn kinh hãi: Chúng bắn vào các đồng nghiệp
của em, sau đó xả hơi cay vào các nạn nhân. Tám người chết, còn em và chủ tầu bị
thương. Khi tôi gặng hỏi để biết chi tiết hơn, Tháí không thể nói gì thêm: Hồi
em được chúng thả về, Thi thoảng em la hét, ai hỏi em cũng nói không biết gì.
Những tràng súng bắn quá gần và xác đồng nghiệp đổ vật xuống bong thuyền khiến
em bị chết lâm sàng. Vết thương của em nặng, gia đình phải vay mượn tiền để
mang em ra Hà Nội mổ lại. Bây giờ vẫn đau. Thật không dễ quên đi quá khứ kinh
hoàng, không phải ai cũng đủ can đảm để kể lại. Còn đang bối rối thì đột nhiên
Thái bất ngờ nói với tôi: “Chị ơi, họ làm sống em chị ạ”. Phút chốc tôi
rùng mình. Nhìn gương mặt của Thái, tôi linh cảm cụm từ “làm sống” là thế
nào.
Sau khi thực hiện tội ác, chúng trói những người còn sống
lại và cho tám xác chết vào tám túi ni – lông. Anh Dũng kể thay cho
Thái: “Lúc tàu Trung Quốc đuổi thì tôi cũng biết, nhưng đang ở dưới khoang thuyền.
Khi tôi lên, cảnh tượng thật hãi hùng, người chết, người bị thương, người bị
còng tay. Tôi là người cuối cùng bị còng”. Anh Dũng còn cho biết
thêm: lên thuyền của các anh có bảy tên lính hải quân Trung Quốc cao lớn, tên
nào tay cũng lăm lăm một khẩu súng. Buổi chiều, chúng đưa các anh về đảo Hải Nam ,
cho mỗi người một tô mì, sau đó nhốt mỗi người vào một buồng riêng biệt. Hai ngừơi
bị thương thì chúng “làm sống”, tức là xử lý vết thương không dùng thuốc gây
tê. Sau một vài phút để trấn tĩnh trở lại, Thái nói: “Chúng dùng dao khoét vào
đùi em, lấy viên đạn ra; em bị bắn 2 phát, một phát vào đùi phải đau đớn vô cùng.
Khi chúng khoét xong, cho em tô mì. Sáng hôm sau chúng lôi em đi lấy cung”.
Khoảng hai, ba hôm sau khi thuyền ngư dân Thanh Hoá bị
tàu chiến Trung Quốc tấn công thì người của Bộ ngoại giao Việt Nam
sang. Họ có hai người, không có nhà báo đi theo để đưa tin. Họ xin chính quyền Trung
Quốc gặp các ngư dân Việt Nam đang bị giam giữ và khuyên:
“Các anh cố gắng ở lại cải tạo cho tốt, đừng cãi lời người ta. Chúng tôi sẽ cố
gắng đưa các anh về trước tết”. Những ngư dân này không hiểu họ phạm tội gì, tại
sao lại “ cố gắng cải tạo cho tốt” ?
Chúng tôi gặng hỏi các nhân chứng xem phía Trung Quốc
đã tra hỏi những gì, nhưng các anh nói không thể nhớ hết được. Sự việc đã trôi
đi ba năm, đọng lại những gì bây giờ chỉ là nỗi sợ hãi. Họ chỉ nhớ những buổi
đi cung bị bức bách, căng thẳng. Một, hai ngày đầu chúng đưa ngư phủ ta đi cung
một đến hai lần, mỗi lần chừng một tiếng. Nhưng hai, ba ngày sau (khi có người
của Bộ ngoại giao Việt Nam ), chúng gọi họ đi cung nhiều hơn.
Mỗi ngày hai đến ba lần, mỗi lần hai, ba tiếng. Có một người dịch sang tiếng Việt.
Khi kết thúc buổi cung các ngư phủ chúng ta đều phải ký vào một biên bản bằng
chữ Tàu mà không ai biết nội dung là gì..Anh Dũng nói: “ Chúng tôi
không thể không ký vì chúng đã ép cung, tôi chậm ký bị chúng đánh liền”.
Cho đến bây giờ không ai trong số còn sống được biết:
tại sao thuyền đánh cá của họ bị tàu chiến Trung Quốc tấn công. “ Chúng tôi đơn
thuần chỉ đi đánh cá trên vùng biển quê hương mình! Từ khi đảng và nhà nước cho
vay vốn để đóng thuyền lớn, khuyến khích đánh cá xa bờ, chúng tôi đã khai thác
ngư trường này từ chục năm trước, bây giờ cũng vậy. Những tranh chấp vùng nào
đó trên biển Đông giữa hai nhà nước chúng tôi đâu được thông báo!”
Sau ba mươi mốt ngày, những người còn sống được về Việt
Nam , tám người khác phải trở về trong tám bình tro.
Nỗi đau của những người thân
Khi chúng tôi đến nhà anh Nguyễn Hữu Biên, một thanh
niên mới đi biển lần đầu đã bị tàu chiến Trung Quốc bắn chết, đau đớn và căm phẫn
vẫn hằn rõ trên gương mặt bà nội và mẹ của Biên. Bà Lê Thị Tăm đem tấm hình của
con trai ra cho chúng tôi xem. Biên còn trẻ quá, mới hai mươi tuổi. Cái hồn oan
này đang lẩn quất ở đâu? Là oan hồn thứ bao nhiêu của dân tộc nối tiếp những
oan hồn “lên rừng tìm ngà voi xuống biển mò ngọc trai”, mà sử sách Việt Nam đã
ghi từ nghìn năm trước? Bà nội của Biên đã ngoài tám mươi, run rẩy lê từng bước
tiễn chúng tôi ra cửa: “Trung Quốc có bao giờ thôi nghĩ đến chuyện xâm lược nước
ta đâu, có bao giờ ngừng giết người Việt Nam ta đâu”. Ôi!
Một cụ già nhà quê ngoài tám mươi tuổi còn nhận biết ra được cái sự thật này,
các vị lãnh đạo đảng và Nhà Nước chẳng lẽ lại không biết ư? Phúc hay là họa cho
dân tộc chúng ta đây?
Giấy báo tử ngày 4 tháng 2 năm 2005 báo về cho gia
đình có xác nhận ngày chết cuả các nạn nhân là 8 tháng giêng năm 2005 (tức là gần
một tháng sau mới cớ giấy báo tử về nhà). Giấy báo tử được ký tên và đóng dấu bởi
bà Lãnh sự Bùi Thị Tuyết Minh. Tuy nhiên, trong phần nguyên nhân chết thì để trống,
trong khi sự thực các anh bị tàu Trung Quốc tấn công, bắn giết. Điều này đã được
xác định, và chính quyền xã khi đến báo tin cho các gia đình cũng khẳng định.
Lẽ ra, vụ việc này đã phải trở thành một sự kiện
nghiêm trọng trong quan hệ quốc tế, cần phải làm sáng tỏ. Nhưng do chính quyền
bưng bít thông tin, nên đã hơn ba năm trôi qua, hầu hết người dân vẫn không hay
biết.
Chúng tôi đến nhà anh Lê Xuân Trọng. Vợ anh đã qua đời
trong một cơn bạo bệnh khi sinh bé Lê Thị Thuỳ Trang được tám tháng tuổi. Bé
Trang được mười ba tháng tuổi thì anh Trọng bị cướp mất mạng sống. Nghe nhắc đến
bố mẹ, bé Trang oà khóc. Tôi ôm nó vào lòng, nước mắt trào theo. Có thể, ngoài
cảm nhận sự côi cút vô lý này, bé không thể hiểu điều gì vượt quá tầm của một đứa
trẻ mới hơn bốn tuổi. Nỗi đau dồn hết vào lòng ông bà nội.
Sau khi anh Trọng bị bắn chết, ông bà nội cháu đề nghị
chính quyền cho bé Trang được hưởng trợ cấp hàng tháng. Bắt đầu từ năm 2006, bé
được hưởng trợ cấp hai trăm ngàn đồng mỗi tháng, (năm 2005 không được gì vì còn
phải làm thủ tục). Cuối năm vừa rồi, ông trưởng thôn nói với ông bà Kính rằng,
cần đề nghị “lên trên” để tăng tiền trợ cấp cho bé. Chưa kịp mừng thì đã...
chưng hửng, số tiền bé Trang nhận được tháng đầu tiên năm 2008 đã bị cắt giảm
xuống còn một trăm hai mươi ngàn đồng. Bà Kính than vãn: “Không hiếu sao lại thế.
Đấy, chúng tôi vừa nhận một trăm hai mươi ngàn đó cô.” Ông Kính chua chát:
“Không đủ tiền ăn sáng cho cháu cô chú ạ”. Ông bà mời chúng tôi ở lại dùng bữa
tối và nghỉ qua đêm. Chúng tôi cảm ơn và từ chối vì đã nhận lời bà Thao. Ông
Kính hẹn sáng hôm sau sẽ đưa chúng tôi sang Hoà Lộc, gặp những người còn lại.
Quả thật, nếu không có cháu Tùng con anh Tòng dẫn đường, chúng tôi không biết
xoay sở ra sao. Đồi núi, trời tối, đường vắng và thưa người qua lại. Chúng tôi
lãnh nhận sự nguy hiểm đang đe doạ hai thanh niên trẻ muốn biết sự thật và mong
có cơ hội nói lên sự thật ở một môi trường thông tin vì sự thật.
Sáng hôm sau, chúng tôi trở lại nhà ông Kính. Ông có
chuyến đi biển gấp nên không thể thực hiện lời hẹn. Từ Hoằng Trường đến Hoà Lộc
không có đường bộ, phải đi bằng đò. Ông đưa chúng tôi đến bến sông. Chủ đò nấn
ná, chờ thêm khách cho đủ chuyến. Ông Kính thì thầm với chủ đò, chúng tôi được
sang sông. Đây là bãi sông Hoằng Trường (còn có tên gọi khác là Lạch Trường).
Sang đến Hoà Lộc, hai chúng tôi lại tiếp tục cuốc bộ
theo một hướng đạo già. Ông tên là Nguyễn Văn Nhiễm, ngoài sáu mươi tuổi, dáng
người nhỏ nhắn và nhan h nhẹn. Ông là cán bộ Chi hội Nông dân thôn
Hoà Phú, cũng là một đảng viên. Dám đấu tranh chống tiêu cực nên cũng bị...
ghét. Trên đường đi, Ông nói: “các cháu làm thế là rất đúng. Tặng quà, giúp đỡ
cho ai thì cứ trao tận tay họ. Đừng có qua chính quyền xã hay thôn làm gì,
nhiêu khê, rườm rà. Mà có khi người dân chẳng nhận được gì”.
Trong số những gia đình chúng tôi đã gặp, hoàn cảnh của
gia đình tử nạn Trần Nghiệp Hùng là quá éo le. Năm 2003, vợ anh chết đuối ngoài
biển (phụ nữ cũng phải đi đánh cá). Năm 2005, anh Hùng bị hải quân Trung Quốc bắn
chết. Một năm sau khi anh mất, hai đứa con anh là Trần Nghiệp Mạnh và Trần Thị
Thúy đều phải vào trại trẻ mồ côi. Chị Quân (chị ruột nạn nhân Trần Nghiệp
Hùng) buồn rầu tâm sự: “Chẳng ai muốn cháu mình phải vào trại trẻ mồ côi, nhưng
vì khó khăn quá, ai cũng nghèo. Chồng tôi chết gần năm nay. Cô em gái tôi cũng
phận goá bụa. Chú ấy cũng chết do tai nạn khi đi biển, bà cụ nhà tôi năm nay đã
tám mươi hai tuổi, nay cụ ở với người con này, mai lại ở với người con khác. Bà
cụ cũng tội, con trai, con dâu, con rể cứ bỏ cụ mà đi”.
Thỉnh thoảng, trên các phương tiện thông tin cũng phản
ánh những tiêu cực trong việc cứu trợ người dân bị nạn: chuyện ăn chặn hàng cứu
trợ, chuyện cứu đói bằng gạo mục...Tôi còn nhớ trong một bản tin thời sự tối của
đài truyền hình Việt Nam có đưa một tin cười ra nước mắt: người ta cứu đói cho
dân bằng... kem đánh răng và xà phòng thay vì một thứ gì ăn được. Các đoàn thể,
cá nhân có hảo tâm đã không còn tin vào chính quyền. Họ không muốn lòng tốt của
mình trở thành miếng mồi béo bở cho các ông quan to quan nhỏ. Vì thế, thay vì
qua chính quyền, họ tự tay mang quà cho đồng bào. Như vòi bạch tuộc, rất dài, rất
dai và rất giỏi, cánh tay ăn chặn vẫn vươn tới được. Câu chuyện ông Nhiểm, chị
Quân kể sau đây là một bằng chứng.
Đoàn từ thiện chùa Giác Minh, Tân Vạn – Biên Hoà lặn lội
ra tận Thanh Hoá cứu trợ cho người dân sau trận bão lũ năm 2006. (Tiếc rằng ông
Nhiễm không nhớ Pháp danh của vị Thượng Tọa nào). Các nhà sư đã tận tay trao số
tiền cho đồng bào, mỗi suất hai trăm ngàn đồng. Nhiều gia đình trong xã đã được
chùa Giác Minh cứu trợ. Con dâu ông, trên đường về nhà đã bị người của chính
quyền xã chặn lại, số tiền bị cướp trắng. Chị giải thích rằng đây là tiền của
các nhà sư cho chị, không phải tiền “chính sách” hay của chính quyền. Nói thế
nào cũng không được. Đau nhất là ông Nhiễm. Các nhà sư tin tưởng, nhờ ông chuyển
giúp phần quà cho một số gia đình khác. Ngay tối hôm đó, chính quyền xã cử người
đến cướp toàn bộ số tiền với lý do “gom vào một mối để phát cho dễ, cho công bằng”.
Ông không thể không đưa vì họ nhân danh chính quyền. Nhiều người khác cũng bị
tương tự. Không ai được trả lại xu nào dù đó là tiền cứu trợ nhân đạo. Chưa hết,
hơn hai tháng sau, ông Nhiểm nhận được một lá thư, ngoài bì thư ghi tên người gửi
là Đoàn từ thiện chùa Giác Minh, Tân Vạn – Biên Hoà. Trong đó có một tấm vé số
trúng giải, trị giá giải thưởng là hai mươi nhăm triệu đồng (một số tiền rất lớn),
và ghi rõ là tặng riêng cho ông. Ông Nhiễm sung sướng mang tấm vé số đi lĩnh giải.
Người ta trả lời ông: “đã quá thời hạn lĩnh giải” và còn trách ông “sao bây giờ
bác mới đến lĩnh”?. Ông Nhiễm khẳng định với chúng tôi: “Tôi tin ai đó đã bóc
thư ra xem và cố tình giữ lại, không đưa ngay cho tôi”. Không biết cảm giác của
ông lúc trở về nhà, trên tay cầm tấm vé số trúng giải vô giá trị như thế nào?
Ai được hưởng toàn bộ số tiền cướp được của ông Nhiễm và những người dân khốn
khổ cần phải được cứu sống? Đoàn từ thiện chùa Giác Minh có biết việc này?
Qua các nhân vật được tiếp xúc, chúng tôi biết người
nung nấu đưa vụ việc ra ánh sáng công luận chính là ông Kính. Ông là người biết
rõ chủ trương “hoà nhập, hoà đồng, vươn ra biển lớn” của chính phủ. Ông nói hoà
nhập vào thế giới văn minh không chỉ về kinh tế mà còn về nhiều vấn đề khác. Vụ
việc thuyền đánh cá của ngư dân Thanh Hoá bị tàu chiến Trung Quốc tấn công, ngư
phủ Thanh Hoá bị giết hại là vi phạm luật pháp quốc tế. Ông có dự định vận động
các nạn nhân còn sống sót và thân nhân các nạn nhân đã chết làm đơn tập thể gửi
đến đại sứ quán Trung Quốc, yêu cầu phải làm rõ và phải có trách nhiệm đối với
các nạn nhân. Ông hy vọng báo chí vào cuộc. Ra Hà Nội, ông tìm gặp đại diện báo
Tuổi Trẻ. Tiếp ông là một ký giả có cái tên rất gợi: Hoà Đồng. Phải rồi!
Đúng như ông nghĩ: muốn giải quyết vụ việc hãy hoà đồng với nhân loại về phương
diện truyền thông trước đã. Nhưng ông sững sờ khi ký giả Hoà Đồng khuyên ông dẹp
bỏ vụ việc, đào sâu chôn chặt vụ việc, theo đuổi chỉ bất lợi cho cá nhân ông và
không giải quyết được vấn đề gì! Thật buồn cho truyền thông Việt Nam !
Cho đến bây giờ, khi tiếp xúc với chúng tôi, ông Kính
vẫn nung nấu dự định cũ. Khi chúng tôi đề cập đến đề tài này thì nhận thấy những
nét lo sợ xuất hiện trên gương mặt của thân nhân các nạn nhân. Nhưng không phải
chỉ nạn nhân và thân nhân của những nạn nhân lo sợ mà những người không liên đới
cũng lo sợ. Họ đang nằm trong một hàng dô-mi-nô lo sợ. Người dân sợ chính quyền
cơ sở, chính quyền cơ sở sợ chính quyền trung ương, chính quyền trung ương sợ
chính quyền thiên triều bởi 8 chữ vàng: “ Láng giềng, hữu nghị…”
Lẽ ra, chúng tôi còn tiếp tục tìm gặp các nhân chứng,
các gia đình nạn nhân còn lại. Nhưng chuyến đi buộc phải kết thúc. Có tin báo
công an đang lùng sục chúng tôi. Trưa hôm đó, hai người chúng tôi bí mật rời khỏi
Thanh Hoá. Bao nhiêu nỗi uất ức, mệt mỏi dồn nén từ hôm trước được dịp bung ra.
Suốt chặng đường về, không ai nói với ai lời nào. Tôi biết người bạn đồng hành
cũng đang nghĩ về chuyến đi vừa qua như tôi. Chúng tôi sẽ không bao giờ quên 24
giờ vào một ngay đầu tháng 3 năm 2008 ở đây.
Có thể nào một ngày nào đó, trên vùng biển Việt Nam
sẽ vắng bóng những con thuyền đánh cá Việt Nam . Không chỉ
là nỗi lo cầm chắc thua lỗ vì giá xăng dầu phi mã, mà còn là nỗi lo cho chính mạng
sống của ngư phủ khi ra biển. Cùng thời gian với chúng tôi đi Thanh Hoá, báo An
ninh thế giới (một tờ báo chuyên xuyên tạc, bôi đen các nhà hoạt động dân
chủ, nhân quyền Việt Nam) đã phải thừa nhận sự thực là Trung Quốc xâm chiếm
lãnh hải Việt Nam. Bài báo cũng liệt kê các vụ hải quân Trung Quốc bắt cóc đòi
tiền chuộc, giết ngư phủ Việt Nam, và khẳng định các ngư phủ Việt Nam không hề
xâm phạm lãnh hải Trung Quốc. Nhưng để biện hộ cho bản chất nhu nhược của chính
quyền cộng sản VN, bài báo trích lời của một nhân viên an ninh cấp tỉnh: “Chúng
tôi đã cố làm hết sức mình để bảo vệ các ngư dân, nhưng vì biển cả mênh mông
quá, không có cách nào can thiệp, giúp đỡ được !”
Xót xa thay! Biển cả mênh mông, hay trách nhiệm đối với
sinh mệnh công dân bị coi nhẹ?
Chính quyền cộng sản
Trung Quốc đã
gây nợ xương máu với người Việt Nam !
Cùng với việc để mất Hoàng Sa, mất nhiều đảo ở Trường Sa, mất
hàng vạn cây số vuông ở biên giới phía Bắc, ở vịnh Bắc bộ, mất sinh mạng của
con dân trên biển, chính
quyền cộng sản Việt Nam nợ nhân dân Việt Nam lòng ái quốc !
Phạm Thanh Nghiên
Tháng 3 năm 2008
********************************************************
Bản Tin LHNQVN-TS ngày 28 tháng 2 năm 2010
Trích Ngàn
Năm Thăng Long (thơ NHBV)
Hà Nội không chỉ nhớ Thăng Long
Nhớ Sài Gòn Huế nhớ Hải Phòng
Nhớ Công Nhân Thanh Nghiên Thanh Thủy
Anh chị em bạn tù bất công
Bà Mẹ nói con tôi vô tội
Khi điểm mặt đảng xã hội đen
Uất ức biển ta ơi con viết
Quân sát nhân thái thú ngụy quyền (...)
----------------------------------------------------
Genève ngày 5 tháng 12 năm 2013
Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam
ở Thụy Sĩ
Ligue Vietnamienne des Droits de l’Homme
en Suisse
Vietnamese League for Human Rights in Switzerland
********************************************************
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment