On Saturday, 24 May 2014 8:27 PM,
"Trung Pham
02 Hung Ca Su Viet 2 Mot Lan Di - Asia Golden
3
BIỂN ĐÔNG VÀ TƯƠNG LAI VIỆT NAM
Hoàng Duy Hùng
Ngày 2/5/2014, Trung Quốc đem giàn khoan dầu khổng lồ Hải
Dương (Haiyang Shiyou) 981(xin viết tắt là HD981) vào trong vùng
đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Giàn khoan này là của công ty Dầu Khí Hải Dương
Trung Quốc, tiếng Anh là China National Offshore Oil Corporation, viết tắt là
CNOOC, có chi nhánh khắp nơi trên thế giới. Nhưng CNOOC lại chính là công ty
quốc doanh của Trung Cộng, nên việc làm này được hiểu đồng nghĩa chính là việc
làm của Nhà Nước Trung Cộng. Giàn Khoan HD981 được định vị cách xa bờ biển VN
120 lý, và phía nam của Đảo Tri Tồn 20 hải lý, và như vậy là đã ăn sâu vào vùng
đặc quyền kinh tế của Việt Nam 80 hải lý.
Việt Nam đã đưa tàu chấp pháp ra để ngăn chận Trung Quốc đặt giàn
khoan dầu trái phép. Phản ứng lại, ngày 13/5, Trung Quốc đã đưa nhiều tàu
quân sự, tàu hải cảnh, tàu hải giám, v.v. vào trong khu vực để bảo vệ giàn
khoan. Việt Nam cho tàu cảnh sát biển tiến vào gần giàn khoan thì đã bị tàu của
Trung Quốc to lớn hơn tấn công và dùng vòi rồng trấn áp xua đuổi tàu Việt Nam
ra xa.Việc làm đó của Trung Quốc đã gây chấn động dư luận thế giới.
Người Việt ở trong cũng như ngoài nước bộc lộ lòng yêu nước và sự
giận dữ của họ trước hành động này của Trung Quốc. Nhiều cuộc biểu tình và thắp
nến diễn ra ở trong lẫn ngoài nước. Ở trong nước, hàng chục ngàn công nhân ở
tỉnh Bình Dương đã đập phá đốt cháy các công ty có chữ Trung Quốc mà không phân
biệt công ty đó của Đài Loan hay của Trung Quốc. Những công ty của các quốc gia
khác như Nam Hàn phải lật đật có những bảng hiệu trước cửa công ty cho biết họ
không phải là công ty của Trung Quốc mà là công ty của những quốc gia khác là
bạn của Việt Nam. Rất tiếc có những vụ hôi của xảy ra làm mất đi sự thanh bạch
trong việc đấu tranh và hình ảnh của người Việt Nam. Biểu tình ở Hà Tĩnh chống
Trung Quốc, 1 người Trung Quốc làm cho công ty của Đài Loan bị thiệt mạng và
khoảng chục người bị thương. E sợ không kiểm soát được tình hình, Chủ Nhật ngày
18/5/2014, nhà nước đã ngăn cấm và đàn áp không cho cuộc biểu tình được lớn
mạnh.
I. Nguyên Do:
Khi căng thẳng của vụ Giàn Khoan HD981 diễn ra, Bà Hoa Xuân Oánh (Hua Chunying,
sinh năm 1970), phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, cho rằng đã đến
lúc CSVN hãy nhìn vào sự thật, hãy nhìn vào bức công hàm của cựu Thủ Tướng Phạm
Văn Đồng ngày 14/9/1958 công nhận bản đồ lãnh hải 12 hải lý của Trung Cộng được
công bố ngày 4/9/1958. Đây cũng là luận điệu của các cơ quan truyền thông Trung
Quốc. Theo họ, Trung Cộng đã giúp cho Đảng Cộng Sản Việt Nam nhân lực, tài lực,
và vũ khí để đánh Pháp cũng như để đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa, và đổi lại cho
sự giúp đỡ này, ĐCSVN đã đồng ý "bán" 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa cho Trung Cộng, và theo họ, nay thì ĐCSVN lật lọng.
Trung Cộng lúc nào cũng mang văn bản ngày 14/91/1958 để làm áp lực
trên Việt Nam. Dựa trên văn bản 14/9/1958 của TT Phạm Văn Đồng, năm 1974, Trung
Quốc đánh chiếm Hoàng Sa trước sự làm ngơ của Bắc Việt. Năm 1988, Trung Quốc
tấn chiếm một số đảo trong Quần Đảo Trường Sa. Bây giờ, họ dùng đây là lá bài
gậm nhấm chủ quyền biển đảo của Việt Nam cũng như hù dọa các lãnh đạo CSVN
không dám lên tiếng để phản đối cách mạnh mẽ. Thêm vào đó, có nhiều nguồn tin
cho biết cựu Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu và các lãnh đạo CSVN từ năm 1998, vì lý
do này hay lý do khác, đã bí mật ký kết một số hiệp ước với Trung Quốc mà những
hiệp ước này hoàn toàn bất lợi cho Việt Nam, nên đã làm cho Trung Cộng tăng
thêm niềm tin họ có chủ quyền trên vùng lãnh hải mà nay có giàn khoan HD981.
Nếu Việt Nam đưa Trung Quốc ra tòa án quốc tế thì Việt Nam có
nhiều khả năng pháp lý vô hiệu hóa bản văn của TT Phạm Văn Đồng cũng như các
văn bản mật của các lãnh đạo CSVN. Những khả năng đó như sau:
1. Mười hai (12) hải lý cách xa bờ không bao nhiêu, nhưng Trung
Cộng đã đánh lừa và vẽ bản đồ 12 hải lý là bản đồ Lưỡi Bò mà hiện nay ai cũng
biết. Văn bản này, ngay từ lúc đầu (ab initio) đã là đánh lừa thì tự nó là vô
giá trị, không có hiệu lực.
2. Thủ Tướng Phạm Văn Đồng viết thư cho "Đồng Chí Tổng
Lý" tức là giữa một đảng với một đảng hơn là giữa một nhà nước với
nhà nước, nên giá trị nếu có chỉ trong phạm vị giữa hai đảng.
3. Sau này có tin Hồ Chí Minh chính là Hồ Tập Chương, một người
gốc Hoa, nên lãnh đạo của người gốc Hoa mượn tay đàn em Phạm Văn Đồng công nhận
lãnh hải như trên có thể được gán ghép là một âm mưu chính trị không thông qua
toàn dân Việt Nam là không có giá trị;
4. Về sau, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng cho biết ông phải làm việc đó
vì hoàn cảnh của chiến tranh, trong luật gọi đó là "under duress" thì
văn bản trở thành vô giá trị.
5. Quan trọng nhất, vào lúc đó, Trường Sa và Hoàng Sa đang ở trong
sự kiểm soát của Việt Nam Cộng Hòa, một quốc gia có chủ quyền khác hẳn với Cộng
Hòa Dân Chủ Việt Nam tức Bắc Việt nên Bắc Việt không thể cho "cái" mà
Bắc Việt không có, nên việc công nhận này của Bắc Việt không có hiệu lực.
II. Tại sao Trung Cộng lại đưa Giàn Khoan HD 981 vào thời điểm
này? Năm 2011, Nội Các của
Tổng Thống Barack Obama tuyên bố xoay trục trọng tâm quân sự từ Trung Đông sang
Châu Á Thái Bình Dương. Đầu năm 2014, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ công khai cho biết
Hoa Kỳ đã chế tạo được nhiều vũ khí tối tân, nhất là tia hồng ngoại tím từ vệ
tinh ở trên không, nên việc duy trì quân số ở mức đông như trước không cần
thiết. Bởi vậy, việc xoay trục sang Châu Á Thái Bình Dương vẫn là cần thiết
nhưng quân số xoay trục thì ít hơn.
Kế hoạch xoay trục này của Hoa Kỳ bị đình hoãn khi nước Ukraine
gặp khủng hoảng chính trị vào tháng 3, 2014. Nga Sô đã sáp nhập Crimea, một hòn
đảo của Ukraine nằm ở phía nam trở thành một phần lãnh thổ của nước Nga. Bây
giờ một vài thành phố ở phía đông Ukraine như Donetsk và Luhansk cũng đang rục
rịch bước theo gót Crimea. Đối với Châu Âu và Hoa Kỳ, Ukraine quan trọng hơn
Biển Đông vì đây là thành viên NATO quan trọng để chận đứng sự bành trướng của
Nga, không cho Nga tái lập lại sức mạnh của Liên Sô cũ. Châu Âu và Hoa Kỳ làm
áp lực với Nga. Trung Quốc là 1 trong 5 thành viên thường trực của Hội Đồng Bảo
An Liên Hiệp Quốc, Châu Âu và Hoa Kỳ cần mua chuộc để có sự ủng hộ của Trung
Quốc chống lại Nga ở trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, nên Hoa Kỳ đã phải
nhẫn nhịn để cho Trung Quốc hung hãn lấn sân ở Biển Đông; do vậy, Trung Quốc
không phản đối Hoa Kỳ về vấn đề ở Ukraine và Hoa Kỳ chỉ phản ứng lấy lệ với
Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.
Sự nhẫn nhịn của Hoa Kỳ ở Biển Đông, nhất là ở Hoàng Sa, còn có
một nguyên do khác đó là những mật ước của Hoa Kỳ đã ký kết với Trung Cộng từ
năm 1972. Mật ước năm 1972 giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng thì Hoa Kỳ, để đổi lấy thị
trường hơn tỷ người ở Trung Quốc, đã bán đứng Việt Nam Cộng Hòa và Đài Loan.
Chính mật ước này đã khích lệ cho Trung Quốc năm 1974 đánh chiếm Hoàng Sa và có
nhiều nghi vấn Hoa Kỳ không những đồng thuận cho sự đánh chiếm này mà còn hỗ
trợ cho Trung Quốc như một món quà mở màn giao hảo giữa Trung Cộng và Hoa Kỳ trong
thời đại mới. Cũng vì sự đồng thuận và hỗ trợ này mà Hạm Đội 7 của Hoa Kỳ đã
làm ngơ không cứu những hải quân VNCH bị lâm nạn, dầu đó chỉ là cứu vớt có tính
cách nhân đạo. Nếu Hoa Kỳ phản ứng quá dữ dội vấn đề ở Hoàng Sa thì Hoa Kỳ mở
miệng mắc quai cho hành vi của Hoa Kỳ năm 1974!
Người ta còn nghi ngờ Hoa Kỳ và Trung Cộng đã có mật ước chia chác
xong Biển Đông rồi. Tháng 4 năm 2012, Trung Quốc đem hải quân vào vùng đảo
Scarborough (Scarborough Shoal, Trung Quốc gọi đó là Vùng Đảo Hoàng Yến –
HuangYan) do Phi Luật Tân chiếm đóng, Phi Luật Tân không chống trả nổi, cầu cứu
đến Mỹ. Bà Hilary Clinton, khi đó còn là Ngoại Trưởng của Hoa Kỳ, nói Phi Luật
Tân hãy rút quân đi, Hoa Kỳ sẽ giải quyết sau. Tin vào lời hứa này của bà
Hilary Clinton, Phi Luật Tân rút quân. Sau khi Trung Quốc tiến vào Đảo
Scarborough, Phi Luật Tân yêu cầu Mỹ giải quyết, bà Hilary Clinton trả lời:
“Biển Đông lớn rộng đủ để cho Trung Quốc có phần.” Nhiều bình luận gia cho rằng
lời tuyên bố này của bà Hilary Clinton là một bằng chứng Hoa Kỳ đã có hiệp ước
mật với Trung Quốc về Biển Đông. Chính sách của Hoa Kỳ là một Trung Quốc mạnh
để áng chận Nga Sô hơn là một Trung Quốc bắt tay chung với Nga Sô như thời
Chiến Tranh Lạnh nên Hoa Kỳ sẵn sàng hy sinh một số phần ở Biển Đông để cho
Trung Quốc được mát ruột!
Mặt khác, các chính khách của Hoa Kỳ gặp vất vả với sự phản đối
mạnh mẽ của người Việt tại Hoa Kỳ không muốn cho Hoa Kỳ hợp tác chặt chẽ với
Việt Nam bao lâu Việt Nam vẫn có những vi phạm nhân quyền. Quyền lợi và lá
phiếu của các vị dân cử ở nơi cử tri Mỹ gốc Việt (dầu lá phiếu này không phải
là phiếu quyết định), đã phải đặt các vị dân cử Hoa Kỳ làm áp lực mạnh mẽ trên
Việt Nam trong vấn đề nhân quyền. Vì quyền lợi lá phiếu của cá nhân, nhiều khi
các chính khách sẵn sàng hy sinh những điều khác như chúng ta thấy trong vụ
khủng bố giết Đại Sứ của Hoa Kỳ ở Benghazi ngày 11/9/2012 mà vì lúc đó đang
trong mùa tranh cử TT Barack Obama và Ngoại Trưởng Hilary Clinton vẫn làm ngơ
và tuyên bố đây là vụ nổi dậy bốc đồng của quần chúng để phủi tay trước cái
chết của Đại Sứ J. Christopher Stevens.
Chính vì lý do e ngại mất phiếu cử tri
Mỹ gốc Việt nên nhiều vị dân cử như DB Liên Bang Roh Rabacher cho rằng
"Việt Nam chưa hẳn là bạn của Mỹ." Bao lâu VN còn là chế độ độc đảng
thì bấy lâu Việt Nam "chưa hẳn là bạn của Mỹ." Chưa hẳn là bạn của Mỹ
nên cuối tháng 4, 2014, trong chuyến công du châu Á, Tổng Thống Barack Obama
đến Nhật Bản, Nam Hàn, Phi Luật Tân, và Mã Lai nhưng lại phớt lờ Việt Nam cho
dầu trước đó Việt Nam đã có lời mời cách rất khẩn khoản. Từ lúc nhậm chức đến
nay, Tổng Thống Barack Obama đã công du Châu Á 4 lần, lần nào cũng được Việt
Nam khẩn khoản mời thăm Việt Nam, nhưng TT Barack Obama không đến Việt Nam cho
thấy có những lấn cấn ở đàng trong.
Thái độ thờ ơ của Tổng Thống Barack Obama đối với Việt Nam khi
công du 4 quốc gia châu Á vào cuối tháng 4, 2014 mà phớt lờ Việt Nam đã gởi ra
một tín hiệu cho thấy Hoa Kỳ không đặt trọng tâm vấn đề ở Hoàng Sa nên chính vì
vậy Trung Quốc nhân cơ hội Hoa Kỳ muốn lấy lòng họ trong vụ Ukraine, đã nhanh
chóng đem giàn khoan HD981 vào bám trụ trong lãnh hải của VN. Một giàn khoan to
lớn như vậy, tốn cả tỷ Mỹ Kim, không thể đem vào để bám trụ trong một ngày hai
bữa, mà đã phải có sự chuẩn bị từ lâu, và trong bối cảnh MH370 bị mất tích vào
tháng 3, 2014, vệ tinh của Hoa Kỳ đã rà soát trên toàn thế giới khám phá dễ
dàng những vật thể chỉ khoảng vài mét thì lẽ dĩ nhiên đã dễ dàng nhìn ra sự di
chuyển "khổng lồ" của bao nhiêu tàu bè Trung Cộng cho việc lắp đặt
giàn khoan này rồi. Đây cũng là bối cảnh mà TT Barack Obama công du Châu Á, có
lẽ TT Barack Obama đã biết Trung Quốc đem giàn khoan vào khu vực Hoàng Sa nên
ông đã né tránh không thăm Việt Nam ngõ hầu không phải khó xử với Trung Quốc.
Vụ giàn khoan HD981 đưa vào lãnh hải Việt Nam tỏ lộ sự yếu kém của
tình báo Việt Nam. Đáng lẽ tình báo của Việt Nam đã phải khám phá ra chuyện này
ngay từ khi Trung Quốc có kế hoạch và di chuyển giàn khoan để rồi lên kế hoạch
phản đối vì "phòng bệnh hơn chữa bệnh." Có thể tình báo Việt Nam đã
biết nhưng lại không đủ can đảm lên tiếng. Đây mới chính là "an ninh quốc
gia" mà tình báo Việt Nam cần dồn nỗ lực khai triển hơn là huy động nhân
sự trấn áp những tiếng nói đối lập ở trong nước. Cũng vì sự yếu kém này của
tình báo Việt Nam hoặc tình báo Việt Nam biết mà không lên tiếng thì có nhiều
nguồn dư luận cho biết Trung Quốc đã đặt rất nhiều giàn khoan ở quần đảo Hoàng
Sa cũng như đã đánh chìm tàu của Việt Nam nhưng Việt Nam lại sợ hãi không công
bố.
III. Phản Ứng của Lãnh Đạo CSVN: Đương nhiên lãnh đạo ĐCSVN không thể tin vào Hoa Kỳ hoặc mong
đợi Hoa Kỳ sẽ cứu giúp họ đánh trả Trung Cộng. Tấm gương Hoa Kỳ đối xử với Việt
Nam Cộng Hòa còn nóng hổi làm cho họ lúc nào cũng thận trọng.
Trong khi tình hình ngày càng căng thẳng và phức tạp, chúng ta
không thấy lãnh đạo CSVN có một lời lên tiếng chính thức nào cả. Tại Miến Điện,
Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng lên tiếng phản đối Trung Cộng nhưng đó cũng
không phải là sự phản đối chính thức. Thấy không kiềm soát được cao trào biểu
tình vào ngày 18/5/2014, TT Nguyễn Tấn Dũng ra lệnh trấn áp cao trào. Bộ Trưởng
Ngoại Giao Phạm Bình Minh nói rằng gọi điện thoại đường giây nóng với lãnh đạo
Trung Cộng để phản đối, nhưng điểm khó hiểu là hình ảnh cho thấy đường giây
điện thoại lại không cắm vào ổ thì làm sao điện đàm? Chủ Tịch Trương Tấn Sang tuyên
bố "biểu tình là một trong những quyền thiêng liêng của người dân"
cho thấy rõ trong Bộ Chính Trị có cảnh trống đánh xuôi kèn thổi ngược.
Có những
dư luận bất lợi cho Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng. Người ta đưa lên internet
hình ảnh TBT Nguyễn Phú Trọng tham dự buổi cắt băng giàn khoan của Trung Cộng
được hạ thủy đem xuống Việt Nam, không biết hư thực như thế nào nhưng thấy TBT
Nguyễn Phú Trọng thinh lặng hoàn toàn.
Hội Nghị Trung Ương 9, Khóa 11 của ĐCSVN
diễn ra trong lúc tình hình Giàn Khoan HD981 nóng bỏng, rất tiếc, hội nghị này
lại không có một lời chính thức nào phản bác hành vi ngang ngược xâm chiếm lãnh
hải của Trung Cộng; ngược lại, khai mạc hội nghị, TBT Nguyễn Phú Trọng vẫn
tuyên bố những giáo điều cứng ngắc và răn đe các đảng viên phải "giữ vững
kỷ cương của Đảng" làm cho người nghe có cảm tưởng Tổng Bí Thư Nguyễn Phú
Trọng buộc các đảng viên phải cùng thinh lặng với lãnh đạo không được lên tiếng
trước hành vi xâm chiếm lãnh hải của Trung Cộng!
Có người nhận định lãnh đạo CSVN không tin tưởng vào Hoa Kỳ và hải
quân của Việt Nam không đủ sức để đối phó với hải quân Trung Cộng nên lãnh đạo
CSVN thinh lặng một thời gian để tính kế của nước nhỏ đối phó với nước lớn. Đây
là chiều hướng mà lãnh đạo CSVN muốn cho quần chúng hiểu. Có những chuyên gia
quốc tế về Đông Nam Á như giáo sư Carl Thayer ở Úc và tiến sĩ Gregory Poling ở
Washington D.C khuyến cáo CSVN cần phải cẩn trọng không nên đem hải quân ra
ngăn chận HD981 vì như thế sẽ cho Trung Cộng lấy cớ đem hải quân xuống chiếm
toàn bộ Biển Đông.
Tuy nhiên, sự thinh lặng chỉ có giá trị trong thời gian ngắn và có
giá trị chiến thuật quân sự hơn là sự chỉ đạo chiến lược của toàn quốc gia.
Chính những chuyên gia quốc tế như ông Gregory Poling khen Việt Nam đã không
đưa hải quân ngăn chận giàn khoan HD981, nhưng sau khi khen thì ông lại nhấn
mạnh lãnh đạo Việt Nam cần phải làm rõ quan điểm chính trị: "Việt
Nam cần phải cho Trung Quốc biết là không chấp nhận các hành động khiêu khích
của Trung Quốc. Và Việt Nam cũng cần phát thông điệp rõ ràng rằng đây không
phải vùng biển thuộc chủ quyền của Trung Quốc." Vì thế, sự
thinh lặng của lãnh đạo CSVN dễ dàng tạo cho quần chúng có ánh nhìn đó là lãnh
đạo CSVN quá yếu và "hèn" với Trung Cộng hoặc đã bị Trung Cộng cài
sinh tử phù để phải cúc cung làm theo ý của Trung Cộng. Ở những quốc gia dân
chủ, hành động thinh lặng của lãnh đạo trước một biến cố nóng bỏng của toàn
quốc liên quan đến mất chủ quyền lãnh hải cho ngoại bang, chắc chắn đã bị quần
chúng biểu tình buộc phải từ chức.
IV. Phản Ứng của Quần Chúng, Lợi và Hại: Trong khi lãnh đạo CSVN thinh lặng cách
khó hiểu thì quần chúng sôi sùng sục, nhiều cuộc biểu tình và bạo động xảy ra.
Lấy lý do bạo động, hôi của, và e sợ không kiềm tỏa được cao trào biểu tình có
thể đưa đến nguy hiểm cho chể độ, nhà cầm quyền đã ra lệnh triệt hạ cuộc biểu
tình 18/5/2014 và sẽ tiếp tục triệt hạ các cuộc biểu tình trong tương lai.
Những cuộc biểu tình là rất chính đáng để bày tỏ lòng yêu nước nhưng cũng mang
đến những yếu kém và mặt trái của biểu tình.
Lợi: Biểu tình chống
Trung Quốc xâm chiếm lãnh hải của Việt Nam là sự bày tỏ lòng yêu nước, là sự
bất khuất không để kẻ thù đè bẹp chí khí của dân tộc. Lòng yêu nước cần được
nuôi dưỡng và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó chính là di sản làm nên
căn tính của một dân tộc. Chính lòng yêu nước quật cường này đã giúp dân Việt
đã không bị Trung Quốc đồng hóa trong khi đó nhiều dân tộc cũng như những tộc Việt
khác đã bị Trung Quốc đồng hóa. Những cuộc biểu tình như vậy gởi ra một tín
hiệu mạnh mẽ cho cả thế giới, nhất là cho Trung Quốc, biết rằng dân tộc Việt
không có hèn và không chấp nhận bất kỳ sự áp chế nào từ những kẻ ngoại xâm.
Biểu tình và cầu nguyện như ở Xã Đoài, Giáo Phận Vinh, có quy cũ, có tổ chức,
có lãnh đạo, có kiểm soát, không "hái non" thành quả thì làm cho
không những quốc tế nể trọng mà ngay chính nhà cầm quyền cũng không có lý do để
đàn áp. Hoan hô ĐGM Phaolô Nguyễn Thái Hợp và Giáo Phận Vinh vì đã biết bày tỏ
lòng yêu nước của mình trong sự kềm chế và bảo toàn chủ lực.
Hại: Biểu tình mà không
có lãnh đạo, không có tổ chức, thiếu sự kiểm soát, nôn nóng "hái non"
thành quả, thì dễ dàng tạo cho những kẻ xấu thừa gió bẻ măng gây thiệt
hại không lường cho công cuộc chung. Cũng chính vì sự thiếu kiểm soát này, cộng
thêm sự e ngại cao trào biểu tình có thể chuyển hướng để lật đổ nhà nước, nhà
cầm quyền đã lấy cớ đó ra lệnh đàn áp cao trào.
Vì thiếu kiểm soát nên đã có những cuộc bạo động đốt phá và hôi
của các công ty Đài Loan ở Bình Dương. "Formosa" là một danh xưng
trước kia của Đài Loan, và đã nói đến chữ "Formosa" thì ai cũng biết
xuất phát từ Đài Loan. Công ty Formosa chuyên chế biến bọc nhựa nổi tiếng không
những ở Việt Nam mà ngay ở Texas, Formosa coi như "trùm" cả một Thành
Phố Bay City, các thương gia và chính khác ai cũng biết đến. Biểu tình và bạo động
ở Hà Tĩnh phá hoại công ty Formosa và giết hại một công nhân Trung Quốc làm cho
Formosa. Việc làm này bào mòn chính nghĩa đấu tranh, làm cho những quốc gia như
Đài Loan đáng lẽ là bạn để ủng hộ Việt Nam thì họ lại quay mặt thờ ơ, rút vốn
đầu tư, kiện tụng đòi bồi thường. Những quốc gia như Hàn Quốc và Nhật Bản cũng
sợ bị vạ lây nên "đóng băng" đầu tư của họ để đợi khi mọi chuyện lắng
đọng lại. Chính vì thế thị trường tài chính của Việt Nam suy sụp trầm trọng,
nhiều người bị mất việc. Cuối cùng, người dân Việt Nam phải chịu hết tất cả sự
thiệt thòi này.
Ai là người có lợi nhất trong chuyện "thiếu kiểm soát
này"?
Kẻ có lợi nhất trong chuyện này chính là Trung Cộng. Điều đau lòng
đó là thay vì biểu tình gây thiệt hại cho Trung Cộng thì làm lợi cho Trung Cộng
nhiều hơn. Trung Cộng đầu tư ở Việt Nam rất ít so với Nhật Bản, Nam Hàn và Đài
Loan. Không thấy có một công ty Trung Quốc nào bị thiệt hại mà chỉ có những
công ty Đài Loan bị thiệt hại, tạo thù oán căng thẳng với Đài Loan, thì Trung
Quốc là ngư ông hưởng lợi, vỗ tay vui mừng vì như vậy họ dễ dàng kéo Đài Loan
về phía họ trong việc tranh chấp Biển Đông. Trung Quốc cũng lấy lý do công dân
của họ để đem quân dàn biên giới đe dọa Việt Nam. Cũng chính vì Trung Quốc có
lợi nhất trong chuyện này nên có nghi vấn chính Trung Quốc đứng đàng sau giật
dây bẻ lái cuộc biều tình theo chiều hướng họ muốn. Nghi vấn này cần có sự điều
tra kỹ lưỡng để làm sáng tỏ.
Một phe nhóm nào đó ở trong nhà nước Việt Nam được hưởng lợi trong
việc biểu tình thiếu kiểm soát này vì nhân cơ hội này họ lấy cớ trấn áp cuộc
biểu tình không cho lớn mạnh đủ để trở thành nguy cơ cho chế độ.
Có người cho rằng một vài nhóm chống lại nhà cầm quyền đã đứng
đàng sau giật dây bẻ lái gây xáo trộn ngõ hầu tạo thêm kẻ thù cho nhà cầm
quyền, gây xáo trộn bất ổn xã hội, từ đó mong rằng tạo cơ hội xoay chuyển giật
sập chế độ như Cách Mạng Hoa Lài đã từng xảy ra ở những quốc gia tại Trung
Đông. Bối cảnh, lịch sử, và con người Việt Nam khác với Trung Đông. Ngay ở
Trung Đông, gia đình Tổng Thống Basar Al-Assad ngoan cố bám trụ, Hoa Kỳ yểm trợ
lực lượng kháng chiến, thế mà cho tới ngày hôm nay Syria không thay đổi chính
trị mà ngược lại nhiều trăm ngàn người chết, hàng triệu bị thương, đất nước
tang hoang, người dân hứng chịu mọi sự khổ cực. Biểu tình như ở Miến Điện, tăng
đoàn Phật Giáo xuống đường, hàng triệu người dân tràn ra, thế mà cũng không làm
gì được quân phiệt Miến, cho đến khi bà Aung Sang Suu Kyi nghe lời góp ý của
Hoa Kỳ sẵn sàng đối thoại với nhà cầm quyền thì một Lộ Trình Dân Chủ mới được
vạch ra.
Tháng 2, 2014, hàng triệu người dân Campuchia xuống đường ủng hộ Sam
Ramsy, nhưng rồi họ cũng không làm gì được Thủ Tướng Hun Sen. Liệu những lực
lượng dân chủ của Việt Nam có đủ sức mạnh như các tổ chức kháng chiến ở Syria,
như tổ chức của bà Aung Sang Suu Kyi, và như tổ chức của ông Sam Ramsy ở
Campuchia? Hơn nữa, khi VN có xáo trộn, nhất là khi một trong những vị lãnh đạo
của CSVN cầu cứu Trung Quốc thì chẳng lẽ Trung Quốc làm ngơ? Tình cảnh Việt Nam
giống ở Ukraine diễn ra thì sao? Trái cây còn non mà hái sớm thì không những
không ăn được mà còn có thể có những thiệt hại khác.
V. Phản Ứng của Trung Cộng: Phản ứng của Trung Quốc là phản ứng của một nước lớn lúc
nào cũng mang sức mạnh quân sự của mình ra để răn đe Việt Nam. Trung Quốc đã
điều động một lực lượng quân sự hùng hậu tới biên giới Hoa Việt. Theo họ, kỳ
này nếu cuộc chiến xảy ra thì khác với năm 1979 vì kỹ thuật quân sự của Trung
Quốc đã tăng tiến tột bực có thể đè bẹp Việt Nam trong một thời gian ngắn. Điều
này, các chuyên viên quốc tế cho rằng chưa chắc vì lòng yêu nước của dân Việt
là một xúc tác mạnh mẽ để ngăn chận sự xâm lăng trên đường bộ và lịch sử Việt
Nam bao ngàn năm qua với Trung Quốc là một chứng minh hùng hồn. Nhưng, nếu có
hải chiến thi nhiều chuyên gia cho rằng Trung Quốc sẽ đè bẹp Việt Nam cách
nhanh chóng và dễ dàng.
Nhưng đánh trên biển, hiện nay hải quân Trung Quốc rất mạnh, chỉ
thua kém Hoa Kỳ và nếu Hạm Đội 7 của Mỹ không can thiệp thì chỉ trong vòng 1
tuần Trung Cộng dễ dàng kiểm soát cả Biển Đông. Những tàu ngầm và tiềm thủy
đỉnh của Việt Nam mua từ Nga (chưa bao giờ tác chiến) có một số tác dụng nhưng
không đủ sức đánh trả hải quân Trung Cộng, nhất là khi Trung Cộng đem cả Hàng
Không Mẫu Hạm Liêu Ninh xuống thì coi như hải quân Việt Nam bị đè bẹp.
Đương nhiên, trước khi diệu võ dương oai về sức mạnh quân sự,
Trung Quốc cũng tranh thủ nhân tâm bằng cách công bố công hàm 14/5/1958 của Thủ
Tướng Phạm Văn Đồng. Đối với người dân Trung Quốc, văn bản này đã đủ để họ tự
xoa dịu lương tâm họ không phải là người gây hấn mà lỗi là ở lãnh đạo CSVN. Họ
cho rằng họ có chính nghĩa chớ không phải Việt Nam. Vì thế, dân quân của Trung
Quốc rất xác tín Hoàng Sa (họ gọi là Tây Sa) và Trường Sa (họ gọi là Nam Sa) là
của họ. Đó là lý do tại sao Tướng Fang Fenghui, khi viếng thăm Hoa Kỳ vào
trung tuần tháng 5/2014, trả lời với báo chí quốc tế, đó là Trung Quốc sẽ dùng
hết khả năng để bảo vệ chủ quyền lãnh hải của họ ở Biển Đông, và theo ông,
chính Việt Nam là "người kiếm chuyện" trong khi Trung Quốc đang làm
phận vụ bình thường khai thác tài nguyên ở trong phạm vi chủ quyền của họ.
Đương nhiên, là người Việt Nam không ai đồng ý với lời tuyên bố này.
Chiến thuật của Trung Quốc là từ từ nuốt trửng Biển Đông rồi dùng
Biển Đông kềm chế lại Việt Nam. Trên đất liền thì Trung Quốc mua chuộc và khống
chế một số người lãnh đạo, thâu tóm khuynh loát nền kinh tế, và bỏ tiền ra thuê
mướn những phần đất có tính chiến lược để khai thác tài nguyên.
Trung Quốc sẽ không đánh Việt Nam bằng đường bộ, trừ những trường
hợp sau: 1. Biểu tình lớn diễn ra giết nhiều người gốc Trung Quốc, và nhân danh
bảo vệ công dân của họ, Trung Quốc đem quân vào; 2. Việt Nam bị xáo trộn lớn,
một lãnh đạo cao cấp của CSVN cầu cứu xin Trung Quốc làm chuyện này. Lúc đó,
Trung Quốc nói họ có chính nghĩa ra tay cứu giúp đàn em đang trong nguy khốn.
Trung Quốc cũng sẽ không đánh Việt Nam bằng đường biển, trừ trường hợp Việt Nam
đem hải quân vào trấn áp các giàn khoan dầu. Việt Nam không dám đem hải quân để
trấn áp các dàn khoan dầu thì Trung Quốc gia tăng đem các giàn khoan dầu vào trong
vùng biển để tự xác định chủ quyền bản đồ Lưỡi Bò của họ. Cứ nhẫn nhịn rụt rè
như bây giờ thì trong vòng 50 năm tới, Trung Quốc sẽ nuốt trọn Biển Đông.
Để tạo sức mạnh trên Biển Đông, để tạo cơ hội chiếm lấy tất cả
quần đảo Trường Sa, theo lời tố cáo của Phi Luật Tân, Trung Quốc chuẩn bị xây
một phi đạo trên bãi đá ngầm Gạc Ma mà Trung Quốc đã đánh chiếm của Việt Nam
vào năm 1988. Một khi Trung Quốc có phi đạo, các máy bay quân sự di chuyển dễ
dàng tại nơi đây, thì coi như Trung Quốc kiểm soát toàn thể quần đảo Trường Sa.
Ngày 14/5/2014, bà Vương Hoàng Oanh, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Cộng,
xác nhận Trung Quốc đang có công trình xây cất trên đảo Gạc Ma, nhưng bà lại
khẳng định đây là công trình dân sự. Không mấy ai tin được lời khẳng định này.
Đây chính là kế hoạch trong 50 năm tới của Trung Quốc là gậm nhấm và kiểm soát
toàn bộ Biển Đông theo như bản đồ Lưỡi Bò. Việt Nam hay Phi Luật Tân phản đối
thì phản đối, không có sức mạnh hải quân, không có sự can thiệp của hải quân
Hoa Kỳ thì Trung Quốc cứ lấn tới cho đến khi đạt được tham vọng của họ.
VI. Nên làm gì? Không đối đầu nổi với Trung Quốc bằng Lực thì Việt Nam phải đối
đầu với Trung Quốc bằng Thế:
1. Việt Nam chỉ có thể chống nổi Trung Quốc khi có sự đồng lòng
của người dân ở trong và ngoài nước, đặc biệt là sự hỗ trợ tích cực của Hoa Kỳ
và các quốc gia Tây Phương. Để có sự đồng lòng này, nhà cầm quyền Việt Nam cần
mở trói chính trị, công nhận tam quyền phân lập, công bố Lộ Trình Dân Chủ, chấp
nhận đa đảng. Đây là điểm quan trọng nhất, và nếu nhà cầm quyền không chấp
thuận thi hành điều kiện này thì hầu như những phương sách khác đều không có
hiệu quả hoặc nếu có thì rất ít oi.
2. Các tổ chức đấu tranh cần suy nghĩ kỹ khi phát động bất kỳ
chiến dịch nào, không nên nôn nóng "hái non" thành quả, và đặc biệt
không để cho Trung Quốc khai thác chiến dịch biến những khuyết điểm trở thành
lợi thế chính nghĩa cho họ.
3. Việt Nam cần nộp đơn kiện Trung Quốc ra Tòa Án Quốc Tế để vô
hiệu hóa bản văn 14/9/1958 của TT Phạm Văn Đồng hay những bản văn bí mật khác
của những lạnh đạo CSVN nếu có.
4. Công ty dầu khí Việt Nam kiện CNOOC ở tòa án quốc tế, nhất là
tòa án ở Hoa Kỳ, vì CNOOC có chi nhánh ở Hoa Kỳ.
5. Trong khi tiến hành những kế hoạch trên, Việt Nam cần cho các
tàu chấp pháp, không phải tàu hải quân, ngày đêm quấy phá không cho Trung Quốc
đóng chốt an toàn giàn khoan HD981, vì khi HD 981 đóng chốt an toàn xong, Việt
Nam không những mất 80 hải lý ở phía đông của giàn khoan, mà còn có thể mất
nhiều hải lý ở phía tây và phía nam, tạo thêm cơ hội cho Trung Quốc nay mai đưa
thêm những giàn khoan vào khu vực này.
Lời Kết: Quốc gia nào cũng
đặt quyền lợi của quốc gia họ lên trên hết như lời di chúc của Tổng Thống
George Washington đã để lại di ngôn cho dân Hoa Kỳ: "Chúng ta không có bạn
và chúng ta cũng không có thù. Ai làm lợi cho ta là bạn và ai làm hại ta là
thù". Vì quyền lợi của Hoa Kỳ là trên hết nên khi nhờ vả Hoa Kỳ, chúng ta
phải chứng minh sự đồng hành của Hoa Kỳ với chúng ta mang lại quyền lợi cho Hoa
Kỳ. Cũng chính vì quyền lợi của Hoa Kỳ là trên hết nên Hoa Kỳ sẵn sàng bỏ rơi
chúng ta và sẵn sàng ký những thỏa ước ngầm với đệ tam thế lực chia chác quyền
lợi của dân tộc chúng ta.
Chúng ta thấy dân Do Thái ít dân, địa lý nhỏ hẹp, ở ngay lòng khối
Ả Rập đông dân là kẻ thù bao ngàn năm, nhưng vẫn tồn tại được là nhờ người Do
Thái khắp 5 châu bốn bể, nhất là người Do Thái ở Hoa Kỳ, gia nhập và vận động
dòng chính của các quốc gia sở tại, nhất là Hoa Kỳ và Âu Châu, hỗ trợ lại mọi
mặt cho Do Thái thì mới đủ sức mạnh chống chọi lại khối Ả Rập. Không có người
Do Thái hải ngoại làm chuyện này thì nước Do Thái một lần nữa đã xóa tên trên
bản đồ rồi.
Chỉ có người Việt mới thương yêu và lo cho người Việt thật sự vì
đó chính là di sản và là huyết thống làm nên con người Việt. Hơn 4 triệu người
Việt ở hải ngoại là tài nguyên lớn cho dân tộc chống lại sự bành trướng của
Trung Quốc. Nếu lãnh đạo Việt Nam chấp nhận thành lập Lộ Trình Dân Chủ để có đa
đảng thì mới được lòng người Việt ở hải ngoại, từ đó mới có sự quy tụ sức mạnh
chung của dân Việt trong và ngoài nước chống lại sự bành trướng của Trung Quốc.
Bao lâu lãnh đạo CSVN không thực hiện chuyện này thì bấy lâu chuyện đấu tranh
chống Trung Quốc sẽ bị khập khễnh và Việt Nam sẽ từ từ bị Trung Quốc gấm nhấm
lãnh hải từ đó khống chế lại toàn thể lãnh thổ nước Việt. Đó là điều đau lòng
mà không một con dân Việt nào muốn nhìn thấy viễn tượng đó./.
Houston ngày 21/5/2014.
Sợi xích nào trói chặt Hà Nội vào Bắc Kinh?
Võ Văn Tạo
(Danlambao) -
Lâu nay, đôi khi các học giả chẳng cần viết cụ thể cái ý thức hệ mà Việt Nam và
Trung Quốc “có chung” là cái gì, hầu ai như cũng hiểu đó là “ý thức hệ XHCN”,
hay “lý tưởng cộng sản”. Và hầu như ai cũng tin đó là sợi dây liên kết chặt chẽ
chóp bu hai nước, là sợi xích trói chặt Hà Nội vào Bắc Kinh từ nhiều thập kỷ
nay.
Nhưng, nếu chịu khó nghiền ngẫm từ sự thật lịch
sử quan hệ giữa các quốc gia tuyên bố theo CNCS - xây dựng CNXH, sẽ thấy bản
chất hoàn toàn không phải vậy:
Các nhà nghiên cứu chính
trị biết rõ, lý tưởng CS hay XHCN không bắt nguồn từ Mác và Ănghen - vẫn được
coi là hai ông tổ của phong trào công nhân thế giới. Nó bắt nguồn từ trước đó,
do một số triết gia Âu châu khởi xướng, vẫn được gọi là lý thuyết, tư tưởng, trào
lưu hay chủ nghĩa “cộng sản không tưởng”, khi Âu - Mỹ bắt đầu thời đại ồ ạt
công nghiệp hóa, với thực tế bần cùng lao khổ của công nhân, trong khi giới chủ
ngày càng quá giàu sang. Giảm thiểu, hoặc loại trừ bất công - cái lõi của lý
tưởng cộng sản - là ý tưởng không tệ, nếu không nói là tốt đẹp (tuy nhiên, hiểu
“thế nào là công bằng?”, cần cả chuyên đề, xin bàn ở một dịp khác). Trên thực
tế, có nhiều phương cách để giảm thiểu bất công, chênh lệch giàu nghèo phi lý,
cũng như nỗi cơ cực của công nhân.
Cũng trên thực tế, các
chính khách nắm quyền, dù cộng sản ở khối XHCN, dân chủ xã hội ở nhiều nước
châu Âu, thậm chí cả Dân chủ hay Cộng hòa ở Hòa Kỳ... có khuynh hướng thực thi
công bằng xã hội, đã vận dụng khác nhau trong quản lý, điều hành kinh tế - xã hội,
cho kết quả hoàn toàn khác nhau.
Mác và Ănghen, cũng như người
được coi là kế thừa là Lê Nin, phê phán CNCS không tưởng, chủ trương xây dựng
CNCS mà họ gọi là “khoa học”, tạo lập công bằng bằng thiết lập chuyên chính vô
sản, với đặc trưng độc tài, đề cao bạo lực, tước đoạt tài sản của người giàu,
tiêu diệt giới chủ, tiêu diệt tư tưởng đối kháng, thậm chí tiêu diệt mọi khác
biệt (kể cả quần loe, tóc dài như thuở nào). Tùy mức độ, nước Nga xô viết sau
Cách mạng tháng Mười -1917, kế đó là Liên Xô, rồi một loạt quốc gia Đông Âu -
nơi giới chức cầm quyền được Maxcova đặt lên “ngai vàng” sau Thế chiến 2, cũng
như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Triều Tiên, Cămpuchia thời Polpot và Lào đều
thiết lập chuyên chính vô sản.
Cuối thập niên 1950 -
đầu 1960, Liên Xô muốn “xưng đế” trong trào lưu cộng sản thế giới, nhiều lần
triệu tập đại diện các đảng cộng sản và công nhân thế giới đến Maxcova để “tập
huấn” xây dựng CNXH theo khuôn mẫu Liên Xô. Trung Quốc, vốn khúc mắc với Liên
Xô từ khi ĐCSTQ mới thành lập năm 1921 - phải tranh giành quyền lực với ba thế
lực khác khi đó, trong đó có Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch, vì Liên Xô
giúp Tưởng vũ khí, lương thực, chỉ “chi viện” ĐCSTQ sách báo Mác - Lê, đã ra
mặt bài xích Maxcova là “bọn xét lại hiện đại”. Bắc Kinh bất thần phục Maxcova
và cũng muốn “xưng đế” trong trào lưu cộng sản thế giới, với các chư hầu
Rumani, Anbani, Bắc Triều Tiên. Ngoài ra, Nam Tư dưới thời Tito, vốn tự giải
phóng bằng chiến tranh du kích trong Thế chiến 2 (không phải nhờ Hồng quân Liên
Xô như hầu hết các quốc khác ở Đông Âu), cũng chẳng chịu “vâng dạ” Maxcova, mặc
dù cũng tuyên bố xây dựng CNXH (Liên bang CHXHCN Nam Tư), bị Maxcova tẩy chay,
vu là “xét lại”, đành tranh ngôi “bá” trong Phong trào không liên kết. Hai thập
niên 1960 - 1970, Hà Nội, trong nỗ lực khôn khéo của Hồ Chí Minh, không muốn
mất lòng ai giữa cuộc tranh hùng Maxcova - Bắc Kinh, vẫn âm thầm tôn thờ
Maxcova là Tổ quốc của Lê Nin, cội nguồn của CNCS, thành trì và khuôn mẫu của
CNXH, nhìn Bắc Kinh như một kẻ dị hợm.
Nhân sự kiện Đại cách
mạng văn hóa quái gở và tệ hại ở Trung Quốc thời kỳ 1966 -1976, nhiều học giả
Tây phương muốn tìm hiểu, giải mã điều gì tạo nên tính cách của họ Mao và động
cơ xách động vụ này. Mới hay, Mao luôn gièm pha sách vở Mác - Lê, chỉ hâm mộ
tiểu thuyết Tàu nói về giang hồ tranh bá đồ vương.
Năm 1979, Trung Quốc bất
ngờ xâm lăng, tàn sát nhiều vạn quân dân Việt ở biên giới phía Bắc, ĐCSVN ra
nghị quyết, nhận định: “Từ khi thành lập, thực chất ĐCSTQ chưa bao giờ
là một ĐCS chân chính. Lập trường của ĐCSTQ vừa qua là phản động, phản bội” (kể
cũng lạ, chưa bao giờ là ta, sao lại dùng chữ “phản bội”?). Thời gian Mao trị
vì, ĐCSTQ rẻ rúng lý thuyết Mác - Lê, ca tụng và ra sức truyền bá tư tưởng Mao
ra thế giới. Thời họ Đặng, ĐCSTQ tung hô tư tưởng Đặng, hô hào xây dựng CNXH
“đặc sắc Trung Quốc”, Mác - Lê chìm vào dĩ vãng, vật vờ che chắn lợi ích nhóm
của chóp bu.
Nhưng sự kiện “động
trời” CNXH và trào lưu cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu bất ngờ sụp đổ, tan rã
cuối thập kỷ 1980 - đầu 1990 làm Bắc Kinh và nhất là Hà Nội quá hoảng hốt. Bất
chấp hiểm họa thường trực Bắc Kinh bành trướng, bất chấp vụ Bắc Kinh xua quân
đánh cướp đảo Gạc Ma - 1988, xương máu 64 bộ đội VN chưa kịp phôi pha, đầu
tháng 9 -1990, chóp bu CSVN, do TBT Nguyễn Văn Linh và cố vấn Phạm Văn Đồng dẫn
đầu (Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh đã bí mật chủ động liên lạc cầu thân trước
đó với Đại sứ Tàu tại Hà Nội là Trương Đức Duy, được Bắc Kinh “bật đèn xanh”)
kéo nhau sang Thành Đô, mật bàn và ký tuyên bố chung bí mật, núp chiêu bài khôi
phục “quan hệ hữu nghị” để “giữ CNXH”, mà người trong cuộc là Thứ trưởng Ngoại
giao VN Trần Quang Cơ cùng nhiều tướng lĩnh, chính khách, trí thức tâm huyết
của VN từng vạch trần là “mở ra một thời kỳ Bắc thuộc mới đầy nguy
hiểm”, “tự chui đầu vào thòng lọng Bắc Kinh”, “phản bội quyền lợi dân tộc”,
“hậu duệ Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc”...
Yêu sách tiên quyết của
Bắc Kinh khi Hà Nội xin bình thường hóa quan hệ là phải loại Bộ trưởng Ngoại
giao VN Nguyễn Cơ Thạch khỏi Bộ Chính trị ĐCSVN. Và đòi hỏi trịch thượng đó đã
được Hà Nội lập tức cúc cung đáp ứng. Cùng với cố TBT Lê Duẩn, Bộ trưởng Thạch
là người “đi guốc trong bụng” cái ý đồ bành trướng bá quyền nham hiểm của Bắc
Kinh luôn nung nấu từ hàng nghìn năm nay. Để đối phó, ông chủ trương ngoại giao
đa phương hóa toàn diện, đẩy mạnh quan hệ với các cường quốc dân chủ Tây
phương, kể cả Hoa Kỳ (nếu chóp bu Hà Nội khi ấy cùng quan điểm với ông Thạch,
chắc chắn hôm nay VN không rơi vào thế đã nghèo yếu lại cô thân đối phó với gã
khổng lồ Bắc Kinh hung bạo).
Theo cam kết Thành Đô,
bia mộ anh hùng, liệt sĩ chống Bắc Kinh xâm lược lục tục bị đục bỏ, sử sách VN
tảng lờ các sự kiện chiến tranh biên giới Việt - Trung 1979, các vụ Bắc Kinh
dùng vũ lực cưỡng đoạt đẫm máu Hoàng Sa - 1974, Trường Sa - 1988. Hà Nội tránh
né việc nhắc lại các sự kiện bi tráng ấy, đưa lên phạm trù “húy kỵ” (!). Người
dân VN mặc áo HS-TS-VN (Hoàng Sa - Trường Sa - Việt Nam) hay No U (phản đối
“đường lưỡi bò” ôm trọn biển Đông do TQ ngang ngược yêu sách), hoặc biểu tình
ôn hòa phản đối Bắc Kinh bành trướng gây hấn, tưởng niệm liệt sĩ chống TQ xâm
lăng, thậm chí tập Pháp luân công (luật pháp TQ cấm)... bị an ninh VN móc nối
lưu manh côn đồ cản phá, đánh đập dữ dằn, bắt bớ, tra tấn, khủng bố bằng mọi
thủ đoạn đê tiện.
Những luận điệu hoa mỹ
“4 tốt”, “16 chữ vàng” do Bắc Kinh rêu rao để ru ngủ, che đậy bộ mặt thật bành
trướng hiểm độc, được Hà Nội hợp xướng phụ họa, đầu độc nhân dân.
Nhưng thực chất Hà Nội
có tin vào cái gọi là “tình hữu nghị” dựa trên cái gọi là “cùng ý thức hệ” đó
không?
Hoàn toàn không!
Tuy lúc này lúc khác xao
lãng, tự mê hoặc, nhưng giới chức Hà Nội không ai không biết âm mưu Hán hóa từ
nghìn đời, Bắc Kinh vẫn ấp ủ (đến thường dân tối ngày lo cơm áo còn nhận thức
rõ, huống hồ chóp bu?).
Bắc Kinh cũng vậy, trong
thâm tâm, giới chức chóp bu phương Bắc luôn nhìn Hà Nội rặt lũ cơ hội, sẵn sàng
trở mặt phản phúc.
Mạt cưa gặp mướp đắng.
Vốn thâm hiểm vào hàng cao thủ, nhưng Bắc Kinh chẳng lừa nổi Hà Nội. Hà Nội làm
sao mong lừa nổi Bắc Kinh?
Nhưng tại sao Hà Nội vẫn
ôm chân Bắc Kinh?
Như trên đã phân tích,
rõ ràng Hà Nội và Bắc Kinh có quá nhiều khác biệt ở tầm mức quan điểm đường lối
về CNXH, làm sao có thể nói cùng ý thức hệ?
Điểm chung duy nhất ràng
buộc họ là thể chế độc tài. Ở đó, lợi ích vị kỷ của chóp bu là tối thượng. Cả
hai thể chế hà khắc đều do “vua tập thể” cai trị. Bản thân họ và con cháu, dù
tài hèn đức mỏng, vẫn mặc sức đục khoét, vơ vét, kiếm chác, đè đầu cưỡi cổ nhân
dân, các “thái tử đỏ” có cơ may nhận “truyền ngôi”. Khi cần thiết, họ đều tìm
cách khích lệ người dân, lợi dụng chủ nghĩa dân tộc cực đoan để gia cố “ngai
vàng”. Trong khi con em nhân dân lao động lương thiện và đáng thương của hai
dân tộc lao vào bắn giết nhau nơi biên ải, họ vẫn đáp chuyên cơ đến với nhau ở
thủ đô, hội đàm trong hội trường máy lạnh, nhấm nháp sâm banh cùng mao đài, tay
bắt mặt mừng, ôm hôn hỉ hả. Họ sẵn sàng gác quá khứ xung đột đẫm máu, để hân
hoan chào đón các chóp bu bên kia chiến tuyến.
Nhưng với những ai yêu tự do,
đấu tranh cho dân chủ thì khác hẳn. Dân chủ, tự do là kẻ thù không đội trời
chung truyền kiếp của thể chế độc tài. Điều tốt đẹp nhất họ làm với những người
yêu tự do, dân chủ là thả tù trước thời hạn, nhằm đối phó với áp lực nhân quyền
quốc tế hoặc mặc cả kinh tế, ngoại giao nhất thời. Chưa bao giờ, và có lẽ sẽ
không bao giờ, họ chịu tiếp xúc, tranh luận hoặc lắng nghe bất cứ ai tâm huyết
với nhân dân và đất nước, can đảm đấu tranh cho tự do, dân chủ, vì hạnh phúc thật
sự của nhân dân, vì một Việt Nam dân chủ, tiến bộ xã hội và cường thịnh, như
hướng đi của nhân loại văn minh.
Lật giở trang sử khối
XHCN các thập niên 1950 -1980 sẽ thấy, các cuộc đình công hay xuống đường đòi
tự do, dân chủ, đòi quyền sống, chống độc tài ở Hungary, Balan, Tiệp Khắc, Đông
Đức, đều bị xe tăng đi tiên phong và mật vụ Maxcova đứng sau chỉ huy nghiền
nát. Thế nhưng, trước khi bức tường ô nhục Berlin bị đập bỏ năm 1989, quen nếp
cũ, Tổng Bí thư CHDC Đức Honecko đã cầu cứu Gorbachop (nhưng đã bị người đứng
đầu Liên Xô lạnh lùng khước từ: “chính sách mới của ĐCS Liên Xô là không can
thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác”).
Dã tâm và ý chí sắt máu
tàn bạo có một không hai của Bắc Kinh trong vụ đem xe tăng chà nát hàng nghìn
sinh viên đòi dân chủ tự do ở Quảng trường Thiên An Môn mùa Hè 1989, đã làm Hà
Nội lóe lên cái hy vọng cầu cạnh Bắc Kinh bảo kê cho “ngai vàng” vị kỷ của họ,
trong tình thế khối XHCN ở châu Âu bắt đầu tan rã từng mảng lớn. Chẳng nệ nhục
nhã, trong tâm thế hèn hạ, họ lết đến Thành Đô, cúi xin làm đồ đệ “trung
thành”.
Ngưu tầm mưu, mã tầm mã,
không chỉ bám lưng Bắc Kinh, Hà Nội luôn đứng về phía các nhà độc tài, tham
nhũng khét tiếng như Sadam Hussen, Kadaphi, Putin (kể cả trong vụ thôn tính
Crimée vừa qua)... mặc dù đám này chẳng “khoái” cái gọi là CNXH như Hà Nội quan
niệm.
Trong khi vụ giàn khoan
HD981 gây chấn động thế giới, Putin sang Bắc Kinh hội kiến họ Tập, Nga tập trận
chung với TQ ở biển Đông. Điều đó cho thấy nhãn quang và “viễn kiến” của Hà Nội
ở tầm mức ra sao.
Vì những lẽ trên, rõ
ràng, tuyệt nhiên không phải ý thức hệ, mà chính quyền lực và lợi ích vị kỷ của
“vua tập thể” mới là sợi xích trói chặt Hà Nội dưới chân Bắc Kinh.
Vụ giàn khoan HD 981: CSVN hèn với giặc, ác với dân
Phan Nguyen (Danlambao) - Trung Cộng đã đưa giàn khoan dầu khổng
lồ vào khu đặc quyền kinh tế gần Hoàng Sa của Việt Nam dưới sự yểm trợ của hơn
80 tàu hải giám, tàu ngư chính cùng với ba chiến hạm hải quân đã nói lên dã tâm
xâm lược của bọn bành trướng phương Bắc.
Cộng sản Việt Nam liền đưa tàu chấp pháp ra ngăn
cản và yêu cầu Trung cộng phải dời giàn khoan ra khỏi lãnh hải Việt Nam. Đồng
thời tại diễn đàn Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á, sau đó mấy ngày, ông Thủ
Tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng lên tiếng tố cáo hành vi xâm lăng của nước đàn anh
và kêu gọi sự hỗ trợ của các quốc gia thành viên.
Hành động xâm lăng của Trung Cộng là quá rõ ràng
và vô cùng nghiêm trọng sẽ đưa Hà Nội đến nhiều rủi ro. Những nhà lãnh đạo tại
Ba Đình sẽ phản ứng trước động thái hung hăng của Trung cộng như thế nào, và sẽ
đưa ra những biện pháp cứng rắn gì có tính thuyết phục hầu Trung Cộng phải rút
giàn khoan đi, hay là mọi việc rồi sẽ đâu vào đấy như nhận định của một số
người đã từng có kinh nghiệm về Cộng sản.
Để tìm một giải đáp cho câu hỏi trên, chúng ta
thử nhìn lại các hoạt động ngoại giao, cách ứng xử của Việt Nam đối với Trung
cộng và với chính nhân dân của mình trong quá trình tranh chấp biển đảo, cùng
với thực trạng đời sống bị tha hóa của mọi tầng lớp cán bộ tư bản đỏ hiện nay,
và quan trọng nhứt là lòng trung thành của các cấp lãnh đạo Hà Nội hướng về một
nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Trung Hoa với ảo tưởng rằng chỉ có Bắc Kinh mới
là đối tác chiến lược, có thể làm cản trở cho sự nghiệp giũ nước, chống lại nạn
Hán hóa từ phương bắc.
Thứ nhứt, về mặt ngoại giao và quốc phòng, trong nhiều năm qua, Trung cộng
nhiều lần đưa tàu hải giám ngụy trang tàu đánh cá xâm phạm lãnh hải và biển đảo
ta và còn ngang nhiên chận bắt tàu bè, tịch thu ngư cụ, hải sản và còn đánh đập
ngư dân ta, nhưng Bộ Ngoại giao Việt Nam chỉ đưa ra mấy lời phản kháng yếu ớt,
chiếu lệ, hoặc vì sợ mất lòng người anh cả Trung cộng mà chỉ gọi đó là “tàu lạ”
một cách vô trách nhiệm. Chẳng những không sử dụng uy quyền của một quốc gia
độc lập, một quốc gia đã từng tự hào đã đánh thắng ba trận chiến lớn và ngày
nay có một quân đội hùng mạnh đứng hàng thứ 25 (?) trên thế giới. Tại sao lại
phó thác, khoán trắng cho chánh quyền địa phương huyện Hoàng sa, hội ngư nghiệp
đứng ra lên tiếng phản đối Trung cộng ầm ĩ. Tại sao lại xúi giục ngư dân ra
biển đảo bám trụ mà không có cảnh sát biển bảo vệ. (Hồi thời chiến tranh chống
Pháp và chống VNCH, mỗi lần có một chiến dịch quân sự nào, Việt Cộng thường lùa
dân đi trước làm bia đỡ đạn cho chúng, làm cho lực lượng phòng thủ nhiều lúc
phải hoang mang.) Đó là biểu hiện của ươn hèn, tắc trách, phản bội lại đồng đội
dưới quyền, phản bội nhân dân, tiếp tay cho giặc. Phải truy tố những tên này ở
Bộ Chính trị ra tòa án binh về tội cấu kết với giặc, là phản quốc.
Thú hai, trong lúc đất nước đang bị họa ngoại xâm thì đại đa số các cấp
lãnh đạo thuộc các cơ quan công quyền gồm những viên chức hành chính, bộ đội,
cán bộ, công an, cảnh sát mọi cấp, mọi ngành sống xa rời dân, tham nhũng, hối
lộ, hối mại quyền thế, đục khoét công quỉ, cắt xén tiền viện trợ, móc ruột các
đại dự án, cấu kết chia chác cho nhau tài sản của nhân dân hàng tỷ đô la Mỹ mỗi
năm. Một trong số các vụ nổi bật nhứt phải kể đến Vinashin với số tiền vốn 4.5
tỷ USD bị bọn chóp bu cùng bắt tay, móc ngoặc, chia nhau bỏ túi mỗi người hàng
triệu đồng đô la Mỹ[1]. Đó là chưa kể đến chủ mưu thông đồng cùng bọn
tài phiệt nước ngoài cướp đất cướp nhà cướp của người dân, gây oan khiên chưa
từng thấy trên quê hương Việt Nam kể cả thời Pháp thuộc.
Ngoài ra còn có những âm mưu ăn cắp công quỉ,
móc túi dân bằng cách tổ chức lễ hội. Trên khắp cả nước, từ trung ương đến địa
phương, đảng và nhà nước tìm mọi cơ hội tổ chức, khuyến khích tổ chức hàng loạt
mọi thứ lễ hội để mọi người ăn chơi, rượu chè, trác táng, sống phè phỡn trên
nỗi thống khổ của đại đa số quần chúng nhân dân. Lễ Kỹ niệm 1000 Thăng Long Hà
Nội là đỉnh điểm của một tổ chức ăn chơi “hoành tráng vĩ đại” nhất, chưa từng
thấy ở bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới, nếu tính tổn phí so với tổng sản
lượng quốc gia, làm tiêu hao công quỉ hơn 4.5 tỷ USD! Làm thâm thủng 10% ngân
sách quốc gia [2].
Đó có phải là chủ trương của đảng và nhà nước
Cộng sản Việt Nam, nhiều người tự hỏi, làm cho đại bộ phận cán bộ đảng và mọi
tầng lớp nhân dân bị tha hóa, nằm trong kế sách thâm độc là tạo cơ hội thuận
lợi cho mọi người chỉ biết có ăn chơi, chỉ biết có quyền lợi riêng tư, hưởng
thụ, sống cầu an để Bộ Chính trị Cộng sản Hà Nội dễ thực hiện tiến trình bán
biển, bán đảo, bán nước một cách êm đẹp.
Hơn nữa, ngoài giặc nội tuyến vô cùng nguy hiểm
bám trụ ở bên trong, còn có nguyên nhân khách quan từ bên ngoài là bọn thực dân
mới từ phía bắc còn nguy hiểm hơn nhiều. Bọn thực dân mới này là động lực chính
đã tác động mạnh mẽ đến đường lối, chính sách của nhóm lãnh đạo cộng sản Việt
Nam qua chiêu bài 16 chữ - vàng 4 tốt, nằm trong sách lược “Giấc mơ Trung quốc”
và “Phục hưng Trung hoa” của Chủ tịch nước, Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung
Quốc, ông Tập Cận Bình đã đề cập đến trong bài diễn văn của ông đọc trước Quốc
hội ngày 17 tháng Ba năm 2013, nhân ngày ông nhậm chức. Đó là giấc mơ bá quyền.
Đó là những gì đang diễn biến tại Việt Nam [3].
Giáo sư T. S. Jonathan London thuộc trường Đại
Học City University of Hong Kong nhận định và tiên đoán về những gì sẽ xảy ra
như Bắc Kinh muốn, qua phát biểu của ông trên đài BBC ngày 16 tháng 5 vừa qua,
để ta có thể nhận diện những khuôn mặt bán nước đó: “Mặt khác là tam đầu chế
của chính quyền gồm Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng – những người nhìn chung bị coi là bảo thủ
và thiếu tự tin (tôi không sử dụng từ “trung thành”) đối với Trung Quốc. Trong
nước, lòng trung thành của họ hướng về nhau, về đảng, về hiện trạng với sự tôn
trọng những định chế cốt lõi của Việt Nam. Trên bình diện quốc tế, lòng trung
thành của họ (làm sao tôi có thể dùng từ này một cách lịch sự đây?) với ảo
tưởng vĩnh viễn rằng Bắc Kinh là đối tác [4].
Nhận xét của ông cũng là một nhận xét mà người
dân trong nước đã thấy từ lâu, nhưng đại đa số hoàn toàn không dám có phản ứng;
Cũng đã có một số người lên tiếng phản đối thì đã bị bắt giam, bị gán tội làm
tay sai cho ngoại bang, làm tay sai cho các thế lực thù địch, tuyên truyền
chống phá nhà nước, muốn lật đổ chánh phủ.
Để hỗ trợ cho nhận định của G.S Jonathan London
là đúng, hãy chú ý đến các hoạt động ngoại giao của Cộng sản VN qua các lời
tuyên bố của các Ông Trương Tấn Sang, Đặng Sinh Hùng, Phạm Bình Minh trong mấy
ngày nay, như: Ông Trương Tấn Sang nói, “Việt Nam kiên quyết đấu tranh
bảo vệ chủ quyền quốc gia, nhưng lại bảo đảm gìn giữ môi trường hòa bình, ổn
định để phát triển đất nước, cũng như kiên trì bảo vệ, giữ vững quan hệ hữu
nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước Việt Nam-Trung Quốc.” Tại
phiên họp quốc hội “Khi kêu gọi các đại biểu Quốc hội góp ý với Chính
phủ về tình hình Biển Đông, Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng cho thấy sẽ không có khả
năng xảy ra chiến tranh. Vì theo lời ông, Việt Nam kiên quyết đấu tranh bảo vệ
chủ quyền quốc gia, nhưng lại bảo đảm gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định để
phát triển đất nước, cũng như kiên trì bảo vệ, giũ vững quan hệ hữu nghị truyền
thống giũa hai nhân dân hai nước Việt Nam – Trung quốc.” Còn ông Phạm
Bình Minh, được báo chí trích lời nói: “Vấn đề bảo vệ chủ quyền ta phải
tiếp tục đấu tranh, không cho nước nào xâm phạm, song quan hệ giữa hai nước,
giữa nhân dân hai nước thì vẫn được duy trì, xây dựng” [5].
Và sau cùng, có một thực tiễn cần phải lưu ý là
trong ngày biểu tình 11 tháng 5 vừa qua, Đoàn Thanh niên Cộng sản tổ chức tụ
tập trước Nhà Hát Lớn. Nếu quan sát kỹ, chúng ta sẽ nhận rõ nhóm biểu tình quốc
doanh này chuyên đi cướp diễn đàn, xé rách biểu ngữ của người biểu tình yêu
nước, chúng tụ tập ca hát vui chơi hơn là phản đối Trung Cộng; Bọn chúng đang
ăn mừng người anh em Trung Quốc đến đặt giàn khoan trong hải phận nước ta. Đó
cũng là yếu tố để chúng ta nhận chân bộ mặt bán nước của cộng sản Việt Nam.
Để kết luận, từ những nhận xét trên và xuyên qua
những kinh nghiệm về Cộng sản, chúng ta có thể quả quyết rằng đảng và nhà nước
Cộng sản Việt Nam sẽ không làm gì được đối với giàn khoan Hướng Dương 891. Và
cũng kể từ đây, với chánh sách bá quyền của một “Giấc mơ Trung hoa” từ phương
bắc cộng với một chánh quyền anh em cộng sản ở phía nam đang lén lút đồng tình
với giặc ngoại xâm thì một lần nữa cột trụ đồng Mã Viện của gần hai ngàn năm về
trước lại được dời về tận phương nam. Cột trụ đồng đó là giàn khoan Hải Dương
981. (nếu không có một đại khủng hoảng đổ máu trong nội bộ đảng cộng sản Việt
Nam).
Ngày 23 tháng 5 năm 2014
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment