From: "Dung Dinh" <
Date: Fri, 30 Jan 2015 08:00:44 -0800
Subject: Chùm khế ngọt.
Kính chuyễn đến qúy
thân hửu bài viết cuả một công dân miền Nam VNCH
Tâm tư trong sáng không
hận thù chỉ Ôn
Cố Tri Tân muốn trình bày sự thật cuả lịch sữ đễ những con
người tự do suy ngẫm.
( tôi xin lưu ý là việc
cải tổ hành chánh không phải bắt nguồn từ thời TT Ngô Đình Diệm mà là từ thời
Quốc Trưởng Bảo Đại qua nhiều nội các
do một bộ cải tổ hành
chánh (administration) do Ông Đinh Xuân Quảng , ( một luật gia kỳ cựu và cũng
là tác giả chính của bản Hiến Pháp Đệ Nhị Việt Nam Cọng Hoà) đảm nhận mà ngày
nay con trai ông TS Đinh Xuân Quân , một chuyên viên Liên Hiệp Quốc đang giúp
cải tổ hành chánh các nước đang phát triển như Việt Nam , Nam Dương ,
Afganistan, Irak và các nước Phi Châu khác )
From: Nhong
Sent: Friday, January 30,
2015 12:22 AM
To: Dung Dinh
Subject: Chùm khế ngọt.
Kính gởi anh, người cùng quê hương, đọc cho vui.
NCN
Quê Hương, chùm khế ngọt.
Quê Hương là chùm khế ngọt.
Cho con trèo hái mỗi ngày,
Quê hương là đường đi học,
Con về rợp bướm vàng bay.
Quê hương là cầu tre nhỏ,
Mẹ về nón lá nghiêng che.
Quê hương mỗi người chỉ một,
Như là chỉ một Mẹ thôi.
Quê hương nếu ai không nhớ,
Sẽ không lớn nỗi thành người.
Tôi
cầm tinh con Cọp, sinh năm Mậu Dần, tại Huế, trong một ngôi làng tên Xuân Hòa
thuộc huyện Hương Thủy. Dù sống ở vùng xôi đậu, tôi có một thời thơ ấu khá êm
đềm, thế hệ trẻ chúng tôi được cắp sách đến trường, ngoài kiến thức khoa học,
chúng tôi còn được giãng dạy về Công Dân Giáo Dục, về nguồn cội Rồng Tiên, về
Lịch Sử vua Hùng dựng nước; để thành một người biết yêu thương đất nước, giống
nòi.
Huế,
trong ký ức tôi, vùng đất an bình với dòng Hương êm đềm, con sông chỉ hung dữ
mỗi năm vào ngày mưa lũ, còn lại, thật thơ mộng với dòng nước chảy thật chậm,
thật lặng lờ sâu lắng, như những tiếng “dạ thưa” ngọt lịm mê say.
Làng
quê tôi, nằm ven dòng sông Như Ý, một nhánh của Hương Giang. Những ngày từ quê
lên học tại Quốc Học, tôi thường đạp xe theo mấy O bên Đồng Khánh, thuở ấy, dù
thương cách mấy, cũng không dám đi song đôi, mà chỉ lẽo đẽo theo sau. Tuổi thơ
tôi lọt lưới tình yêu lúc nào không rõ, chỉ biết mỗi lần gặp ánh mắt nhau, tôi
bỗng gần như quên thở vì:
Mắt em là một dòng sông,
Thuyền anh chết ngộp trong lòng mắt em.
(không biết thơ ai, thấy hay cuỗm đại)
Trước
khi tình nguyện vào Võ Bị Đà Lạt, tôi vào thăm người bạn thân, Nguyễn Văn Lộc,
sau nầy anh gia nhập vào Khóa Bão Bình Trường Hãi Quân Nha Trang. Lộc sai cô em
gái, tên Quyến, mà tôi thường lẻo đẻo đạp xe theo trên đường đi học, gọt mấy
trái thu đủ sau vườn đãi tôi, lợi dụng lúc chỉ có hai đứa, tôi thu hết can đảm,
hỏi: Mai anh đi rồi, hi vọng còn dịp gặp nhau không?
Quyến
cúi đầu nói nhỏ “Em không biết”.
Vậy
mà năm sau, được tin cô ta vào học tại Võ Tánh, Nha Trang. Tôi xin phép gia
đình được viết thư thăm hỏi. Và trong dịp du hành trước ngày Mãn Khóa, tôi và
Lê Thanh Quang, nó cũng có người yêu ở đây, và cũng sau nầy thành chị Quang;
hai đứa trốn trại, cùng người yêu đi dạo phố. Dịp đầu tiên, tôi có một bức hình
chung với người yêu, để thay lời thề non hẹn biển. Tình yêu chúng tôi thuở đó,
chơn chất và chung thủy như vậy đó.
Ra
Trường, tôi chọn Sư Đoàn I ở Huế. Lúc nầy chiến sự bắt đầu sôi động, hai gia
đình quen thân lâu nay, dự tính ngày cưới, và bão tôi đang ở A-Lưới, xin phép
về. Vị Tiểu Đoàn Trưởng vui vẻ chấp thuận và can thiệp ngày đó sẽ xin chuyến
máy bay Cesna chở thư, đưa tôi về sân bay Thành Nội Huế. Không ngờ vì sương mù,
gần trưa Cesna mới lên được, nên tôi về đến nhà thì đám rước dâu đã đi, vội
thay bộ đồ trận, khoát chiếc áo đen chú rễ vào, ba chân bốn cẵng chạy. May quá,
nhà gái vừa chấp thuận cho cưới vắng mặt rễ, thì chú rễ ập vào. Sau ngày hợp
hôn đúng bảy hôm, tôi lại lên A-Lưới gánh chịu những trận pháo kích, chia sẻ
những hiểm nguy với đồng đội. Tôi tạm ngưng chuyện riêng tư ở đây, để chúng ta
cùng quay lại tìm nguyên nhân cuộc chiến đấu mất còn, mà tôi cùng đồng đội đang
gánh chịu.
Lãnh
hai trái bom nguyên tử, Nhật phải đầu hàng Mỹ, dẫn đến bại trận của phe Trục
(Nhật-Đức- Ý). Nhờ giữ được tự do dân chủ dù bị Mỹ chiếm đóng, Nhật đã nhanh
chóng vươn lên giàu mạnh như ngày hôm nay.
Nhân
dịp Nhật đầu hàng, Việt Minh lợi dụng cướp chính quyền, buộc Bảo Đại thoái vị,
và Pháp có cớ trở lại Đông Dương. Chiến tranh Quốc Cọng lại tiếp diễn. Lúc nầy,
chế độ thực dân tới thời cáo chung, Anh trao trả độc lập cho các nước bị trị,
Pháp còn cố bám víu một số quyền lợi, nên mở chiến dịch tại Điện Biên, dụ đại
quân Việt Minh vào đó, sẽ bất ngờ cho nhảy dù để tiêu diệt. Không ngờ Cọng Sản
tương kế tựu kế, được Tàu trang bị hàng ngàn pháo binh cở lớn, phục quanh trên
lòng chảo. Pháp nhảy dù xuống, xem như vào rọ.
Cựu
hoàng Bảo Đại đang ở Pháp, giao quyền cho Ngô Đình Diệm. Ông Diệm ra lệnh toàn
quốc treo cờ rũ để phản đối Hiệp Định Chia Đôi Đất Nước, đồng thời cải tổ guồng
máy hành chính, dành quyền tự trị từ tay thực dân Pháp.
Nhờ
đình chiến, phe Cọng, lúc nầy mang tên Việt Minh, đã chôn dấu vũ khí và gài lại
người nằm vùng, họ tin với dân số vượt trội ở miền Bắc, nhất là hệ thống tuyên
truyền, sẽ dễ dàng thắng phiếu miền Nam nếu có bầu cử.
Dự
đoán sẽ không có bầu cử, Miền Bắc quyết chiếm miền Nam bằng võ lực, họ bắt đầu
xây dựng một xã hội chuyên chế bằng đấu tố, cải cách ruộng đất và xây dựng quân
đội hùng mạnh. Miền Nam, sau cuộc Trưng Cầu Dân Ý, đã bỏ phiếu truất phế Bảo
Đại, bầu Ngô Đình Diệm làm Tổng Thống. Được Mỹ Viện Trợ, ông Diệm chú tâm vào
cải tổ kinh tế, lập khu trù mật, xây dựng ấp Chiến Lược, nên dân được sống yên
vui một thời gian. Mãi năm 63, Việt Cọng xuất đầu lộ diện với danh xưng “Mặt
Trận Giải Phóng”, đưa quân từ Bắc vào, phối hợp với số nằm vùng, quậy phá khắp
nơi.
Cuộc
nội chiến giữa hai phe Quốc Cọng lại tiếp diễn, miền Bắc với chi viện của Khối
Cọng, quyết nuốt chửng Miền Nam. Để ngăn chặn làn sóng đỏ, Mỹ giúp Miền Nam cải
tổ kinh tế, xây dựng một xã hội phồn vinh, tự do, dân chủ. Tuy nhiên thấy Miền
Nam khó đương đầu với cuồng vọng của Khối Cọng, Mỹ tìm cách đưa quân tham
chiến. Ban đầu họ đưa cố vấn vào giúp, cho xây dựng ngôi Trường Võ Bị Quốc Gia,
lớn nhất Đông Nam Á tại Đà Lạt, chương trình văn hóa và quân sự với thời gian
đào luyện là 4 năm. Tôi may mắn được thu nhận vào Khóa đầu tiên năm 1959. Tiếc
là đến năm 63, Việt Minh thành lập Mặt Trận Giải Phóng, bắt đầu quậy phá khắp
nơi. Khóa 16 chúng tôi cấp tốc được tung ra chiến trường để kịp đối phó. Một số
Khóa kế cũng đành ra trường trước thời gian để đáp ứng nhu cầu chiến sự.
Mậu
Thân 68, Mùa Hè Đỏ Lửa 72, và tái chiếm Cổ Thành Quãng Trị đã gây thương vong
lớn cho Bắc quân. Nhờ hậu phương Nga và Trung Quốc chi viện tối đa, Việt Cọng
tiếp tục dùng chiến thuật biển người, như những thiêu thân xông vào lữa đạn,
gây tổn thất đáng kể cho Quân Lực Cọng Hòa và Đồng Minh.
Mỹ
là quốc gia tôn trọng mạng sống con người, khi thấy lính mình chết quá nhiều,
phong trào phản chiến bùng nỗ dữ dội khắp nơi. Không thể để sa lầy tại Đông
Dương, dưới áp lực của Lưỡng Viện Quốc Hội, Mỹ tìm cách rút chân ra khỏi Việt
Nam.
Lúc
nầy, quân đội miền Bắc, được Nga Tàu yểm trợ dồi dào cả lương thực lẫn vũ khí,
xẻ dọc Trường Sơn thành đường mòn Hồ Chí Minh, trùng trùng điệp điệp kéo vào,
nhưng họ chối bay chối biến việc xâm nhập. Mặt chai mày đá tuyên bố đó là nhân
dân miền Nam nổi dậy. Thương vong hai phe càng ngày càng tăng vọt khốc liệt.
Pháp
và Mỹ, hai quốc gia tuy bằng mặt, nhưng không bằng lòng, Pháp còn hận chuyện bị
Mỹ hất chân ra khỏi Đông Dương, nên tình nguyện đứng ra tổ chức việc thương
thảo đình chiến. Sau những chuyến đi đêm, từ tháng 5 năm 1968, đến tháng giêng
1973. Hai tên đầu sỏ chung lãnh Nobel Hòa Bình năm đó, là Lê Đức Thọ và
Kissinger, đã qua tận Bắc Kinh, đi đêm mật ước với nhau để bán đứng miền Nam.
Chuyện bốn bên cùng thương thảo, chỉ là đóng kịch. Có lẻ Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu cảm nhận được điều đó, nên phản đối, nhưng cuối cùng đành bó
tay. Quả nhiên Hiệp Định Paris chưa kịp khô mực, trong lúc Mỹ rút hết quân, cắt
đứt mọi viện trợ, thì Cọng Quân mang xe tăng đại pháo, rần rộ xâm nhập đánh chiếm
Miền Nam.
Dân
miền Nam vốn hiền hòa, đã căm hận khi thấy Sài Gòn yêu quý đổi tên quê một cục
là: Thành Phố Hồ Chí Minh. Tên nước lại lòng thòng kỳ cục hơn: Cọng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. VC lật lọng, quịt đàn anh Trung Quốc để chào
đón Liên Xô, bị Đặng Tiểu Bình cho một bài học, phá nát 6 tỉnh biên giới, hết
núi liền núi, sông liền sông. Vì cùng tổn thất nặng, Tàu còn sợ người bạn Liên
Sô sau lưng, nên rút về, nhưng rạn nứt Nga Tàu cũng manh nha từ đó.
Mỹ
rút khỏi miền Nam, nhưng dấu ấn tự do dân chủ còn ở lại đậm nét, có người còn
cho chính miền Nam đã giải phóng miền Bắc, khi họ nhận thức được, là
miền Nam có cuộc sống nhân bản, tiên tiến hơn hẳn miền Bắc. Dương Thu Hương đã
ngồi xệp xuống lề đường Sài Gòn để khóc khi thấy mọi người bị Cọng Sản dối gạt
để cướp đi bao xương máu dân Việt một cách đau đớn. Một chế độ tàn bạo, gian trá,
đã chiến thắng một chế độ nhân bản, văn minh tiến bộ.
Sau
75, có người thấy Nhạc Sĩ Văn Vỹ, bỏ đàn cò, hành nghề xe ôm. Vì lúc nầy, mọi
người đều sáng mắt chứ không riêng gì Văn Vỹ. Dân Miền Nam tìm dân Bắc để
nhận Họ. Còn dân Bắc vào Nam để tìm “Hàng”.
Sau
khi hàng triệu Quân Cán Chính miền Nam bị đày ải trong các Nhà Tù mệnh danh là
Trại Cải Tạo. Nhất là vì không thể chịu nỗi hà khắc của Cọng Sản, người dân làm
một cuộc trốn chạy vỹ đại, có người cho là nếu các cột đèn có chân, chắc cũng
bỏ đi. Hàng triệu người bỏ thây trên biển cả, đã đánh động lương tâm nhân loại.
Các nước trong Thế Giới Tự Do phải can thiệp để cứu. Phước đức, Mỹ nhận ra được
trách nhiệm, đã tình nguyện nhận lãnh gia đình những người một thời là chiến
hữu của họ.
Người
Miền Nam trước đây, sống trong xã hội khai phóng, nhân bản. Với con tim nhân
ái, đã dang tay đón nhận người anh em phương Bắc, trong cuộc di cư vỹ đại năm
54. Nay họ được Nước Mỹ cưu mang lại, họ “gieo nhân lành, nay gặt quả ngọt”.
Nhưng cũng phải nói, chúng ta đã vui vẻ hòa nhập với xã hội mới, để xây dựng
chốn tạm dung thành một xã hội đa văn hóa, giàu mạnh.
Đất
nước Mỹ lại không phải của riêng ai, đây là một quốc gia đa chủng, đất hứa của
những người có lý tưởng, yêu chuộng tự do, công bằng, bác ái. Xưa kia, các con
tôi từng bị chính quyền Cách Mạng phân biệt đối xử, đã có thời cảm thấy lưu
vong, phải sống tha phương ngay trên quê hương mình. Chúng từng thấy cha mẹ
chúng chịu những “đòn thù” của kẻ tự cho là đỉnh cao trí tuệ, nhưng cư xử với
đồng bào mình bằng “lòng hờn căm cao ngút trời” (lời ca trong bản Giải Phóng
Miền Nam).
Bộ
máy tuyên truyền Việt Cọng còn trưng bày Viện Bảo Tàng tội ác Mỹ Ngụy.
Họ kể và
trưng bày những đày ải của Thực Dân Pháp ở nhà tù Lao Bão, ở đảo Phú Quốc v…
v…,
Họ quên rờ lên gáy mình, vì những nơi đang giam giữ đồng bào họ, còn kinh khủng
hơn Thực Dân Pháp hay đế quốc Mỹ đã làm. Họ hèn nhát bắn chết Đại Tá Đặng
Phương Thành Khóa 16, rồi vu tội trốn chạy.
Họ lưu dung chị Đặng Thiên
Thuần (dung không có dấu nặng), một từ cách mạng dùng bày tỏ lòng dung
thứ các nhà giáo miền Nam, lúc chưa có người thay thế), vì muốn có sổ
lương thực nuôi các con, chị Thuần đã nhận lưu dung, tiếp tục đứng lớp tại Trần
Hưng Đạo Đà lạt. Đau đớn thay, sổ lương thực chưa kịp nhận, chị đã chết vì mệt
và đói.
Họ
khoe khoang “chiến thắng thần thánh” mà Lê Duẫn rêu rao khắc lên mộ bia
mình:
Ta đánh Mỹ, là đánh cho Trung Quốc, cho Liên Xô.
Tố
Hữu, đại công thần của Đảng, còn tự hào:
Ôi Việt Nam! Từ trong biển máu.
Người vươn lên như một thiên thần.
Ông
nịnh bợ một cách vô liêm sĩ:
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng, con gọi Sta-lin!
Hay:
Thương cha thương mẹ, thương chồng-
Thương mình thương một, thương Ông thương mười.
Nhà
thơ tình lãng mạn Xuân Diệu, sợ ghép tiểu tư sản, cũng sắt máu:
Thắp đuốc lên cho sáng khắp đường,
Thắp đuốc cho sáng đình làng hôm nay,
Lôi cổ bọn chúng ra đây
Bắt quỳ gục xuống, đọa đầy chết thôi!
Tài
nịnh bợ và lời dối trá, chỉ có những kẻ da mặt dày như da trâu, mới nói mà
không đỏ mặt. Cũng như sự tàn ác với chính đồng bào mình. Vượt xa bọn Phát Xít
Nhật.
Ngày
nay, mạng lưới tuyên truyền cùng bưng bít sự thật, đã mất tác dụng trong thế
giới chúng ta. Trận Hải Chiến hào hùng với Tàu Cọng năm 74 để giữ đão Trường Sa
của Quân Lực Việt Nam Cọng Hòa, không còn dấu diếm được ai. Những người chung
chăn với họ, như Vũ Thư Hiện, Bùi Tín, Dương Thu Hương, và sau nầy là Trần
Đĩnh, đã cho thế giới thấy bộ mặt thật nham nhở của chế độ Cọng Sản.
Hôm
nay, ngồi hồi tưởng để viết lại những chuyện xưa, với lòng thanh thản, buồn
cười nhiều hơn là vướng mắc hận thù. Tôi muốn con cháu mình biết rõ tại sao
chúng bỏ nước qua đây? Cha mẹ chúng có phải là kẻ từng có tội ác với dân nhân
mình, như Cọng Sản nhồi nhét vào đầu óc thế hệ chúng hay không? Hay chỉ là
những nạn nhân của một chủ nghĩa Cọng Sản ngoại lai, và guồng máy tuyên truyền
láo khoét?
Vì
không thể sống chung với chế độ phi nhân, phải đành đứt ruột rời bỏ Quê Hương
bản quán sang đây. Hi vọng một ngày nào đó đất nước không còn Cọng Sản. Có thể
tôi sẽ tìm về. Vì tình yêu quê hương, tình cảm dành cho nơi chôn nhau cắt rún,
nơi có mồ mã cha ông, nơi có bà con quyến thuộc, đã trở thành dòng máu chảy
trong huyết quản.
Nhưng
các con tôi có trở về xây dựng Quê Hương hay không, thì tùy chúng. Tôi chỉ mong
chúng, sau khi đọc những dòng nầy, có thêm hiểu biết và nhận thức, để kề vai
với người bản xứ, xây dựng một xã hội tự do, dân chủ, phú cường, cho chúng và
con cái. Vì, tục ngữ ta có câu: “đất lành thì chim đậu”.
Nguyễn Cửu Nhồng.
January-2015.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment