Saturday, February 7, 2015

Lãnh đạo Pháp, Đức, Nga họp bàn về kế hoạch hòa bình Ukraine


Lãnh đạo Pháp, Đức, Nga họp bàn về kế hoạch hòa bình Ukraine

Edwards AFB : Documentary on Edwards Air Force Base



image





Preview by Yahoo


Từ trái: Thủ tướng Đức Angela Merkel, Tổng thống Nga Vladimir Putin và Tổng thống Pháp Francois Hollande họp tại Moscow 6/2/15
Từ trái: Thủ tướng Đức Angela Merkel, Tổng thống Nga Vladimir Putin và Tổng thống Pháp Francois Hollande họp tại Moscow 6/2/15
·    
·    
·    
·  

Tin liên hệ

07.02.2015
Thủ tướng Đức Angela Merkel và Tổng thống Pháp Francois Hollande mở cuộc họp với Tổng thống Nga Vladimir Putin ở Moscow, và theo dự kiến đưa ra một đề nghị hòa bình mới với ông nhằm chấm dứt tình trạng leo thang giao tranh giữa các lực lượng Ukraine và thành phần ly khai thân Nga ở miền đông Ukraine.
Cuộc họp hôm thứ Sáu diễn ra một ngày sau khi các nhà lãnh đạo Đức và Pháp gặp Tổng thống Ukraine, được Tây phương hậu thuẫn, Petro Poroshenko trong thủ đô Kyiv.
Trước cuộc họp ở Moscow, Thủ tướng Merkel nói rằng sáng kiến bà và ông Holland đưa ra với ông Putin nhằm bảo vệ “hòa bình châu Âu”. Thủ tướng Đức nói:
“Chúng tôi tin rằng sẽ không có giải pháp quân sự cho cuộc xung đột này. Nhưng chúng tôi cũng biết câu hỏi hoàn toàn để ngỏ, là liệu chúng tôi có thành công hay không trong việc đạt được một cuộc ngưng bắn qua các cuộc đàm phán này. Chúng tôi không biết liệu chúng tôi có thành công hôm nay hay không, hay liệu cần có thêm các cuộc đàm phán nữa. Chúng tôi không biết liệu thời gian đàm phán ở Moscow hôm nay sẽ dài hay ngắn hơn, cũng như liệu có phải là cuộc đàm phán cuối, chúng tôi chỉ làm những gì trong quyền hạn của chúng tôi – tình hình biến động nhanh chóng và chúng tôi cố gắng đóng góp tận lực để tìm giải pháp cho cuộc xung đột này, và đặc biệt là chấm dứt cuộc đổ máu.”
Ông Hollande, hôm thứ Năm, mô tả đề nghị hoà bình là “một giải pháp mới cho cuộc xung đột, dựa trên sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine.” Tổng thống Poroshenko nói kế hoạch hoà bình này ‘khơi lên niềm hy vọng’ cho một cuộc ngưng bắn.

Tại Bruxelles hôm thứ Sáu, Phó Tổng Thống Mỹ Joe Biden tố cáo Nga tiếp tục làm cuộc xung đột ở Ukraine leo thang bằng cách “gửi lính đánh thuê và xe tăng.”
Ông Biden là một trong số các lãnh đạo thế giới, các nhà ngoại giao và giới chức quốc phòng dự kiến sẽ có mặt ở Munich vào chiều tối Thứ sáu để dự hội nghị an ninh kéo dài 3 ngày, nơi mà cuộc khủng hoảng Ukraine nằm cao trong nghị trình làm việc. Theo chương trình, Tổng Thống Ukraina Petro Poroshenko, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ John Kerry và Ngoại Trưởng Nga Sergei Lavrov cũng sẽ dự cuộc họp.
Cũng trong ngày thứ Sáu, các phần tử ly khai thân Nga và các giới chức Ukraine đã thoả thuận về một cuộc ngưng bắn tạm thời, để mở ra một hành lang nhân đạo hầu có thể sơ tán thường dân ra khỏi các khu vực bị tàn phá ở miền đông Ukraine. Các đoàn xe buýt, hôm Thứ sáu, đã đến thị trấn Debaltseve, nơi dân chúng bị kẹt giữa trận chiến ác liệt.
Cơ quan tị nạn Liên hiệp quốc UNHCR, hôm Thứ sáu nói rằng giao tranh trong vùng Donets ở miền đông Ukraine đã gia tăng con số người lánh nạn trong nước lên 980.000 người. UNHCR nói rằng 600.000 người Ukraine khác đã xin tị nạn hay các hình thức lưu ngụ hợp pháp trong các nước láng giềng trong đó có Nga, Belarus, Moldova, Ba Lan, Hungary và Roumania kể từ tháng 2 năm 2014 đến nay.


Dự luật Mỹ trừng phạt các cơ sở làm ăn với Bắc Triều Tiên
mediaLãnh đạo Bắc Triều Tiên đọc thông điệp đầu năm ngày 1/1/2015/. ( Ảnh do KCNA phổ biến)REUTERS/KCNA
Hôm qua 05/02/2015, theo Reuters, một số nghị sĩ Hoa Kỳ thuộc cả hai đảng Cộng hòa và Dân chủ đệ trình một dự thảo luật mở rộng các trừng phạt đối với Bắc Triều Tiên, đặc biệt nhắm vào các doanh nghiệp nước ngoài có làm ăn với Bình Nhưỡng. Hiện tại, ước tính 90% hàng xuất khẩu của Bắc Triều Tiên là sang Trung Quốc.
Dân biểu Ed Royce, chủ tịch Ủy ban đối ngoại Hạ viện – người đồng bảo trợ dự luật - cho biết dự luật nói trên nhắm vào các tài khoản tại Mỹ của những doanh nghiệp có quan hệ trực tiếp với các hoạt động bất hợp pháp của Bắc Triều Tiên, như chương trình hạt nhân, buôn lậu, rửa tiền, các xâm phạm nhân quyền, hay hoạt động tin tặc chống Hoa Kỳ. Vẫn theo theo dân biểu Ed Royce, mục tiêu của lập pháp Mỹ là ngăn chặn Bắc Triều Tiên có được « ngoại tệ mạnh, cũng như một số nguồn lợi giúp chế độ Bình Nhưỡng duy trì được quyền lực ».
Dự luật nói trên của một nhóm dân biểu được đưa ra nhằm trả lời cho các lo ngại tại Hạ viện Mỹ, sau loạt tấn công tin học hồi cuối năm ngoái nhắm vào hãng Sony Pictures, đồng thời trong bối cảnh cộng đồng quốc tế bất lực trong việc ngăn chặn tham vọng hạt nhân của Bắc Triều Tiên.
Dự luật được nhiều nghị sĩ Cộng hòa và Dân chủ ủng hộ, như Chủ tịch Ủy ban đối ngoại Hạ viện nghị sĩ Cộng hòa Ed Royce, hay nghị sĩ Dân chủ Eliot Engel – thành viên Ủy ban đối ngoại. Một dự luật tương tự được trình lên Thượng viện cũng có khả năng nhận được sự ủng hộ mạnh của các nghị sĩ hai đảng.
Bắc Triều Tiên vốn đã bị Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc ra nhiều biện pháp trừng phạt, vì chương trình vũ khí nguyên tử và các vụ thử hạt nhân. Hồi năm ngoái, Tổng thống Obama đưa ra một loạt trừng phạt mới nhằm thu hẹp liên hệ của Bắc Triều Tiên với hệ thống tài chính quốc tế.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giáo Trung Quốc Hong Lei (Hồng Lỗi) cho rằng các trừng phạt thường xuyên như vậy có thể không giúp cho việc tìm ra giải pháp cho vấn đề Bắc Triều Tiên. Còn theo ông Joshua Stanton, một luật sư ở Washington DC – được Reuters trích dẫn -, « ngược lại với cách hiểu phổ biến lâu nay, các trừng phạt hiện tại của Hoa Kỳ đối với Bình Nhưỡng yếu hơn so với trừng phạt nhắm vào Bielorus và Zimbabwe ».
Ngân hàng Trung Quốc (Bank of China) – ngân hàng lớn thứ tư Trung Quốc – tuyên bố, hồi tháng 5/2014, ngân hàng này đã đóng cửa tài khoản của Ngân hàng Ngoại thương Bắc Triều Tiên – một ngân hàng chủ yếu của Bình Nhưỡng -, do áp lực quốc tế.

Philippines tố cáo Trung Quốc lại bồi đắp đảo Đá Vành Khăn ở Trường Sa
mediaCăn cứ quân sự Trung Quốc trên đảo Đá Vành Khăn (Mischief Reef) Trường Sa - DR
Trung Quốc đã bắt đầu việc bồi đắp xung quanh Đá Vành Khăn (Mischief Reef) thuộc cụm Bình Nguyên của quần đảo Trường Sa. Một chỉ huy hải quân Philippines hôm qua 05/02/2015 loan báo thông tin trên. Đây là dấu hiệu cho thấy Bắc Kinh tiếp tục bành trướng trên Biển Đông.
Chuẩn Đô đốc Alexander Lopez, Tư lệnh Quân khu miền Tây nói với báo chí đã phát hiện một tàu nạo vét Trung Quốc tại Đá Vành Khăn, cách đảo Palawan khoảng 135 km về phía đông nam. Ông nói : « Chúng tôi không biết họ định làm gì tại Đá Vành Khăn. Từ lâu họ đã làm những chuyện như thế, nhưng chỉ riêng tại Đá Chữ Thập đã gây rất nhiều quan ngại vì Bắc Kinh cho xây dựng với quy mô lớn ».
Trong số các hình ảnh chụp được tại khu vực Đá Vành Khăn tháng 10/2014 không thấy có các hoạt động bồi đắp. Reuters cho biết các tấm ảnh này cho thấy hai công trình, trong đó có một tòa nhà ba tầng xây trên một rạn san hô, được trang bị các tua-bin và các tấm pin năng lượng mặt trời.
Năm ngoái, Tập Cận Bình đã cố gắng trấn an các nước Đông Nam Á đang lo ngại trước tham vọng của Bắc Kinh trong khu vực. Nhưng hoạt động bồi đắp các đảo nhỏ ở Trường Sa đã tố cáo mưu đồ của Trung Quốc nhằm xác quyết chủ quyền để độc chiếm Biển Đông.
Bắc Kinh đã cho cải tạo sáu đảo đá ngầm đang chiếm đóng tại Trường Sa, mở rộng diện tích đến năm lần, và các ảnh chụp trên không cho thấy cả một phi đạo và các hải cảng. Cơ quan IHS Jane’s hồi tháng 11/20104 nói rằng theo những hình ảnh có được, Trung Quốc đã mở rộng Đá Chữ Thập thành đảo nhân tạo dài ít nhất 3.000 mét và rộng 200 đến 300 mét.
Reuters nhắc lại, Trung Quốc chiếm đóng Đá Vành Khăn từ năm 1995 và dựng lên các lều, nói rằng cho ngư dân trú bão, nhưng sau đó đã điều đến cả một đạo binh đồn trú và triển khai chiến hạm cũng như các tàu tuần duyên. Còn tại Đá Chữ Thập thuộc cụm Nam Yết của Trường Sa, năm 1988 Trung Quốc đã ngăn cản tàu hải quân Việt Nam chở vật liệu đến, sau đó xây dựng căn cứ tại đây cùng với hai vòm radar và phủ sóng điện thoại.
Philippines và Việt Nam năm ngoái đã lên tiếng phản đối các hoạt động bồi đắp đảo nhân tạo nhằm thay đổi thực trạng ở Trường Sa, vi phạm các quy tắc ứng xử. Năm 2002, ASEAN và Trung Quốc đã ký kết Tuyên bố về ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC) không mang tính ràng buộc, với mục đích chấm dứt việc các nước đang đòi hỏi chủ quyền chiếm đóng và đưa quân đội đến trú phòng tại các đảo tranh chấp, nhưng những gì Bắc Kinh sau đó đã chứng tỏ ngược lại.

Thứ trưởng Quốc phòng VN gặp cố vấn Ngoại trưởng Mỹ

Quan chức cấp cao của quân đội Việt Nam cũng nói rằng nhiều lĩnh vực hợp tác, trong đó bao gồm an ninh biển, “đã có bước phát triển mới”.
Quan chức cấp cao của quân đội Việt Nam cũng nói rằng nhiều lĩnh vực hợp tác, trong đó bao gồm an ninh biển, “đã có bước phát triển mới”.
·    
·    
·    
·  

Tin liên hệ

Mỹ trao tàu tuần tra, tăng cường hỗ trợ tuần duyên VN

Một quan chức ngoại giao cấp cao của Hoa Kỳ cho VOA Việt Ngữ biết rằng Washington đã trao cho Việt Nam các tàu tuần tra biển theo như lời hứa của Ngoại trưởng John Kerry.

Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ đi về đâu?

Đảng cộng sản Việt Nam hôm nay kỷ niệm 85 năm ngày thành lập, trong bối cảnh có nhiều tiếng nói kêu gọi 'đa nguyên, đa đảng' và 'cạnh tranh bình đẳng'

Một nhà ngoại giao Bắc Hàn ở Việt Nam ‘xin tị nạn’

Một nhà ngoại giao Bắc Hàn ở VN đã biến mất hồi tháng trước, và người ta nghi là ông đang tìm cách bỏ chạy sang tị nạn tại Hàn Quốc hoặc một nước thứ ba khác

Quan chức VN lần đầu nhắc tới 'Chân dung quyền lực'

Một quan chức trong nước đã chính thức thừa nhận sự tồn tại của 'Chân dung quyền lực', nhưng nói blog này "đưa tin nhảm nhí, xấu độc" và kêu gọi "tẩy chay".
06.02.2015
Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh hôm qua (5/2) đã gặp ông Thomas Shannon, cố vấn Ngoại trưởng Mỹ trong chuyến công du tới Việt Nam.
Theo báo chí trong nước, ông Vịnh đã “đánh giá cao việc Hoa Kỳ dỡ bỏ một phần cấm vận vũ khí với Việt Nam và đề nghị sớm dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận này”.
Ngoài ra, quan chức cấp cao của quân đội Việt Nam cũng nói rằng nhiều lĩnh vực hợp tác, trong đó bao gồm an ninh biển, “đã có bước phát triển mới”.
Ông Vịnh cũng bày tỏ hy vọng rằng quan hệ Việt – Mỹ “ngày càng đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả”.
Chuyến thăm của ông  Shannon diễn ra ít lâu sau khi hai quốc gia cựu thù tổ chức cuộc đối thoại thường niên về quốc phòng, an ninh và chính trị.
Ông Puneet Talwar, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ về các vấn đề quân sự và chính trị, dẫn đầu phái đoàn ngoại giao Hoa Kỳ tham gia sự kiện này.
Trong cuộc trả lời phỏng vấn VOA Việt Ngữ sau cuộc đối thoại, ông Talwar cho biết rằng an ninh biển, nhất là vấn đề tự do hàng hải, là một trong các vấn đề quan trọng trong cuộc họp song phương.
Ông cũng cho biết thêm rằng Mỹ sẽ tiếp tục hỗ trợ củng cố lực lượng tuần duyên mà Việt Nam gọi là cảnh sát biển.
Ông nói: “Chúng tôi đã và đang tăng cường hợp tác để giúp đỡ Việt Nam phát triển lực lượng tuần duyên. Chúng tôi rất tự hào về điều đó, và chúng tôi cũng hy vọng rằng phía đối tác Việt Nam sẽ đánh giá như vậy.  Đúng, chúng tôi đã cung cấp cho Việt Nam tàu tuần tra và chúng tôi sẽ tiếp tục thực hiện điều đó để giúp lực lượng tuần duyên của Việt Nam cải thiện khả năng”.
Cuộc đối thoại tiếp theo về quốc phòng, an ninh và chính trị Việt – Mỹ tiếp theo sẽ diễn ra ở thủ đô Washington của Hoa Kỳ vào năm 2016.
2015 được coi là năm quan trọng trong mối bang giao Hà Nội – Washington khi hai nước kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao.
Thời gian qua đã có nhiều hoạt động hướng tới ngày lễ này. Hồi cuối tháng Một vừa qua đã diễn ra một buổi hội thảo nhìn lại hai thập kỷ quan hệ giữa hai quốc gia cựu thù với sự tham gia của nhiều học giả và quan chức của cả hai phía.
Ông Ted Osius, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, phát biểu: “Mục tiêu của Hoa Kỳ rất rõ ràng: chúng tôi muốn giúp Việt Nam trở thành một quốc gia lớn mạnh, giàu có và độc lập, tôn trọng luật pháp và nhân quyền.”
Theo VNA, VOA

Kẻ thù của tiến trình dân chủ hoá ở Việt Nam

·    
·    
·    
·  

Tin liên hệ

05.02.2015
Kẻ thù của dân chủ ở Việt Nam, trước hết, là chế độ độc tài. Nhưng tại sao chế độ độc tài ấy vẫn cứ vững mạnh? Câu trả lời dĩ nhiên không phải vì cái chế độ ấy…vững mạnh. Vấn đề, bởi vậy, cần được đẩy xa hơn: Tại sao chế độ ấy vẫn vững mạnh, tiếp tục vững mạnh; và dù bị dân chúng căm ghét, không có dấu hiệu gì lung lay và yếu ớt cả? Nói cách khác, cần tìm các kẻ thù của dân chủ ở ngoài chế độ độc tài.
Nhìn vấn đề như vậy, theo tôi, có hai kẻ thù chính: Một là óc tư lợi và hai là chủ nghĩa thực tiễn (realism).
Trước hết, về tư lợi, xin lưu ý là có nhiều hình thức độc tài khác nhau, từ độc tài quân chủ đến độc tài quân phiệt, độc tài cá nhân và độc tài đảng trị. Về bản chất, các hình thức độc tài ấy giống nhau: thâu tóm quyền lực và quyền lợi vào trong tay của một người hoặc một nhóm người cùng lúc với việc tước bỏ mọi thứ quyền (rights) căn bản của đại đa số quần chúng. Về mức độ độc ác, chà đạp lên quyền làm người, chúng cũng không khác nhau mấy: số nạn nhân bị giết chết dưới chế độ độc tài đảng trị của Stalin, Mao Trạch Đông và Pol Pot không hề thua kém số nạn nhân do độc tài cá nhân của Hitler sát hại. Có điều đáng buồn là, về tuổi thọ, trong thời kỳ hiện đại, loại độc tài đảng trị tồn tại lâu và khó đánh gục nhất. Lý do đơn giản: dưới chế độ đảng trị, quyền lực và quyền lợi được san sẻ cho nhiều người, do đó, lực lượng của họ rất đông và vì đông, nên cũng vững mạnh. Ví dụ ở Việt Nam, quyền lực tối cao nằm trong tay mười mấy người trong Bộ Chính trị, tuy nhiên, dưới Bộ Chính trị, có mấy trăm người trong Trung ương đảng cũng có rất nhiều quyền lực; xuống nữa, thấp hơn, tận các địa phương nhỏ, mấy triệu đảng viên cũng có những quyền lực và quyền lợi hơn hẳn dân chúng: Chính mấy triệu đảng viên ấy , vì tư lợi của họ, hay nói theo lời đại tá Trần Đăng Thanh, vì những cuốn sổ hưu của họ, trở thành những nguồn hỗ trợ cho chính quyền độc tài, làm cho chính quyền, ít nhất, cho tới nay, hầu như bất khả xâm phạm.
Nhưng kẻ thù ấy, thật ra, chưa phải là kẻ thù chính. Số lượng đảng viên đông thì đông thật nhưng dù sao cũng không nhằm nhò gì so với 90 triệu dân. Nếu tất cả dân chúng, hay chỉ cần vài trăm ngàn người dân đổ ra đường biểu tình chống lại độc tài thì, trước sức ép của thế giới, cả mấy triệu đảng viên cũng chịu bó tay. Kinh nghiệm từ các cuộc cách mạng trên thế giới từ xưa đến nay, cụ thể hơn hết, những năm gần đây tại Trung Đông và Bắc Phi, cho thấy điều đó. Độc tài có thể ra lệnh cho quân đội xả súng vào cả hàng ngàn người, thậm chí, hàng chục ngàn người, nhưng không có ai dám ra lệnh bắn cả hàng trăm ngàn người, đặc biệt trong thời hiện đại, khi, với hệ thống truyền thông đại chúng vừa tinh vi vừa nhanh chóng, việc tàn sát ấy dễ dàng lan rộng khiến cả thế giới lên án và can thiệp.
Thế thì tại sao trong một quốc gia có gần 100 triệu người không thể hoặc chưa thể có mấy trăm ngàn người xuống đường biểu tình đòi tự do và dân chủ? Câu trả lời đầu tiên, dễ hiện ra nhất, là vì sợ. Nhưng theo tôi, câu trả lời ấy chưa phải là vấn đề căn bản. Chỉ cần theo dõi dân tình tại Việt Nam hiện nay, chúng ta thấy ngay vấn đề chính của đại đa số quần chúng không phải là sự sợ hãi mà chủ yếu là người ta không thực sự quan tâm đến xu hướng dân chủ hoá. Họ không đoái hoài đến chính trị. Họ vô cảm trước hoạ độc tài. Với họ, Việt Nam do ai cai trị và cai trị thế nào không quan trọng. Điều quan trọng nhất, với họ, là họ có thể làm ăn, mua sắm xe cộ và nhà cửa. Bởi vậy, điều họ cần nhất là sự ổn định về chính trị và những cơ hội để làm giàu hoặc ít nhất, kiếm sống. Lâu nay, chúng ta thường gọi đó là tâm lý vô cảm hay chủ nghĩa mặc-kệ-nó, tuy nhiên, ẩn giấu đằng sau sự vô cảm ấy chính là óc tư lợi, chỉ nghĩ đến những lợi ích của bản thân mình và gia đình mình hơn là quyền lợi chung cho cả đất nước.
Bên cạnh óc tư lợi của các đảng viên cũng như của dân chúng nói chung, tiến trình dân chủ hóa còn có một kẻ thù khác nữa: chủ nghĩa thực tiễn (realism) của các cường quốc trên thế giới.
Trong chính trị học, khái niệm chủ nghĩa thực tiễn được sử dụng nhiều nhất trong lãnh vực quan hệ quốc tế. Nói một cách vắn tắt, chủ nghĩa thực tiễn chủ trương, một, trong quan hệ quốc tế, không có một quyền lực nào bên ngoài hay ở trên có khả năng chi phối cách hành xử giữa các quốc gia với nhau; hai, yếu tố chính quyết định sự lựa chọn của mỗi quốc gia là quyền lợi của chính nước ấy; và ba, quan hệ quốc tế, do đó, thay đổi theo từng lợi ích cụ thể chứ không phải là một ý thức hệ nào cố định cả. Trong ý nghĩa ấy, có thể nói hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả, các chính sách ngoại giao của Tây phương đều xuất phát từ quan điểm thực tiễn luận. Trên lý thuyết, họ hay nói đến vấn đề nhân quyền như một nền tảng ngoại giao, nhưng trên thực tế, mọi quyết định của họ đều tùy thuộc vào quyền lợi của quốc gia họ. Trong lịch sử, kể cả lịch sử rất gần, hơn nữa, kéo dài đến tận ngày nay, Mỹ cũng như hầu hết các quốc gia Tây phương đều duy trì quan hệ mật thiết với nhiều quốc gia còn chìm đắm dưới họa độc tài. Như với Ai Cập dưới thời Hosni Mubarak hay Pakistan và Saudi Arabia hiện nay.
Từ những kinh nghiệm ấy, chúng ta có thể đặt vấn đề: Liệu Mỹ và Tây phương có đẩy mạnh sự hợp tác chiến lược với Việt Nam trong khi Việt Nam vẫn còn độc tài và tiếp tục chà đạp lên nhân quyền hay không? Theo cách trả lời phỏng vấn của một số quan chức trong guồng máy chính trị ở Mỹ và Tây phương nói chung thì dường như là không. Họ lớn tiếng tuyên bố việc cải thiện nhân quyền là một trong những điều kiện căn bản của mọi sự hợp tác có tầm chiến lược. Với họ, dường như đó là một nguyên tắc. Nhưng đó chỉ là những lời tuyên bố. Khi việc hợp tác thực sự có lợi, người ta sẽ bất chấp tất cả những nguyên tắc và các điều kiện ấy như điều họ vẫn làm đối với các chế độ độc tài khác ở Nam Mỹ, Bắc Phi, Trung Đông từ trước đến nay. Nói cách khác, trở ngại chính trong quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ cũng như với các quốc gia Tây phương hiện nay không phải vấn đề dân chủ hay nhân quyền mà thực ra là vấn đề tin cậy: chính quyền Việt Nam phải làm sao cho thế giới thấy là họ có một chiến lược rõ ràng, đặc biệt, trong quan hệ với Trung Quốc. Tuy nhiên, sự tin cậy chỉ có thể đạt được khi người ta chia sẻ một bảng giá trị chung; trong bảng giá trị ấy, nhân quyền lại là một trung tâm. Do đó, mặc dù bị chìm phía dưới, nhân quyền vẫn là một yếu tố quan trọng trong bất cứ một liên minh nào với Tây phương. Yếu tố trung tâm này chỉ bị gạt qua một bên trong trường hợp sự liên minh trở thành thiết yếu, không thể không có.
Dĩ nhiên, người Việt, nhất là cộng đồng người Việt ở hải ngoại vẫn nên và cần tiếp tục vận động để Mỹ và Tây phương tăng cường áp lực lên chính quyền Việt Nam để cải thiện nhân quyền, nhưng cũng không nên quên tất cả những nhà lãnh đạo Tây phương đều là những nhà thực tiễn luận (realist): Cuối cùng, điều họ làm là những gì có lợi nhất cho đất nước họ.
Chứ không phải là ý thức hệ hay ý tưởng. Kể cả các ý tưởng về dân chủ và nhân quyền.

Về Tính Chính Danh Của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Nguyễn Quang Duy

Nhân 85 năm thành lập đảng Cộng sản Việt Nam, Diễn Đàn BBC đã trao đổi với ông Vũ Minh Giang, một nhà sử học tại Đại học Quốc gia Hà Nội và từng là thành viên Hội đồng Lý luận Trung ương của Đảng, về tính chính danh của đảng này.

Giành Lại Độc Lập Hay Cướp Chính Quyền
Ông Vũ Minh Giang lập luận: “Bởi vì Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trong bối cảnh đất nước mất chủ quyền. Chính Đảng đã lãnh đạo dân tộc giành lại độc lập.”
Sau khi Nhật đảo chánh Pháp, ngày 11-3-1945 Vua Bảo Đại đã Tuyên Bố Độc Lập cho Việt Nam, bãi bỏ mọi hiệp ước đã ký với Pháp:“Chiếu tình hình thế giới nói chung, và tình hình Á châu nói riêng, chính phủ Việt Nam long trọng công khai tuyên bố, kể từ ngày hôm nay, hiệp ước bảo hộ ký với nước Pháp được bãi bỏ, và đất nước thu hồi chủ quyền độc lập quốc gia…”
Đến ngày 17-4-1945, Thủ Tướng Trần Trọng Kim trình danh sách Nội các lên vua Bảo Đại phê chuẩn và Nội các Trần Trọng Kim ra mắt Quốc dân vào 2 ngày sau đó.
Trong một thời gian dài để biểu lộ sức mạnh chuyên chính vô sản đảng Cộng sản xem ngày 19-8-1954 như ngày Việt Minh cướp chính quyền. Hồi ký tướng cộng sản Hòang Cầm kể rõ chuyện xảy ra ngày 17-8-1954 như sau:
“…Đúng là cuộc mít tinh chiều nay do Tổng hội viên chức thân Nhật tổ chức. Đồng bào sẽ đến và đến đông… vì vậy theo lệnh của Uỷ ban Khởi nghĩa thành phố, chúng ta phải biến bị động thành chủ động, biến cuộc mít tinh do Tổng hội viên chức tổ chức thành cuộc mít tinh của ta. Nhiệm vụ của các tổ chức tự vệ chiến đấu chúng ta là vừa trấn áp địch, vừa bảo vệ an toàn cuộc mít tinh không cho chúng chống phá, vừa bảo vệ người của ta lên diễn thuyết vạch mặt kẻ thù, cổ động quần chúng nổi dậy khởi nghĩa cướp chính quyền…
“Mỗi người cầm một lá cờ nhỏ giấu kín, theo tôi ra ngay địa điểm mít tinh, đứng lẫn vào với dân và làm theo hiệu lệnh chung trên kỳ đài…
“Hai giờ chiều cuộc mít tinh khai mạc. Chúng tôi đứng tề chỉnh ở hàng trên, nhìn lên kỳ đài rất rõ. Một diễn giả mặc quần áo sang trọng đứng lên giới thiệu chương trình trước máy phóng thanh… Một đội viên tự vệ bên cạnh giương cao lá cờ đỏ sao vàng lên. Thế là hàng vạn người đứng dưới hô vang: Cờ Việt Minh! Cờ Việt Minh! Hoan hô cờ Việt Minh! Hoan hô cờ Việt Minh! Chúng tôi hô theo và nhanh chóng lấy cờ giấu trong túi ngực tung lên, các tổ tự vệ khác cũng làm như vậy, vừa gìơ cao lá cờ rẽ đám đông chạy từ chỗ này đến chỗ khác cổ vũ đồng bào và sẵn sàng trấn áp những kẻ trà trộn gây rối để cuộc mít tinh được tiếp tục theo hướng chỉ đạo của ta.
“Anh Lê Thám hất hàm ra hiệu, tất cả chúng tôi lại hướng về phía kỳ đài để thực hiện hiệu lệnh hướng dẫn phát ra từ trên đó.
“Theo hiệu lệnh đã quy định, ba đội viên tuyên truyền xung phong xông lên, chĩa súng dồn "ban tổ chức" vào một góc, lập tức một đội viên tự vệ của chúng tôi tiến nhanh tới chân kỳ đài vung lưỡi dao bén sắc chém đứt dây lá cờ "quẻ ly" của chính quyền bù nhìn do Nhật dựng lên rơi nhanh, một lá cờ đỏ sao vàng rất to rộng xuất hiện trên bao lơn Nhà Hát Lớn phủ kín khoảng giữa trườc mặt nhà hát…”
Còn ngày 19-8-1945, trong tiêu đề “Đánh chiếm phủ Khâm sai”, Tướng Hòang Cầm cũng đã kể rõ:
Khi đoàn biểu tình đến gần, bọn cầm đầu ‘Uỷ ban chính trị lâm thời’ ra lệnh đóng chặt cửa và cho lính dàn sát hàng rào sắt sẵn sàng nổ súng vào đội quân khởi nghĩa.
“Nhưng lính bảo an ở đây đã nghe theo lời kêu gọi của cán bộ Việt Minh. Tranh thủ thời cơ, một số đội viên tự vệ chiến đấu đã nhanh chóng leo qua hàng rào sắt, nhảy vào trong sân, đồng thời một số hội viên cứu quốc quân vòng lối sau nhảy vào phủ Khâm sai. Phối hợp khí thế bên ngoài, một số nhân mối của ta trong hàng ngũ lính bảo an tiếp tục vận động, lập tức cả anh em lính bảo an, cộng cả số mới được tăng cường hôm trước lên tới hai đại đội nhất loạt xin hàng, mang hết vũ khí khoảng 200 khẩu súng xếp thành một đống giữa sân. Lục lượng cách mạng có thêm sức mạnh, hạ lệnh cho lính gác mở cổng. Đội quân khởi nghĩa tiến vào sân, một đội viên cứu quốc trạc 15 tuổi mặc quần áo xanh công nhân được phân công từ trước trèo lên nóc nhà, hạ cờ quẻ ly xuống, kéo cờ đỏ sao vàng lên,...”
Đã đến lúc đảng Cộng sản phải trả lại sự thực họ đã dùng bạo lực để cướp chính quyền từ tay chính phủ chính danh do Thủ Tướng Trần Trọng Kim được vua Bảo Đại bổ nhiệm.

Hợp Hiến và Hợp Pháp
Được BBC hỏi về tính chính danh của đảng Cộng sản vì quyền lực không phải do dân trao, ông Vũ Minh Giang trả lời: “Đầu năm 1946, Đảng Cộng sản đã tổ chức bầu cử Quốc hội và ra Hiến pháp.”
Điều 70 Hiến Pháp 1946 quy định các thủ tục pháp lý cuả sự thay đổi hiến pháp: "Sửa đổi hiến pháp phải theo những cách thức sau đây: a/ Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu. b/ Nghị viên bầu ra một ban dự thảo những thay đổi. c/ Những điều thay đổi khi đã được nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra tòan dân phúc quyết."
Trong thời chiến, Hiến Pháp 1946 chưa bao giờ được sử dụng. Tại kỳ họp thứ 11 Quốc Hội khoá I, ngày 18/12/1959, Hồ Chí Minh đọc báo cáo về dự thảo sửa đổi Hiến pháp, ngày 31/12/1959, Quốc hội đồng ý thông qua hiến pháp sửa đổi, rồi ngày 1/1/1960, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh công bố Hiến Pháp 1959.
Việc làm nói trên hòan tòan đi ngược với Điều 70 Hiến Pháp 1946 bởi thế các Hiến pháp sau đều bất hợp hiến và bất hợp pháp, vì không có tính kế thừa và tính liên tục về mặt pháp lý, tinh thần và nội dung cuả Hiến Pháp nguyên thủy 1946.
Đảng Cộng sản đã tước đoạt quyền sửa đổi hiến pháp cuả người dân Việt Nam, vì thế, các hiến pháp sau này đã không có năng lực pháp lý xác định tính chất hợp pháp và chính thống cuả nhà cầm quyền cộng sản.
Cho đến nay Việt Nam vẫn chưa có tự do ứng cử và bầu cử, “Đảng cử Dân Bầu” là khuôn khổ dân chủ hình thức, người dân không có sự chọn lựa khác hơn nên đi bầu cho xong chuyện tránh bị phiền tóai.
Vì thế nhà cầm quyền Hà Nội chỉ là những người cầm quyền, đại diện cho đảng Cộng sản, nhưng không thể xem là đại diện chính danh cho người Việt Nam.
Về bang giao quốc tế, các quốc gia công nhận nhau dựa trên quyền lực và quyền lợi vì thế họ mới công nhận nhà nước do đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền.

Chống Pháp Chống Mỹ và Thống Nhất Đất Nước
Ông Vũ Minh Giang cho rằng: “Đảng Cộng sản có vai trò rất quan trọng là giành độc lập cho Việt Nam và kháng chiến chống Pháp thành công, và sau năm 1954, Đảng có công lao xóa bỏ cản trở để tiến tới thống nhất đất nước.”
Các quốc gia trong vùng như Nam Dương, Mã Lai, Tân Gia Ba, Brunei, Phi Luật Tân, Đại Hàn, Miến Điện không phải trải qua những cuộc chiến chống thực dân và đế quốc tổn hao tài nguyên sinh khí quốc gia, nhưng vẫn đựơc trao trả độc lập và được tự quyết định con đường phát triển quốc gia.
Điều không may là sau khi đảng Cộng sản cướp chính quyền năm 1945, Việt Nam lại phải trải qua 9 năm chống Pháp kết thúc bằng hiệp định Geneve chia đôi đất nước.
Nhưng càng không may cho Việt Nam, Bắc Việt đã xé Hiệp định Geneve 1954 và Hiệp định Paris 1973 mang quân đánh chiếm miền Nam.
Ông Võ Văn Kiệt, một lãnh đạo cộng sản từng nhận xét về sự kiện thống nhất đất nước như sau: “Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc, cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu”.

Vị Thế Việt Nam
Ông Vũ Minh Giang cho rằng: “Tuy còn nhiều thứ phải rút kinh nghiệm nhưng rõ ràng vị thế Việt Nam bây giờ đã khác trước rất nhiều.
Đương nhiên sau gần 70 năm đảng Cộng sản cầm quyền, Việt Nam bây giờ về nhiều mặt đã khác trước rất nhiều. Nhưng để đánh giá Việt Nam có tiến bộ hơn hay không là một đề tài rộng hơn.
Riêng về phát triển kinh tế, ở những năm 1940-50 Việt Nam đã vượt xa những quốc gia trong vùng.
Nhưng vì chiến tranh “giải phóng” và vì theo con đường Xã Hội Chủ Nghĩa, một con đường mà Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh phải than thở: “Làm gì có cái thứ đó mà đi tìm”.
Nên đến đầu năm nay, Thủ tướng cộng sản Nguyễn Tấn Dũng cho báo chí biết nỗi trăn trở như sau: “Sao lại cứ phải đứng sau 6 nước ASEAN? Chúng ta có đuổi kịp được ASEAN-6 không? Không có lý do gì chúng ta không cải thiện được để bằng ASEAN-6?"

Sửa Chữa hay Thay Đổi
Ông Vũ Minh Giang cho biết “…Đảng đang đứng trước những khó khăn hết sức to lớn và thách thức”, và đang quyết tâm sửa chữa những sai lầm và khuyết điểm.
Cũng chính ông Nguyễn Tấn Dũng cho biết để theo kịp nước người cần “…đổi mới thể chế và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân”.
Trên thực tế nếu Việt Nam không thay đổi thì “nỗi trăn trở của Thủ Tướng” không thể đuổi kịp 6 quốc gia ASEAN, sẽ trở thành nỗi trăn trở phải đuổi theo Cam Bốt và Miến Điện hai quốc gia đang từng bước thay đổi.
Nhưng thay đổi cũng phải đổi đúng đường, con đường dân chủ mà các quốc gia khác Việt Nam đang theo. Xin mời bạn tìm đọc bài "Nỗi trăn trở của Thủ Tướng" về đổi mới thể chế để rõ hơn về mô hình thể chế dân chủ.

Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
4/02/2015


No comments:

Post a Comment

Thanks for your Comment

Featured Post

🔥 Bản Tin Trong Ngày-11/11/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link