Saturday, December 29, 2012

8-HÃY LÀM SẠCH MÔI TRƯỜNG CHỮ NGHĨA HẢI NGOẠI

8-HÃY LÀM SẠCH MÔI TRƯỜNG CHỮ NGHĨA HẢI NGOẠI
7-Nguyên văn bản tuyên ngôn của nhóm văn nghệ "Chân Đất"
6-TÁC PHẨM GÂY TRANH CÃI-Truyện ngắn của Nhà Văn Nhật Tiến:Gặp Gỡ Ngày Cuối Năm
 5-THƠ VĂN THỜI VĂN CHƯƠNG PHẢN
8

HÃY LÀM SẠCH

MÔI TRƯỜNG CHỮ NGHĨA

HẢI NGOẠI

Một vài thân hữu có nhã ý ngỏ lời nhận xét về tôi, đã cho tôi một trong những người “rất hết lòng với chữ nghĩa”. Tôi xin cám ơn và hy vọng rằng, với hai cuốn Hành Trình Chữ Nghĩa vừa ấn hành có thể sẽ không làm phụ những tấm lòng đã ưu ái dành cho tôi cái nhận xét đó.

Nói cho đúng ra, hầu như tất cả những ai đã từng cắp sách đến trường ở vào thời buổi xa xưa, cái thời mà miệng còn ê-a những bài trong các cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp Đồng Ấu, lớp Dự Bị….thì hầu như ai đều cũng đã rất hết lòng với chữ nghĩa.

Ở vào trường hợp của tôi cũng vậy. Ngay từ hồi còn bé, tuổi thơ của tôi cũng đã thấm đẫm biết bao nhiêu là lời hay, ý đẹp mà các thế hệ cha anh đã để lại đầy dẫy trong sách vở.

Khi vừa mới bắt đầu bước vào năm đầu tiên của bậc tiểu học, tôi cũng đã từng nghêu ngao bài học trong cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp Đồng Ấu:

Hỡi các cậu bé con

đang lúc tuổi còn non,

các cậu phải chăm học,

có học mới nên khôn.”.

Rồi thì những năm sau đó, nhà trường đã luôn dạy dỗ chúng tôi toàn những lời hay, ý đẹp, những bài học luân lý dạy làm người ngay từ thuở đầu đời như “Đi học để làm gì”, “Chọn bạn mà chơi”, “Học trò biết ơn thầy”, “Làm người phải học” ..v..v..

Trải nhiều năm ròng rã của thời thơ ấu, đầu óc của tôi vẫn vang vang những câu trong các bài học thuộc lòng, như:

Thấy người hoạn nạn thì thương,

Thấy người tàn tật lại càng trông nom.

Thấy người già yếu ốm mòn,

Thuốc thang cứu giúp, cháo cơm đỡ đần.

Những lời lẽ nghe đơn giản, mộc mạc là thế nhưng đã thấm sâu vào trí não của lũ con trẻ chúng tôi, không chỉ một thế hệ mà nhiều thế hệ , để từ đó đã tạo dựng nên những con người khi lớn lên, bước vào đời sống trong xã hội đã biết tôn trọng các phẩm chất làm người

Thế mới biết thế hệ cha ông chúng ta trong chủ trương gắn bó những giềng mối như Gia đình, Học đường, Xã hội đã dụng công kiến tạo một truyền thống văn hóa vô cùng tốt đẹp mà tiếc thay, càng về sau này đã càng bị những biến động chính trị, xã hội làm cho bị bào mòn, hay hủy diệt đi.

Vậy những nguyên nhân nào đã góp phần vào sự bào mòn và hủy diệt đó?

Dĩ nhiên, thủ phạm chính yếu vẫn là đường lối, chính sách và chủ trương của nhà nước CS.

Sự tàn phá truyền thống văn hóa của CSVN đã thể hiện rõ ràng nhất qua các cuộc Cải Cách Ruộng Đất trời long đất lở mà hàng vạn gia đình đã xẩy ra những thảm kịch: con tố cha, vợ tố chồng. Bộ mặt bất nhân, tàn ác của đám lãnh đạo CS vào thời điểm bấy giờ (thập niên 50 của thế kỷ trước) đã bộc lộ rõ ràng, và chính sách của họ đã tàn phá biết bao nhiêu gia đình, hủy diệt biết bao nhiêu nhân mạng cũng như tài sản văn hóa.

Sau này, mức độ tàn phá không thể hiện cụ thể trên khía cạnh vật chất nhưng vẫn tồn tại trong chủ trương giáo dục, chỉ nhằm biến con người trở thành công cụ phục vụ cho chế độ (khác xa với nền giáo dục nhân bản truyền thống).

Hậu quả của chính sách giáo dục phục vụ chính trị này ngày nay đã bộc lộ quá rõ: kỷ luật nghiêm minh ở chốn học đường đang trên đà lụn bại, nền đạo đức xã hội càng ngày càng suy đồi...chỉ cần xem tin tức trên báo chí trong nước hàng ngày là đủ thấy rõ.

Đấy là lý do khiến cho hàng triệu con người đã bỏ nước ra đi và cho đến nay vẫn còn quy tụ trong một cộng đồng hải ngoại với lý tưởng chống CS để có Tự do, Dân chủ trên quê hương đất nước.

Tuy nhiên, công cuộc chống Cộng của người Việt hải ngoại đã nhiều khi bị nhiều kẻ nhân danh chính nghĩa này để quấy hôi bôi nhọ bằng nhiều cung cách tệ mạt, như tráo trở, đổi trắng thay đen, sử dụng những ngôn ngữ ti tiện hạ cấp làm hạ phẩm giá con người như đã thấy trên mặt báo chí hay Internet ở hải ngoại trong suốt mấy chục năm qua.

Đặc biệt, một vài bút hiệu vốn đã nổi tiếng về những thủ thuật gian manh gây chia rẽ để phá nát hàng ngũ cộng đồng mà lạ thay, hầu như ai cũng thấy mà ít ai dám lên tiếng

Sự quấy rối và phá nát hàng ngũ này đã được thể hiện qua những cung cách như sau :

- Dựng đứng bất cứ một câu chuyện nào, bất chấp sự thật, bất chấp liêm sỉ để hòng triệt hạ đối thủ nhân danh chính nghĩa chống Cộng.

- Trong tiến trình dựng chuyện, bịa đặt, xuyên tạc, thì đủ loại ngôn từ, đủ cách ví von, lươn lẹo hạ cấp nhất đã được đem ra sử dụng để triệt hạ đối thủ. Kết quả là, những bài viết, những câu thơ vần vè theo cung cách như thế đã làm nhơ nhuốc bộ mặt chân chính của Cộng đồng người Việt hải ngoại, làm gương xấu vì đã tạo thói quen dùng ngôn ngữ vô giáo dục, vu cáo, ăn nói hàm hồ, chụp mũ, bịa đặt. Điều này khiến cho thế hệ trẻ đi sau sẽ hoặc là khinh miệt trình độ giáo dục thấp kém của cha, ông, hoặc là bắt chước, đua đòi theo kiểu viết lách hung hãn, đem ứng dụng trong mọi cuộc tranh chấp cần đến sự hỗ trợ của chữ nghĩa.

Đã đến lúc tình trạng này cần phải được cộng đồng triệt để lưu tâm tới và những thủ đoạn của đám cầm bút đầu gấu, chuyên việc trấn áp và triệt hạ nhiều nhân vật có thiện chí của Cộng đồng cần phải được tiếp tục phơi bầy ra ánh sáng.

Xin lần lượt điểm qua từng tên tuổi đã và đang còn quấy hôi bôi nhọ trong địa hạt chữ nghĩa.

 

NGUYỄN HỮU NHẬT

(Còn có bút hiệu SẮC KHÔNG, phụ trách mục Chém Đá trên tờ Làng Văn của Nguyễn Hữu Nghĩa,

sau gom một số bài in thành 2 cuốn:

CHÉM ĐÁ, ĐÁ ĐỔ MỒ HÔI do Làng Văn xuất bản.)

****

Tôi (Nhật Tiến) và ông Nguyễn Hữu Nhật không hề có chuyện giao du, thân thiết để sinh lòng yêu mến hay thù oán, ganh ghét nhau. Giữa hai người chỉ có một sợi dây ràng buộc duy nhất: Nguyễn Hữu Nhật là chồng sau của nhà văn Nguyễn thị Vinh, mà gia đình chúng tôi trước đó hàng mấy chục năm thì đã coi bà Nguyễn thị Vinh như một người thân thiết, các con tôi thường gọi bà Vinh là “me Vinh”.

Nếu Nguyễn Hữu Nghĩa không post lại trên internet một đoạn của cuốn Chém Đá sau khi cuốn Hành Trình Chữ Nghĩa của tôi vừa được phát hành, thì tôi vẫn hoàn toàn không hay biết gì về việc Nguyễn Hữu Nhật đã từng liên tục bôi nhọ tên tuổi của tôi trên báo Làng Văn từ hơn 10 năm trước đó, rồi sau lại còn cho in thành sách nữa !

Nội dung đoạn Nguyễn Hữu Nghĩa đã post lên Net trong tháng 3 -2012 vừa qua như sau :

Giới thiệu sách: CHÉM ĐÁ -Tác giả: Sắc Không -Nhà xuất bản: Làng Văn

Số trang: 224-Giá : 12 mỹ kim (kể cả cước phí đường bộ trong Canada và Mỹ)-Trả bằng Paypal cho: langvan@langvan.net- Hoặc gửi chi phiếu về:Làng Văn -250 N. Service Rd. Grimsby, Ontario L3M-4E8 Canada

Mời đọc một đoạn:

CHIM HÓT TRONG LỒNG

Mỗi người Việt là một nhà thơ, trừ Sắc Không, một kẻ gần thành... nhà thơ, bởi “sở trường gồm rất nhiều sở đoản và sở đoản là chẳng có sở trường nào cả”. Ngay cái tên Sắc Không, nằm trong câu hỏi - dao chém đá có sắc không- cũng đủ sặc mùi quê rồi. Nào có biết chi về “sắc tức thị không, không tức thị sắc” trong Tâm Kinh nhà Phật, xin quí bạn đọc đừng hỏi gì cao xa thêm nữa.

Trong số những người cật vấn Sắc Không, hân hạnh thay có cả nhà văn Nhật Tiến, tác giả tập Chim hót trong lồng (có giê), hôm qua đã gay gắt hỏi Sắc Không:

- Này! Anh thấy tôi và Nguyễn Chí Thiện khác nhau ở chỗ nào?

- ……....

- Cứ nói! Giữa hai lằn đạn bắn ra. Một mình đi tới mà ta chẳng sờn. Huống hồ...

- Khác ở chỗ này: Bùi Nhật Tiến là nhân vật cai ngục trong thơ Nguyễn Chí Thiện và Nguyễn Chí Thiện là nhân vật bà sơ trong truyện của Bùi Nhật Tiến!

Chưa hết, nhà văn Nhật Tiến còn cố hỏi thêm:

- Người ta bảo ở hải ngoại này có “tam Bùi qui độc”. Hai người kia là Bùi Duy Tâm và Bùi Tín. Lạ thật, tên ba anh em chúng tôi, cùng khác cha mẹ, đều vần T. Nhưng anh thấy ai đáng mặt “đệ nhất độc”?

- Không dám. Nhưng nhà thơ Mậu Binh Hà Huyền Chi có một bài thơ nói về việc ấy. Ông có thể nghe...?

- Được!

- Tôi xin đọc:

Chó săn thua đứt chim mồi,

những tên cầm-bút-làm-bồi, gáy vang

Sông Đà bọt nổi sớm tan

giả làm Mặt Thật càng tàn rụi nhanh

Quê Người hết em lại anh

ra công giấu vuốt, che nanh Quê Nhà

Sự thật sao không nói ra:

Bởi đâu con trẻ, người già đói ăn?

****

Ngay sau khi đoạn văn kể trên được đưa lên net, một độc giả tên Hà Xuân Thắng đã gửi email chất vấn Nguyễn Hữu Nhật như sau :

From: "Thang Ha" <

Chào ông Nguyễn Hữu Nhật,

Tôi có 2 câu hỏi mong ông lấy danh dự của kẻ làm người trả lời:

1 - Có phải bút hiệu Sắc Không chính là ông?

2 – Đoạn đối thọai giữa ông và ông Nhật Tiến bên dưới là do ông sáng tác, đúng không?

Ngoài ra, ông Hà Xuân Thắng cũng post lên net lá thư gửi cho tôi như sau:

From: This sender is DomainKeys verified"Thang Ha" 

Kính gửi nhà văn Nhật Tiến,

Mấy ngày gần đây, trên nhiều mạng lưới toàn cầu đã có sự xôn xao về những chuyện đã từng xẩy ra trong quá khứ liên hệ tới nhà văn, nhân cuốn Hành Trình Chữ Nghĩa của ông được nhà xuất bản Huyền Trân ấn hành.

Vốn là một độc giả của ông từ lâu năm, chính nhờ cuốn Hành Trình Chữ Nghĩa này, mà một số chuyện đồn đại cũng đã được ông làm sáng tỏ. Tuy nhiên, riêng câu chuyện đối thoại giữa nhà văn Nhật Tiến và tác giả Sắc Không (nghe đâu là do ông Nguyễn Hữu Nhật ở Na Uy đội lốt) mà tôi gửi đính kèm, tôi xin được hỏi :

1) Có đúng là đã có một cuộc đối thoại như thế xẩy ra giữa nhà văn Nhật Tiến và tác giả Sắc Không hay không ? Nếu đúng, thì Sắc Không là một người khác hay chính là ông Nguyễn Hữu Nhật, người chủ trương tủ sách Anh Em và tạp chí Hương Xa ở Na Uy?

2) Nội dung cuộc đối thoại ấy có đúng như ông Sắc Không đã viết lại hay là nó đã bị thêm bớt hay xuyên tạc đi, vì tôi thấy ngôn ngữ sử dụng cũng như ý tưởng của Nhật Tiến trong cuộc đối thoại này quá thấp kém, không phù hợp với những gì mà tôi đã từng biết về ông.

Kính mong ông làm sáng tỏ cũng như đã làm sáng tỏ chuyện “sau 1975, đeo băng đỏ hướng dẫn công an đi bắt văn nghệ sĩ “(do Nguyễn Thiếu Nhẫn vu cáo) hay chuyện “nhà văn đi quyên góp 18.000 đô la đem về VN nộp cho CS để xin in Tuyển tập Văn chương Hải ngoại” ” (như Nguyễn Hữu Nghĩa đã bịa đặt trên báo Làng Văn).

Xin cám ơn ông rất nhiều.

HÀ XUÂN THẮNG

Tôi đã trả lời lá thư kể trên với nội dung như sau:

“Kính gửi ông Hà Xuân Thắng,

Xin cám ơn nhã ý của ông đã theo dõi những chuyện thị phi xoay quanh quãng đời cầm bút của tôi trong vài chục năm vừa qua. Cũng may nhờ nhà Huyền Trân phát hành cuốn Hành Trình Chữ Nghĩa mà một vài chuyện thị phi đã được làm cho sáng tỏ. Riêng câu chuyện đối thoại giữa tôi và ông Sắc Không mà ông có gửi kèm theo 2 câu hỏi, thì tôi xin được trả lời như sau :

1) Đây lại là một thứ chuyện bịa đặt một cách trắng trợn nhằm bôi nhọ tư cách của tôi do tên Sắc Không nào đó viết ra. Thật tình, tôi không hề có bất cứ một sự liên hệ nào với ngòi bút mang bút danh Sắc Không dù qua hình thức thư từ, điện thoại hay email chứ đừng nói là đã đối diện nhau để có cuộc đàm thoại mà trong đó tôi đặt ra những câu hỏi hết sức thấp kém như thế.

Còn chuyện ngòi bút Sắc Không có phải là Nguyễn Hữu Nhật hay không thì tôi cũng không thể trả lời. Bởi vì tuy tôi có biết ông Nguyễn Hữu Nhật từ thời còn ở Sài Gòn trước 1975, nhưng khi ra tới hải ngoại, tôi không hề có sự liên lạc nào với ông ta, ngoại trừ có lần ông ấy từ Na Uy ghé Nam Cali để nói chuyện ở trụ sở báo Người Việt thì tôi cũng ghé qua chào hỏi theo tính cách xã giao nhân danh tôi còn làm việc ở tòa soạn báo Việt Tide có trụ sở ngay gần đó.

Thế thôi !

2) Tuy nhiên tôi lại được đọc một đoạn như sau trong cuốn “Trận Giặc Văn Bút” do tác giả Đặng văn Nhâm viết, tôi thấy có hé lộ vài chi tiết liên hệ giữa tác giả Nguyễn Hữu Nhật và bút danh Sắc Không. Tôi xin trích lại để giúp ông tìm hiểu thêm, mặc dù tôi không thể kiểm chứng được những gì mà ông Đặng văn Nhâm đã viết ra về 2 nhân vật này. Xin ông hãy chỉ coi đoạn trích dưới đây như một thứ tài liệu để tham khảo thôi:

“ Hơn thế nữa, NG.H. Nhật ….đã viết trên tờ Làng Văn, số 157, trang 98, núp dưới bút hiệu “Sắc Không” nồng nặc sặc sụa mùi Thiền , bịa chuyện để nhục mạ bà Thụy (tức nhà văn Trương Anh Thụy), …..bằng những lời đểu cáng, cực kỳ tục tĩu chưa từng thấy trong lịch sử văn, báo giới VN…”

(Trận Giặc Văn Bút, trang 187 do

Việt Nam Văn Hiến ấn hành năm 2000 tại Cali)

Sau cùng, xin một lần nữa rất cám ơn ông trong những nỗ lực mà ông đã bỏ ra để đi tìm sự thật cho sinh hoạt chữ nghĩa cũng như trả lại sự công bằng cho những người công chính. NHẬT TIẾN

***

Rồi lại thêm một chuyện động trời nữa xuất hiện trên net : Nhà thơ Hà Huyền Chi hiện cư ngụ ở Portland đã lên tiếng rằng bài thơ trích trong đoạn “Chim Hót Trong Lồng” mà Nguyễn Hữu Nghĩa “mời đọc một đoạn” để giới thiệu cuốn Chém Đá (như đã nêu ở trên) tuy nói ông là tác giả nhưng thực sự là ông không hề sáng tác bài thơ này.

Email của Hà Huyền Chi viết như sau :

“ Hhc, Maubinh không phải là tác giả của bài thơ này :

Chó săn thua đứt chim mồi,

những tên cầm-bút-làm-bồi, gáy vang

Sông Đà bọt nổi sớm tan

giả làm Mặt Thật càng tàn rụi nhanh

Quê Người hết em lại anh

ra công giấu vuốt, che nanh Quê Nhà

Sự thật sao không nói ra:

Bởi đâu con trẻ, người già đói ăn?

Trước đây NHNghiã từng mạo danh HHC trong 1 bài đánh Viên Linh, in trong sách. (HHC đã chính thức trả lời NHNghĩa trên tờ VanNgheTienPhong và còn giữ bản lưu)”

HHC

****

Mà không phải Nguyễn Hữu Nhật chỉ “làm thơ” giấu mặt dưới bút hiệu Sắc Không để nhục mạ tôi có một lần.

Do Nguyễn Hữu Nghĩa mới đây nhẩy vào quảng cáo cuốn Chém Đá để kiếm thêm ít tiền lẻ, nên tôi mới có dịp tìm đọc uốn sách này, và thấy Nghĩa đã vô tình để lộ bộ mặt tráo trở, hèn hạ của Nguyễn Hữu Nhật.

Thật vậy, trong suốt chiều dài 2 cuốn sách của Nguyễn Hữu Nhật (cuốn Chém đá và cuốn Đá Đổ Mồ Hôi) nội dung đã phơi bầy biết bao nhiêu nạn nhân bị nhục mạ , kể cả tôi cũng bị mang ra bêu riếu nhiều lần (mà hẳn Nguyễn Hữu Nhật muốn giấu kỹ từ khi qua San Jose tính chuyện phát triển công cuộc làm ăn ngành xuất bản báo chí tại địa bàn có đông người Việt định cư, nhưng việc không thành).

Sau đây là một bài thơ khác mà trong cuốn Chém Đá (trang 151), Nguyễn Hữu Nhật bịa đặt ghi là của Mậu Binh (một bút hiệu khác của nhà thơ Hà Huyền Chi) :

DA NGÀ, BIA NGOẠI

(Thơ Mậu Binh)

Lòng bát úp lật ngửa trôn

Viết văn, đánh-đĩ-tâm hồn, từng câu

Ta về chẳng biết đi đâu

Tìm nguồn cảm hứng cho sầu bớt dâng

Lồng to, chim bé bâng khuâng

hót bao nhiêu tiếng cũng không nghĩa gì

Da ngà bọt trắng mép ly

Bia ôm Cửa Mở, mặt lỳ Thềm Hoang

Hồn Người Áo Trắng lang thang

Bến Ninh Kiều *, gậm Cầu hàng * , nay đâu?

Ta, Người Thổi Kèn, bấy lâu

ống đu đủ toác, miệng ngầu máu me…

Quê Nhà trên búa dưới đe

Lại khen đổi mới còn khoe Quê người

Lập thân khốn nạn nhất đời

hợp tung văn nghệ tùy thời lưu manh?

____

* Đất tung hoành của bọn nhà “đất”

Nội dung bài thơ nhắc đến tên vài tác phẩm của tôi: Chim hót trong lồng, Thềm Hoang, Những người áo trắng, Cánh cửa, Tiếng kèn, Quê nhà Quê người.

Cung cách dùng chữ nghĩa và khẩu khí trong bài thơ kể trên với những câu như đánh-đĩ-tâm hồn, Lồng to, chim bé, mặt lỳ Thềm Hoang, Lập thân khốn nạn , văn nghệ tùy thời lưu manh?..Đất tung hoành của bọn nhà “Đất”, (Nguyễn Hữu Nhật muốn ngụ ý “nhà thổ”) v..v…nói lên sự phóng bút một cách vô tội vạ, vô lương tâm và bất cận nhân tình ra sao chỉ cần đọc sơ qua một lần ai cũng thấy.

Duy có điều cần nói rõ ra là: tôi đã nhờ cô Hoàng Vân, một người quen với nhà thơ Mậu Binh (tức Hà Huyền Chi ) hỏi xem ông có làm bài thơ này để in trong cuốn Chém Đá của Nguyễn Hữu Nhật không, thì nhà thơ đã trả lời như sau:

“Hi Hoa`ng Va^n,

Ba`i tho* Che'm DDa' du*o*'i dda^y kho^ng pha?i cu?a Ma^.u Binh dda^u em. Te^n kho^'n na`o cho^m bu't bie^.u cu?a anh ddo' em.

MauBinh

Vâng, cái “te^n kho^'n na`o cho^m bu't bie^.u” Mậu Binh đó, còn ai khác ngoài Nguyễn Hữu Nhật nữa !

Trước sự thật đã quá rõ ràng này, Nguyễn Hữu Nhật không chối cãi được sự lươn lẹo của mình, đã thế, ông ta còn bịa đặt thêm một câu chuyện khác nữa qua một email gửi cho Michael Bùi (nhờ Diễn đàn Chính nghĩa chuyển) mà nội dung có những đoạn như sau :

Anh Em Xuất Bản /USA 1990.

AE__3/19/2012__Kg DienDanChinhNghia__Kg OngMichael Bui

Na Uy, Oslo ngày 19 tháng 3 năm 2012

Kính gửi Diễn đàn

Xin diễn đàn giúp chuyển vi thư. Đa tạ.

Kính.

Nguyễn Hữu Nhật.

****

Kính gửi ông Michael Bùi

(trích)

Tôi (tức Nguyễn Hữu Nhật) chỉ kể lại sự thật những gì đã xảy ra:

A_Không ai có thể ‘’hạ nhục nhục tư cách’’ của ai. VGCS đã và đang ‘’hạ nhục tư cách’’ của bao nhiêu người Quốc gia Dân tộc mà có được đâu. Ông Nhật Tiến chủ trương ‘’giao lưu, hòa hợp’’, tôi chống lại, thuộc vấn đề chính trị, như đảng Cộng Hòa, đảng Dân chủ ở Mỹ chống lại nhau về đường lối chính trị, không ai đặt vấn đề ‘’tư cách’’ trong việc đó. Chẳng qua loại ‘’biếm văn’’ có nhiều cách viết. Nó thường được “hư cấu’’ như tranh hí họa (cartoon). Biếm họa thường cay độc hơn biếm văn nhiều. Tôi thành thật xin lỗi ông nếu ông cho rằng cuộc “phỏng vấn’’ phải phải có thật.

B_Năm 2005, tôi qua Mỹ để ra mắt sách tại Phòng Sinh Họat của Nhật báo Người Việt. RMS (Ra Mắt Sách) khó có thể là ‘’bành trướng sự nghiệp’’? Ông bà Nhật Tiến có tới dự. Buổi ra mắt sách được gia đình ông Nhật Tiến tặng cho chiếc bánh lớn đãi quan khách. Tôi nghĩ là “anh em’’ có dấu hiệu ‘’cảm thông’’ vì sách CĐ do nxb Làng Văn in năm 1997, sau 8 năm mọi chuyện đã khác, kể cả quan điểm chính trị của ông Nhật Tiến, sau vụ Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương thất bại. Cho tới giờ, năm 2012, hỏi hoa vàng nào còn nở nữa không? Trói, cởi trói, rồi trói lại. CS giờ đây vẫn chơi trò ‘’trăm hoa đua nở’’ của Mao?

C_Sau buổi sinh hoạt, chúng tôi đến thăm tư gia ông Nhật Tiến, hình như hôm đó có cả ông Michael Bùi. Chúng tôi nói chuyện văn chương, chữ nghĩa, bình thường. Ông Nhật Tiến còn bảo ‘’có gì’’ thì gửi cho báo Việt Tide. Và báo Việt Tide của ông Nhật Tiến còn đăng phóng sự, hình ảnh buổi ra mắt sách của tôi, tôi còn lưu giữ số báo đó. Thăm xong, chúng tôi về nơi ở của mình.

D_Hai năm sau, sinh hoạt ra mắt sách tại San Jose, chúng tôi từ nơi ở riêng, được mời tới thăm nhà ông anh của ông. Ông nói đúng ‘’ở vài ngày’’. Nay trở thành vì miếng ăn, nơi ở. Nơi chúng tôi ở, nhiều bà con, bạn văn nghệ, bạn đọc dễ đến thăm chúng tôi hơn là ở nhờ riêng một tư gia nào, dù không ít tư gia bạn bè có nhã ý cho tá túc. Đó là sự thật.

E_Bút danh SK chỉ là muốn ‘’chơi chữ’’, hỏi dao có sắc/bén không, như đã in ở trang đầu sách CĐ. Làng Văn 1997, để tránh sự hiểu lầm. Nó không dính dáng gì tới hai chữ ‘’sắc không’’ mà nhà Phật thường dùng. Một vài ‘’nickname’’ đã lạc đề.

F_Xin nhắc lại, ông viết: ‘’…Nhưng nói gì thì nói, dù sao me Vinh vẫn là me của chúng tôi muôn đời muôn thuở, và cũng vì cái chữ tình, tôi sẵn sàng gom góp để lo cho ông ở Motel 6 nếu thật sự ông cần đến nó, ông nhớ chưa?..’’ Xin cảm ơn ông, nhờ mère / me / mẹ Vinh, mà ông chỉ ‘’cấm cửa’’ tôi, nhưng vẫn có ‘’nhã ý’’ cho tôi ở ‘’motel 6’’.

6/ Cũng ‘’vì cái chữ tình’’, tôi xin kể thêm đôi chút:

a- Khoảng ngày 27, 28 tháng 4 năm 1975, Sài Gòn hỗn loạn lắm rồi. Ông Nhật Tiến và tôi đến văn phòng Trung tâm Văn bút Việt nam, đường Đoàn Thị Điểm, lên lầu thấy cửa khóa. Tôi phải để ông Nhật Tiến tháo giày, đứng lên vai tôi, cố gỡ tấm lưới thông gió. Chúng tôi muốn lấy con dấu của Văn Bút để lập danh sách văn nghệ sĩ nào cần di tản. Tiếc thay Chủ tịch Lm. Thanh Lãng đã mang đi hết rồi. Ông Thanh Lãng chủ trương ở lại. Lúc đó hình như, tôi không nhớ, Phó chủ tịch Văn Bút là ông Nhật Tiến.

b- Hành động ‘’khuất tất’’ trên nói lên điều gì? Ông Nhật Tiến và tôi không là CS! Cũng như phần đông người vượt biển đều chống Cộng. Chỉ cách chống Cộng khác nhau thôi.

c- Năm 1989, tôi ra ngoài này, giữa lúc Liên Sô và Đông Âu tan rã, CS Việt chới với. Tôi không hiểu tại sao khá đông văn nghệ sĩ tỵ nạn CS, lại lại xuất bản và tham dự Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương? Sau 2 lần, 11 năm tù qua các trại tập trung, 4 năm quản chế, tất nhiên tôi chống mọi khuynh hướng ‘’giao lưu, hòa hợp’’ với CS. Tự nhiên nó như thế. Trước và sau năm 1975, hàng triệu gia đình người miền Nam đã tan cửa, nát nhà, tù đầy, vượt biển, chết chóc, bị làm nhục, sự không may mắn của đời riêng tôi nào nghĩa lý gì? Khi mối nhục chung của đồng bào ta, là quốc nhục, cũng là nỗi nhục của riêng tôi.

d- d- Cái khó khăn cho tôi là tôi đã bất đồng chính kiến với một vài người trong họ, với cả đôi người thân quen, dù họ từng là bạn học, bạn lính, bạn tù, bạn văn… Để chống lại sự độc tôn, độc đảng, độc tài, tôi chấp nhận bị đối phương xuyên tạc, đả kích, mạ lỵ…

7/ Thưa ông Michael Bùi, về văn học, tác giả Thềm Hoang là một nhà văn có tài, nhân bản, cùng với các sáng tác khác trước 1975. Sau 1975, nội dung sách in đã khác. Tôi mong rằng sau lá thư này, tôi nên giữ im lặng. Vì tôi chỉ có một, duy nhất, đối tượng cần phải viết, nói đến nhiều hơn nữa là Việt gian CS. Phần khác, tôi cũng không để CS khai thác mâu thuẫn, của người tỵ nạn CS, ở ngoài này, nếu có.

Tôi không nghĩ ông gây khó xử cho tôi. Nhất là khi chính ông Nhật Tiến cũng không muốn lên tiếng. Tôi im lặng cũng kỳ. Trả lời thì dễ rơi vào cảnh ‘’tiếng bấc đi, tiếng chì lại’’ như nhiều chuyện trong ‘’thiên hạ’’? Tôi thiết nghĩ chúng ta nên ngừng ở đây. Một lần nữa, tôi vẫn muốn xin lỗi ông và đặc biệt xin lỗi quý vị trên các diễn đàn ngày đêm đang lo cho vận nước, trong khi nghe chuyện của tôi, chỉ thêm rác tai quý vị.

Nước ta giờ đang mất dần, không phải chỉ Miền Nam năm 1975 đã mất. Ngày 1 tháng 5 năm 1975, tôi còn nhớ trong sân nhà của ông bà Nhật Tiến, hình như đường Thiệu Trị, Phú Nhuận, bà PK, thân mẫu của ông, ngồi xé từng cuốn sách để đun nước, pha trà, không chịu nộp cho CS. Sài Gòn thất thủ. NTV và tôi đã khóc cùng ông bà Nhật Tiến. Làm gì có chuyện ông Nhật Tiến ‘’đeo băng đỏ, dẫn công an, đi bắt anh em’’! Cơn ác mộng chưa qua. Sách CĐ viết và in cách nay 15 năm. Một lần nữa tôi xin lỗi đã làm ông phải bận tâm. Tôi vẫn biết ‘’hãy nói về hoa hồng, để mình được thơm lây.’’

Nhưng nếu gõ về VGCS và bọn ‘’tay sai, cò mồi, bồi bút’’ lúc này, bàn phím của tôi trước sau như một, vẫn:

‘’Nếu không cho lửa vào thơ được,

tôi sẽ cho thơ vào lửa ngay!’’

Trân trọng.

Nguyễn Hữu Nhật.

Nhật Tiến Trả Lời

Tôi xin có mấy điều nói về nội dung lá thư trên của Nguyễn Hữu Nhật:

1) Ông Nhật viết : “Năm 2005, tôi qua Mỹ để ra mắt sách tại Phòng Sinh Họat của Nhật báo Người Việt. RMS khó có thể là ‘’bành trướng sự nghiệp’’? Ông bà Nhật Tiến có tới dự. Buổi ra mắt sách được gia đình ông Nhật Tiến tặng cho chiếc bánh lớn đãi quan khách. Tôi nghĩ là ‘’anh em’’ có dấu hiệu ‘’cảm thông’’ vì sách CĐ do nxb Làng Văn in năm 1997, sau 8 năm mọi chuyện đã khác, kể cả quan điểm chính trị của ông Nhật Tiến, sau vụ Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương thất bại.”

Xin nói ngay rằng vào thời điểm đó (2005) khi ông Nguyễn Hữu Nhật ra mắt sách tại tòa soạn báo Người Việt, tôi không hề hay biết gì về chuyện ông ta đã nhục mạ tôi trong cuốn Chém Đá bằng cách bịa đặt một cuộc đối thoại giữa tôi và ông ta và cài vào miệng tôi những câu hỏi nghe rất hạ cấp. Rồi lại còn bài thơ ông ta mạo danh Mậu Binh cũng in trong cuốn sách ấy của ông với đầy dẫy những lời nhục mạ tôi như đánh-đĩ-tâm hồn, Lồng to, chim bé, mặt lỳ Thềm Hoang, ống đu đủ toác, miệng ngầu máu me…Lập thân khốn nạn , văn nghệ tùy thời lưu manh.

Nói trắng ra, nếu tôi biết được Nguyễn Hữu Nhật đã làm những câu thơ này đem đăng báo Làng Văn rồi lại còn in thành sách thì hồi đó không bao giờ tôi lại ghé qua báo Người Việt để chào xã giao ông ta vào cái hôm ông ra mắt sách dù trong lòng tôi vẫn rất muốn gặp nhà văn Nguyễn thị Vinh có ông Nhật đi theo vì ông là chồng sau của bà Vinh.

Và nhất là nếu biết được sự thể ông là tác giả những câu thơ hạ cấp kiểu “Xốc quần quần tụt tụt quần. Xốc sao cho bọn cù lần mỏi tay” đặt trong bài nói về bà Khúc Minh Thơ như thế thì tôi cũng đã không ngỏ lời mời ông ta “có gì’ thì gửi cho báo Việt Tide” bởi vì thứ chữ nghĩa bệnh hoạn như thế sẽ chỉ làm bẩn mắt độc giả , không đời nào tôi lại chứa chấp trong nội dung của tờ Việt Tide.

Tôi thực tình không hiểu tâm địa của ông thế nào mà sau khi đã làm tất cả những chuyện như thế mà cho đến bây giờ vẫn còn đi khoe : “Và báo Việt Tide của ông Nhật Tiến còn đăng phóng sự, hình ảnh buổi ra mắt sách của tôi, tôi còn lưu giữ số báo đó...”.

Vâng, đúng là Việt Tide đã có bài tường thuật buổi ra mắt sách của ông Nguyễn Hữu Nhật.

Nhưng cái sự khoe khoang này chỉ nói lên một điều rằng: hồi đó, cũng như bao giờ, tôi vẫn luôn trân trọng đối với các sinh hoạt chữ nghĩa. Một khi ông mang sách từ Na Uy qua Nam Cali để ra mắt , thì đang còn làm việc ở báo Việt Tide, tất tôi phải phụ với tòa soạn viết bài tường thuật buổi ra mắt sách của ông chứ. Trừ phi tôi biết ông còn có bút hiệu Sắc Không, phụ trách mục Chém Đá trên báo Làng Văn của Nguyễn Hữu Nghĩa thì tôi sẽ không đối xử trân trọng với ông như thế. Bởi những gì ông đã viết ra chứng tỏ ông không phải là con người tôn trọng chữ nghĩa.

Và bây giờ thì tôi lại có thể nói rõ thêm ra rằng ông đã chỉ lợi dụng chữ nghĩa bằng cái tài láu cá vặt của ông để quấy hôi bôi nhọ và làm nhem nhuốc khuôn mặt chống Cộng chân chính của người Việt và gây chia rẽ trong hàng ngũ văn nghệ sĩ hải ngoại mà thôi.

Nếu tôi có phải mất công in thêm cuốn Hành Trình Chữ Nghĩa tập 2, tức Sự Thật Không Thể Bị Chôn Vùi này thì cũng chỉ là vì muốn cho toàn thể cộng đồng người Việt hải ngoại khỏi bị những con người như Nguyễn Hữu Nhật, Nguyễn Hữu Nghĩa lừa bịp, dối trá, luôn luôn dùng báo chí, sách vở để trấn áp và triệt hạ những người công chính theo những ý đồ gian manh mà rất nhiều người trong văn giới, báo giới đều biết rõ nhưng hầu như ai cũng không muốn dây với những kẻ xứng đáng được gọi là “lũ đầu gấu trong sinh hoạt văn học, nghệ thuật ”

Còn chuyện gia đình tôi tặng một chiếc bánh lớn đãi quan khách, lý do không phải vì cuốn sách của ông Nhật mà vì lý do chúng tôi chào mừng sự hiện diện của nhà văn Nguyễn thị Vinh từ Na Uy xa xôi qua Nam Cali, vì bà cũng hiện diện trong buổi ra mắt sách đó của ông ta vậy.

2) Ông Nhật cho đến bây giờ (tháng 3-2012) còn kể lại một chuyện như đã nêu ở trên như sau : “Khoảng ngày 27, 28 tháng 4 năm 1975, Sài Gòn hỗn loạn lắm rồi. Ông Nhật Tiến và tôi đến văn phòng Trung tâm Văn bút Việt nam, đường Đoàn Thị Điểm, lên lầu thấy cửa khóa. Tôi phải để ông Nhật Tiến tháo giày, đứng lên vai tôi, cố gỡ tấm lưới thông gió. Chúng tôi muốn lấy con dấu của Văn Bút để lập danh sách văn nghệ sĩ nào cần di tản. Tiếc thay Chủ tịch Lm. Thanh Lãng đã mang đi hết rồi. Ông Thanh Lãng chủ trương ở lại. Lúc đó hình như, tôi không nhớ, Phó chủ tịch Văn Bút là ông Nhật Tiến.”

Ghê gớm thay cho sự trắng trợn khi con người ta quen thói bịa đặt. Tôi có thể nói một cách minh bạch và rõ ràng rằng câu chuyện tôi tháo giầy đứng lên vai ông Nhật để cậy gỡ tấm lưới thông gió của trụ sở Văn Bút vào một ngày cuối tháng 4-1975 là hoàn toàn bịa đặt.

Tôi đã trả lời ông Nhật về chuyện này trong một bài phổ biến công khai trên internet như sau :

Lại thêm chuyện bịa đặt của Nguyễn Hữu Nhật liên quan đến

Nhật Tiến và Nguyễn Hữu Nhật :

Thật sự khi phải trần tình hay đôi co với một người vốn không bao giờ tôi có sẵn đôi chút kính trọng nào, nhất là mới đây, sau khi phát giác ông ta là tác giả cuốn Chém Đá, sử dụng tài vặt để về hùa cùng với Nguyễn Hữu Nghĩa của báo Làng Văn quấy hôi bôi nhọ hàng ngũ văn nghệ sĩ hải ngoại, và hạ nhục riêng tôi, thực tình tôi không còn muốn hạ bút viết một dòng nào nữa về cái bút danh Nguyễn Hữu Nhật này.

Tuy nhiên, trong một lá thư mới đây ông ta gửi cho con trai tôi (Michael Bùi), Nguyễn Hữu Nhật lại bịa đặt thêm nữa liên quan đến chuyện Văn Bút ngày xưa còn ở VN. Không muốn để cho người đọc bị lầm lẫn vì những chuyện bịa đặt như thế, tôi đành một lần nữa phải nói rõ về chuyện Văn Bút này.

Lời ông Nguyễn Hữu Nhật :

“Khoảng ngày 27, 28 tháng 4 năm 1975, Sài Gòn hỗn loạn lắm rồi. Ông Nhật Tiến và tôi đến văn phòng Trung tâm Văn bút Việt nam, đường Đoàn Thị Điểm, lên lầu thấy cửa khóa. Tôi phải để ông Nhật Tiến tháo giày, đứng lên vai tôi, cố gỡ tấm lưới thông gió. Chúng tôi muốn lấy con dấu của Văn Bút để lập danh sách văn nghệ sĩ nào cần di tản. Tiếc thay Chủ tịch Lm. Thanh Lãng đã mang đi hết rồi. Ông Thanh Lãng chủ trương ở lại. Lúc đó hình như, tôi không nhớ, Phó chủ tịch Văn Bút là ông Nhật Tiến.”

Sự Thật là :

“Cái chuyện nhiều văn hữu lui tới trụ sở Văn Bút ở đường Đoàn thị Điểm vào thời điểm cuối tháng 4-1975, trong đó có ông Nguyễn Hữu Nhật hay không thì tôi không nhớ. Nhưng cái chuyện tôi phải tháo giầy đứng lên vai ông ta để gỡ tấm lưới thông gió nhằm vào văn phòng tìm con dấu của Văn Bút, nhưng rồi con dấu bị Chủ Tịch Thanh Lãng mang đi mất rồi là chuyện hoàn toàn sáng tác của Nguyễn Hữu Nhật.

Lý do :

1) Việc đóng, mở cửa văn phòng của Trung Tâm Văn Bút là do Cụ thư ký già Nguyễn văn Hinh phụ trách. Cụ Hinh cùng toàn thể gia đình bao gồm vợ con, dâu rể, và đàn cháu lại cư ngụ ngay ở tầng dưới của trụ sở, vì thế bất cứ lúc nào ban Thường Vụ cần vô văn phòng để tìm hồ sơ, giấy tờ đều có chìa khóa để mở, can cớ gì phải làm cái chuyện trèo tường, phá lưới thông gió như Nguyễn Hữu Nhật kể lại. Về nhân vật Cụ Hinh trông nom trụ sở Văn Bút như thế nào tôi cũng đã viết rõ trong một bài in trên báo Việt Tide trước đây để bổ túc những chỗ thiếu sót của nhà thơ Du Tử Lê khi ông cũng viết về Văn Bút nhân có tin nhà báo Phạm Việt Tuyền, nguyên Tổng Thư Ký Văn Bút từ trần ở Pháp.

2) Rồi Nguyễn Hữu Nhật lại kể rằng “Chúng tôi muốn lấy con dấu của Văn Bút để lập danh sách văn nghệ sĩ nào cần di tản. Tiếc thay Chủ tịch Lm. Thanh Lãng đã mang đi hết rồi”.

“Con dấu bị mang đi hết rồi” sao lại còn có chuyện nhà thơ Nguyễn Đức Sơn đến trụ sở Văn Bút vào ngày cuối cùng để xin giấy chứng nhận có đóng dấu mà tôi đã viết lại và đã đăng tải trên báo Việt Tide từ mấy năm trước như sau:

NGUYỄN ĐỨC SƠN,

MỘT HỒN THƠ LẠC LÕNG GIỮA CHỢ ĐỜI

Tại trụ sở Trung Tâm Văn Bút Việt Nam ở số 107 Đoàn thị Điểm Sài Gòn, nếu là ở thời kỳ sinh hoạt bình thường thì ngôi biệt thự đồ sộ ấy chỉ nhộn nhịp vào những ngày Thứ Bẩy hay Chủ Nhật là những ngày có các buổi hội thảo về văn chương hay những buổi ra mắt sách. Riêng mỗi thứ Tư hàng tuần thì có buổi họp của ban Thường Vụ nên đèn đóm cũng bật sáng và có xe cộ ra vào. Nhưng khi tình hình chiến sự đã thay đổi, số hội viên lui tới trụ sở này thường xuyên hơn trước và bất kể giờ giấc. Mọi người lui tới để trao đổi tin tức, để bàn luận riêng về những chuyến đi, và đặc biệt hơn cả là thúc đẩy Ban Thường vụ sử dụng cương vị của mình để vận động những chuyến ra đi tập thể dành cho anh chị em văn nghệ sĩ. Nhưng tất cả những nỗ lực ấy không đem lại một kết quả nào. Không một hội viên nào được cung cấp phương tiện ra đi, nhân danh Trung Tâm Văn Bút Việt Nam. Rồi thì cơn sụp đổ toàn diện đã tới. !

Vào buổi trưa ngày 1 tháng 5-1975, khi Ban Thường Vụ đang lo dọn dẹp hồ sơ, giấy tờ thì thi sĩ Nguyễn Đức Sơn đạp xe tới. Ông nói :

- Tôi chẳng có bất cứ một thứ giấy tờ nào để tuỳ thân. Văn Bút cấp cho tôi một cái !

Ông Tổng Thư ký chép miệng :

- Cậu đùa sao ? Miền Nam mất rồi, Văn Bút còn tư cách gì để cấp giấy chứng nhận cho ai.

Nguyễn Đức Sơn cười ngỏn ngoẻn :

- Cứ đề mẹ nó là Văn Bút Giải Phóng, tôi đem về tỉnh, có thằng ma nào biết ai vào với ai.

Trước tình cảnh liên hệ tới sự sống còn của anh em văn nghệ, và lại ở vào những giây phút cực kỳ rối bời và hấp hối ấy, Ban Thường Vụ tự thấy nếu có thể làm được bất cứ điều gì giúp được hội viên thì cứ vượt qua nguyên tắc mà làm. Cho nên một cái giấy chứng nhận đã được đánh máy, như sau :

GIẤY CHỨNG NHẬN

Nay chứng nhận : Ông Nguyễn Đức Sơn

Sinh năm : ....

là : Hội viên của Hội Văn Bút Giải Phóng.

Giấy này được cấp cho ông Nguyễn Đức Sơn để tiện việc di chuyển.

Làm tại Sài Gòn ngày 1-5-1975

TM. ban Chấp hành

( ký tên không rõ)

Bên lề tấm giấy còn có dán ảnh của Nguyễn Đức Sơn trên ảnh có đóng triện son đỏ chói.

Có tấm giấy trong tay, Nguyễn Đức Sơn quơ tay chào mọi người rồi biến nhanh xuống cầu thang. Ông cũng không nói cho anh em có mặt lúc đó là sẽ đi đâu, làm gì.

Mãi bốn năm sau, vào khoảng giữa năm 1979, một hôm Nguyễn Đức Sơn đột ngột xuất hiện ở cửa nhà tôi ở đường Bùi Viện Sài Gòn. Quần áo của ông rách rưới, ông ngồi trên chiếc xe đạp mà từ tay lái tới khung xe, tới cái porte- bagages phía đàng sau, lủng lẳng, treo buộc hộp không, chai lọ và đủ thứ đồ. Có túm thì đựng măng khô, có túm thì củ mài, có những bọc lá thuốc không biết là để chữa bệnh gì, duy có một bọc được gói ghém cẩn thận mà ông đã giơ lên khoe :

- Trà Blao đây ! Tớ đạp xe 3 ngày từ Blao xuống . Mấy cái gói kia thì nhặt nhạnh ở dọc đường. Nhưng cái món trà này thì đích thị là quà biếu thổ sản đấy.

Tôi thực sự vui mừng chỉ thiếu điều ôm lấy ông vì thấy ông vẫn bình an, mạnh khoẻ, cất cho tôi cái điều băn khoăn vẫn canh cánh bên lòng là ông có được an toàn không, khi ông mang cái giấy chứng nhận dỏm kia trong người. Nhắc lại chuyện đó, ông cười ha hả :

- Ôi giời ơi ! Cứu tinh của tớ đấy. Ngay sau hôm đó, tớ chuồn tuốt lên Bảo Lộc và nhờ có cái giấy thổ tả này, tớ đi đâu cũng lọt. Nhưng tớ đã dẫn tuốt vợ con vô rừng, kiếm củi trồng khoai mà sống với nhau. Không có đứa nào làm phiền hết !!

(ngưng trích)

****

Chuyện xẩy ra như thế, và nhà thơ Nguyễn Đức Sơn hiện hãy còn sống sờ sờ, ai muốn tìm hiểu thì vẫn có thể thấy rõ sự thật, vậy mà lại có câu chuyện hoang đường “tôi với Nguyễn Hữu Nhật tháo gỡ tấm lưới thông gió của trụ sở Văn Bút để tìm con dấu nhưng chủ tịch Thanh Lãng mang đi mất rồi ” được sao ???

NHẬT TIẾN

****

Trong lá thư gửi Michael Bùi kể trên, Ông Nguyễn Hữu Nhật có kết luận rằng :

“ tôi (tức Nguyễn Hữu Nhật) trước sau như một, vẫn:

“Nếu không cho lửa vào thơ được,

tôi sẽ cho thơ vào lửa ngay!’’

Tôi chưa thấy ông Nhật “cho thơ vào lửa” bao giờ, nhưng ông “gắp lửa bỏ vào tay người” thì đã quá rõ, xin nhắc lại câu đối thoại mà ông đã bịa đặt ra trong mục Chém Đá đăng trên báo Làng Văn của Nguyễn Hữu Nghĩa :

“ Chưa hết, nhà văn Nhật Tiến còn cố hỏi thêm:

- Người ta bảo ở hải ngoại này có "tam Bùi qui độc". Hai người kia là Bùi Duy Tâm và Bùi Tín. Lạ thật, tên ba anh em chúng tôi, cùng khác cha mẹ, đều vần T. Nhưng anh thấy ai đáng mặt "đệ nhất độc"?”

Vậy xin nhắn ông Nguyễn Hữu Nhật một lần cuối cùng:

- Nếu ông chưa có dịp bỏ Thơ của ông vào lửa thì ông hãy can đảm bỏ ngay hai tập Chém Đá và Đá Đổ Mồ Hôi tồi tệ do ông là tác giả kia vào lửa, và đừng bao giờ để cho Nguyễn Hữu Nghĩa còn có dịp lừa đánh lừa độc giả bằng cách quảng cáo trên NET một cuốn sách dựng chuyện vu cáo người khác, và “ bán với giá 12 mỹ kim (kể cả cước phí đường bộ trong Canada và Mỹ) Trả bằng Paypal cho: langvan@langvan.net- ”.

Kiếm tiền bằng cách này cũng là một thứ làm ăn bất chính đấy, thưa ông.

---------------------------------------------------------------------

"còn tiếp........." image

   

                7

Thời điểm 1970-80

NGUYÊN VĂN BẢN TUYÊN NGÔN

CỦA NHÓM VĂN NGHỆ “CHÂN ĐẤT”

Gửi toàn thể những người đang công tác trên lãnh vực văn hóa ở miền Bắc Việt Nam.

Hỡi những văn nghệ sĩ, trí thức, những nhà văn, nhà thơ, nhà báo, họa sĩ, nhạc sĩ, những người biên kịch, đạo diễn, quay phim, những diễn viên, các nhà phê bình nghiên cứu và tất cả những ai đang làm việc và sáng tác cho nền văn hóa Việt Nam.

Chúng tôi, những anh em trẻ đang làm những công việc của người cầm bút. Chủ trương một khuynh hướng sáng tác rộng rãi và tiến bộ, gồm những người làm thơ, viết truyện, viết kịch, họa sĩ…trong những ngày gần đây đã quyết định ra lời tuyên cáo trước anh em, bè bạn trong mọi ngành văn hóa nghệ thuật.

Chúng ta sắp chết ngạt trong ao tù của một cuộc sống bị đóng kín bởi những qui định của một nền văn hóa thời chiến và vì thế mọi sáng tác phẩm đều mang khuôn mặt của người lính trong chiến tranh : khắc khổ, đơn điệu, lạnh lùng và máy móc như mệnh lệnh.

Trong khi đó, trên thế giới, những trào lưu văn hóa mới đã có những thay đổi lớn với sự giải phóng hoàn toàn con người thoát khỏi những giáo điều chật hẹp. Người nghệ sĩ mới và tác phẩm không phải là nô lệ và công cụ theo kiểu những khuôn mẫu định sẵn của môn thống kê kế hoạch.

Những năm qua, gia sản văn hóa của chúng ta quá nghèo và không có ai viết được những tác phẩm lớn theo kịp với những chuyển động của thời đại. Bởi vì chúng ta đã đóng cửa nhìn ra thế giới và bởi vì tất cả những sáng tác phẩm tự do đều không được khuyến khích mà bị dập vùi.

Chúng tôi những người cầm bút trẻ nhưng chưa một ai có nổi một đầu sách, một tập thơ nhỏ được xuất bản để ra mắt nhân dân. Điều đó, chẳng phải chúng tôi không biết viết mà bởi chúng tôi không được viết, không được tự do nói lên những điều cần phải nói. Cũng bởi chúng tôi và những anh em văn nghệ sĩ trẻ ở miền Bắc, chúng tôi không hề có trong tay bất kỳ một phương tiện nào ngoài những đêm không ngủ với trái tim chất đầy những khát vọng muốn nói lên sự thật của đất nước.

Chúng tôi không NỔI LOẠN nhưng chúng tôi không IM LẶNG.

Chúng tôi kêu gọi những người cầm bút lâu năm, những văn nghệ sĩ trí thức, những nhà văn, nhà thơ, có tên tuổi, có nhân cách vốn đã từng là những bó đuốc dẫn đường cho chúng tôi. Hãy theo đúng tinh thần nghệ thuật, đứng lên trên những thành kiến và tín điều đang vây bọc và che phủ chúng ta. Hãy lên tiếng ủng hộ chúng tôi, hỗ trợ chúng tôi để cùng nhau nối tiếp và phát huy truyền thống của nền văn hóa 4.000 năm. Hãy cùng chúng tôi vượt qua những hình thức nô lệ và bỉ ổi vốn đã từ lâu gò ép chúng ta trong mọi sáng tác phẩm. Làm chúng ta cùn mòn trong suy tư và nghèo nàn trong sáng tác.

Hãy cùng chúng tôi khai mở một trào lưu mới. Thổi luồng sinh khí đậm đà mầu sắc và tình người vào bộ mặt văn hóa của chúng ta như 40 năm trước nhóm thơ “Mới” Tự Lực Văn Đoàn đã làm.

Chúng tôi không chấp nhận việc coi những công việc sáng tác của người nghệ sĩ như những công việc của viên chức trong văn phòng các công sở và sự thai nghén tác phẩm chỉ là sự viết lại những chỉ thị từ xa. Cái thứ tác phẩm sản xuất theo kế hoạch và đơn đặt hàng chỉ có thể đầu độc mọi người và làm đần độn nhân dân. Chúng tôi cảnh cáo những mưu toan lố bịch nhằm biến nền văn hóa thành công cụ riêng của một tín ngưỡng. Hãy trở về với TỰ DO, hỡi những người cầm bút !”

Cách đây hơn 10 năm, hẳn mọi người còn nhớ những số báo “Nhân Văn”, “Giai Phẩm Mùa Thu” đã thét lên tiếng thét đòi quyền sống – quyền làm người. Chúng ta phải được sống chứ không phải “chuẩn bị sống” với “Trăm hoa đua nở, Trăm nhà đua tiếng” đã bị cả nước “lên án” do một chiến dịch tuyên truyền rộng rãi. Mà họ không được quyền viết bài bảo vệ.

Chả nhẽ chúng ta cứ say đắm và ôm ấp mãi cái thứ văn nghệ một chiều chán ngấy đó sao ? Đã đến lúc phải thể nghiệm và hơn thế phải thể hiện tính đa dạng và sự phản ánh trung thành của nghệ thuật với cuộc đời.

Bằng vào sự đập phá những thần tượng rỗng tuếch, chúng tôi không nhằm chỉ phá hoại mà chính là để xây dựng. Chúng tôi kêu gọi tất cả anh em văn nghệ sĩ, những người làm văn hóa, những người cầm bút. Hãy mở tung mọi cánh cửa để vươn tới những phương trời tự do trong sáng tác.

Và bởi vì chúng ta đang sống trong một cánh rừng đen, ở đó có quá nhiều bóng rợp, có quá nhiều những “cây đa”, “cây đề” những “thiên sứ”, những ‘chủ soái” của văn chương, nghệ thuật. Cả một lớp những cây cổ thụ đó đã phủ bóng râm lên lớp trẻ ngày nay. Hãy mạnh dạn cùng chúng tôi gạt bỏ những lề thói, những tín điều khô cứng để cùng chúng tôi đi tới chân trời mông mênh của nghệ thuật đã từ lâu nay bị che kín trong sự bao vây.

Xin hãy cầm bút lên và hãy cùng chúng tôi soi sáng mọi nhà.

Hãy xứng đáng với nền văn hóa ông cha và phải tiến xa hơn. Chúng tôi, những người CHÂN ĐẤT sẽ đi tiên phong trong trận tiến công lớn này, như những bầy người hang động đi tìm về ngọn lửa thiêng rực rỡ.

Mặc cho người ta có thể hiểu lầm và chụp mũ. Chúng tôi biết việc chúng tôi làm nó sẽ đi đến đâu. Nếu như chỉ 14 người trong khi ở đầu kia là cả những đội ngũ khổng lồ của những “bậc thầy” văn hóa !

Nhưng trong nghệ thuật cũng như chân lý, không chấp nhận một số đông không vận động.

Chúng tôi không tôn thờ và sợ hãi những người SỐNG MÀ ĐÃ CHẾT.

Nếu như chúng tôi không làm nổi và hoàn tất những gì chúng tôi muốn thì những người đi tiếp chúng tôi-những người đồng quan điểm- sẽ tiếp tục hoàn thành con đường tất yếu mà mọi người cầm bút có nhân phẩm sẽ đi tới.

Mọi con người – nếu đã là con người – phải được nói lên tất cả những gì thuộc về con người.

Nghệ thuật dành cho những trái tim con người và nó sẽ sống cho sự tốt đẹp của con người. Những hình thức của một thứ văn hóa công cụ, cố chấp và biến thành thứ phương tiện hiện đại của chiến tranh tâm lý chỉ là những hiện tượng rời rạc và sau này con cháu chúng ta sẽ không khỏi xấu hổ khi đọc đến giai đoạn này.

Để khỏi cho thế hệ sau sẽ phỉ nhổ khi chúng đọc lại lịch sử văn hóa của ông cha, ngay ngày hôm nay chúng ta phải thay đổi để xứng đáng với tiền nhân và để có thể nhìn thẳng vào ngày mai với trái tim kiêu hãnh.

Chúng ta không được phép lùi lại.

Chúng tôi, nhóm văn nghệ “Chân Đất” với những bàn chân không giầy, những con mắt bị bịt kín, những cái mồm không được nói và những cái đầu đói khát tự do, không đành để mình và tất cả bị nhào nặn thành những tên hề của lịch sử,

Chúng tôi, những con người vốn sinh ra như con người dưới mặt trời muôn thuở, kêu gọi tất cả mọi sáng tác phẩm được viết phải dành cho mọi trái tim yêu thương chứ không dạy mọi người phải căm thù và chuyên chính !

Với bộ ngực trần, chúng tôi tuyên chiến với mọi thứ văn hóa bịp bợm, lố bịch đang ngày đêm làm bẩn bầu không khí xung quanh chúng ta.

Hãy chống mọi thứ ô nhiễm đang đầu độc nền văn hiến 4.000 năm.

Và bởi vì trong khi đang lùi lại và quẩn quanh trong độc đạo những người đang dẫn dắt chúng ta lại quá tin rằng mình đang tiến.

Nền văn hóa của chúng ta đang lâm bệnh. Đó là căn bệnh đơn điệu và nghèo nàn về hình thức và nội dung.

Các ngài, các ngài lại tưởng –hay tự lừa dối mình – rằng các ngài đang giầu có và đa dạng !!!

Và vì quá tôn thờ chủ nghĩa nên các ngài đã cưỡng ép nàng thơ phải vác súng hành quân và “xuống đường” hô khẩu hiệu đã bao năm rồi.

Chúng tôi khước từ thứ cháo loãng ăn trừ bữa của văn nghệ tuyên truyền hâm lại từ bao lâu nay.

Không phải đợi đến ngày phán xét. Mà ngày hôm nay 14 người chúng tôi- những người Chân Đất- xin thay mặt Nguyễn Du, Nguyễn Trãi…và nhân danh thế kỷ 21, chúng tôi xử bắn lối văn nghệ Một Chiều, Giáo điều và Phản nhân tính.

Ngày Mai sẽ là của chúng tôi.

Hãy cầm bút cho một nền Văn Hóa Việt Nam !

TỰ DO - ĐỘC LẬP VÀ NHÂN ĐẠO

NHỮNG NGƯỜI CHÂN ĐẤT

(Nguồn : tạp chí Quê Mẹ - Paris số 40, năm 1980)

 

Thời điểm 1996

Sinh hoạt Văn hóa ở Nam Cali

PHÁT BIỂU TRONG BUỔI RA MẮT CUỐN

VIỆT NAM QUA LĂNG KÍNH 24 NHÂN VẬT THỜI ĐẠI

của NGUYỄN VẠN HÙNG

Ngày 29-6-1996 Tại Trung Tâm Công Giáo VN –

Orange County – California.

* Nhật Tiến

Trước hết, tôi xin được ngỏ lời cám ơn ban tổ chức đã có nhã ý dành cho tôi cái cơ hội được tham dự và phát biểu trong buổi ra mắt tuyển tập ngày hôm nay.

Tôi cũng nhân dịp này xin bầy tỏ lời đặc biệt cám ơn nhà báo Nguyễn Vạn Hùng , một ký giả chuyên nghiệp đã liên tục trong nhiều năm tìm đến những nhân vật có liên quan đến các vấn đề thời sự để phỏng vấn và tường trình cùng độc giả, và đến nay lại san định và chọn lựa để in chung vào một tuyển tập như chúng ta thấy trong buổi ra mắt ngày hôm nay. Chính nhờ cuốn sách này mà tôi có dịp ôn lại những điều do chính mình đã nghĩ, đã phát biểu từ hơn sáu năm qua, tất cả tưởng đã vùi sâu trong dĩ vãng không ai còn nhớ đến nữa. Nay nhờ thế mà đôi điều có thể được ôn lại thì đối với tôi quả là một điều lý thú. Và cũng chính nhờ tuyển tập này mà tôi cũng lại có cơ hội được đọc một cách tổng hợp hơn những vấn đề mà hơn hai mươi vị khác đã phát biểu, qua đó tôi cũng đã có dịp thu nhận được nhiều điều bổ ích, bởi vì mỗi vị với một vị trí riêng, một hoàn cảnh riêng, một kinh nghiệm sống riêng đã soi sáng được nhiều phía, nhiều mặt xoay quanh nhiều vấn đề liên quan đến tình hình đất nước. Chỉ riêng với một ưu điểm này, nhà báo Nguyễn Vạn Hùng cũng đã thành công trong việc ấn hành tuyển tập để chúng ta có được buổi gặp gỡ ngày hôm nay.

Thưa quý vị, riêng về phần tôi, khi nhìn lại hoàn cảnh và thời điểm mà cuộc phỏng vấn được thực hiện khoảng cuối năm 1990, tôi nhận thấy cũng nhân cơ hội này nên phát biểu một vài cảm nghĩ, một phần là để làm sáng tỏ thêm những nhận định của mình từ sáu năm về trước , và một phần khác cũng là để bổ túc thêm cho thích hợp với hoàn cảnh thực tế vốn cũng đã thay đổi rất nhiều trong mấy năm vừa qua.

Có một điều tuy đương nhiên nhưng cũng nên khẳng định lại, đó là ở đâu, bao giờ và trong bất cứ thời điểm nào thì nhận định sau đây bao giờ cũng đúng :

“ Đó là chế độ Cộng Sản không bao giờ đem lại tự do, hạnh phúc cho con người và tạo dựng được một xã hội công bằng, phát triển và thịnh vượng. ”

Sáu năm về trước, cái tạm gọi là chân lý này hầu như chỉ phổ biến đối với người thuộc chế độ Miền Nam cũ, nhưng nay thì càng ngày thực tế càng cho thấy, ngay cả những người được tôi luyện trong xã hội Cộng Sản cũng đã nhận ra và đã có nhiều người công khai phát biểu. Nhìn lại 10 năm trở về trước, những tên tuổi như Dương Thu Hương, Tiêu Dao Bảo Cự, Hà Sĩ Phu, Hoàng Minh Chính, Lữ Phương, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn văn Trấn..v..v ...dù tên tuổi của họ vẫn tồn tại trước đó nhưng họ đã không xuất hiện ồn ào, phong phú và đa dạng như thời gian gần đây. Liên tục trong vài năm qua, họ cũng như nhiều trí thức khác trong nước đã cất lên tiếng nói tuy còn trong mức độ tuỳ thuộc vào hoàn cảnh và vị trí mà họ đang sống, nhưng nội dung đã không chỉ bộc lộ sự thay đổi nhận thức riêng tư mà họ đã hướng rất nhiều về những nguyện vọng chung của dân tộc. Sự kiện xẩy ra như thế đã phù hợp với hoàn cảnh thực tế trong đó hàng loạt chế độ C.S. đã sụp đổ ở các nước Đông Âu và ngay cả Liên Xô nữa. Như thế, theo tôi nghĩ, nhất thiết con đường chống Cộng của người Việt ở hải ngoại phải được đặt trước một hoàn cảnh mới, đòi hỏi phải có một nhãn quan mới qua đó có thể đề ra được những sách lược mới thích nghi được với tình thế hiện nay.

Vào thời điểm mà cuộc phỏng vấn của nhà báo Nguyễn Vạn Hùng được thực hiện, tôi đã góp phần cùng với nhiều anh chị em văn nghệ sĩ khác đi tìm một phương thức đấu tranh trong chiều hướng này, và đó là lý do cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương đã được xuất bản vào cuối năm 1990 sau gần 2 năm chuẩn bị cùng với sự ra mắt của một vài tờ tạp chí có cùng một khuynh hướng như tờ Hợp Lưu, tờ Đối Thoại hay những cuộc trao đổi, thảo luận cùng các sinh hoạt khác. Cũng chính từ những hoạt động này mà đã có nhiều người cho rằng chúng tôi chủ trương giao lưu văn hóa, một từ ngữ tức cười thay, không do chúng tôi đặt ra, và ngay cả cho tới nay, chúng tôi cũng chưa hề thảo một bản văn nào đem công bố để vận động cho một trào lưu mang cái danh nghĩa đó !

Tôi còn nhớ Họa sĩ Khánh Trường cách đây 5 năm khi làm bản maquette cho tờ tạp chí của mình, anh dự định lấy tên tờ báo là Giao Lưu, nhưng chính tôi đã góp ý nên đổi là Hợp Lưu để tránh ngộ nhận. Anh Khánh Trường đã chấp nhận ý kiến đó và tờ báo của anh vẫn còn mang cái tên Hợp Lưu cho đến tận ngày hôm nay.

Nhưng ta hãy gạt qua chuyện từ ngữ để đi vào thực chất của vấn đề. Đối với chúng tôi, dù trong bất cứ một sinh hoạt văn hoá nào, chuyện giao lưu văn hoá một chiều chỉ là chuyện thơ ngây, phi lý, không cần phải có người dạy dỗ cho thì mới biết. Bởi nếu có sự giao lưu đúng nghĩa thì sách báo của người Việt ở hải ngoại đã tràn ngập thị trường ở trong nước rồi. Ở đây, tôi thấy cần phải nhắc lại rằng khi đề cao phong trào văn chương phản kháng vào thời điểm đó, chúng tôi chỉ mong mỏi nối được vòng tay với những ngòi bút phản kháng ở trong nước, cổ võ họ, nâng đỡ tinh thần họ, và nếu có thể , yểm trợ được họ trong công cuộc phổ biến những tác phẩm do họ đã viết để khơi dậy một cao trào văn chương phản kháng, nói lên được tâm tư và nguyện vọng của toàn thể dân tộc ngõ hầu góp phần vào công cuộc đấu tranh cho Tự do và Dân chủ trên quê hương.

Trong một vài lần phát biểu ở đây đó rải rác trong mấy năm vừa qua, tôi cũng đã từng nhấn mạnh rằng:

“ Chúng tôi không chủ trương thỏa hiệp với cường quyền hay bạo lực. Bởi khi người cầm bút thỏa hiệp với bất cứ một bạo quyền nào thì anh ta cũng sẽ chỉ là một thứ công cụ và tự biến vai trò độc lập của mình trở thành một thứ văn nô vốn là điều mà không một người cầm bút chân chính nào chấp nhận.”

Nhưng để tiến tới việc chấp nhận những con người phản kháng ở trong nước , nhìn lại điểm khởi đầu từ sáu bẩy năm về trước, tôi nhận thấy đó không phải là một tiến trình suông sẻ bởi vì đã có một thành kiến khá phổ biến cho rằng hễ đã là người của Cộng sản rồi thì dù có thay đổi thế nào cũng không còn gì để đối thoại nữa. Đây là một thành kiến dễ giải thích vì nó xuất phát từ những kinh nghiệm thực tế, nhiều khi bao gồm cả những sự mất mát, đau thương, đổ vỡ với những vết thương rất khó hàn gắn, bởi vì như tất cả mọi người đều thấy, kể từ khi chiến tranh chấm dứt, nhân dân miền Nam đã bị xô đẩy vào một cuộc trầm luân mới với biết bao sinh mạng bị hy sinh một cách phí uổng trong rừng sâu, nơi biển cả, trong các trại tù trại cải tạo hay trong những vùng gọi là kinh tế mới. Biết bao nhiêu đau thương, mất mát, chia lìa trong các hoàn cảnh đó đã ghi thành những dấu ấn hết sức nặng nề về cả mặt tinh thần cũng như thể xác đã khiến cho lòng căm thù có môi trường để nẩy nở lên một cách hết sức chính đáng, khiến cho nhiều người hầu như không muốn thay đổi nhận thức của mình. Hậu quả là cho tới nay vẫn còn những khuynh hướng khoanh vùng, vạch vòng phấn, loại cả ra ngoài những nhân sự vốn trước đây tuy không đứng chung trong cùng một hàng ngũ nhưng nay cũng đã chia xẻ với mình một ước mơ về một tương lai tốt đẹp của quê hương, dân tộc. Tôi cho rằng sự chấp nhận một cuộc thay đổi nhận thức trong thực trạng đó quả là một điều hết sức khó khăn, đòi hỏi nhiều sự thao thức, trăn trở. Nhưng vấn đề đặt ra là thời gian càng trôi qua, cuộc diện thế giới và thực trạng ở quê hương đã có nhiều thay đổi, vì thế vấn đề Việt Nam bây giờ không còn chỉ là vấn đề riêng của người dân miền Nam như trước đây nữa mà đã trở thành vấn đề chung của cả dân tộc, mọi chiều hướng giải quyết nhất thiết đều phải đặt trước một nhu cầu không thể chối bỏ đó là sự thống nhất đất nước và thống nhất dân tộc .

Trong hơn 20 năm qua, lòng hận thù chính đáng kể trên đã có nhiều cơ hội để thử lửa, nhưng chưa bao giờ nó cho thấy sự nuôi dưỡng hận thù trong một nhãn quan khô cứng lại là một giải pháp tốt đẹp nhất, không bị lãng phí thời gian nhất trong công cuộc phục hồi và xây dựng quê hương.

Cho nên tôi vẫn tha thiết khẳng định là chúng ta cần phải mở rộng hàng ngũ dân tộc để tạo dựng sức mạnh cho chính mình, đó là hàng ngũ của những con người không phân biệt quá khứ chính trị hay điều kiện địa dư, miễn là cùng chia sẻ với nhau một mơ ước là xây dựng một quê hương tôn trọng giá trị nhân phẩm và quyền làm người trong một xã hội tự do, dân chủ, hòa bình và thịnh vượng.

Muốn tạo dựng một hàng ngũ như thế, tôi thiết nghĩ chúng ta phải mạnh dạn bước qua những ý tưởng hận thù, như chính ông Nguyễn đình Huy cũng đã phát biểu trong cuộc phỏng vấn in trong tuyển tập được ra mắt ngày hôm nay. Tôi xin phép được nhắc lại nguyên văn lời phát biểu ấy như sau :

" Nói đến hận thù thì có lẽ chúng tôi là những người hận thù nhiều hơn ai hết vì gần 17 năm nằm trong các trại tù. Thế nhưng chúng tôi phải lấy súng tự bắn vào trái tim thù hận của chính mình và bắn cây súng khác vào sự chia rẽ và nghèo khổ của dân tộc.”

Chủ trương cỉa ông Nguyễn đình Huy hoàn toàn phù hợp với quan điểm của tôi khi vận dụng công tác văn hóa vào công cuộc vận động chung của dân tộc.

Thưa quý vị, dù thế nào thì những điều tôi vừa phát biểu cũng chỉ là những cảm nghĩ riêng tư, có thể có người chấp nhận, cũng có thể có người sẽ nêu ra nhiều vấn đề để bàn cãi. Tuy nhiên, đó không phải là mục tiêu của một buổi ra mắt tác phẩm. Trong phạm vi của buổi tổ chức hạn hẹp ngày hôm nay, tôi rất tiếc là đã làm mất thì giờ của quý vị. Tôi xin chân thành cám ơn toàn thể qúy vị đã lắng nghe và một lần nữa, xin cám ơn nhà báo Nguyễn Vạn Hùng cùng ban tổ chức đã cho tôi cơ hội phát biểu ngày hôm nay.

NHẬT-TIẾN

26-6-1996

 

                    6

 

TÁC PHẨM GÂY TRANH CÃI

Truyện ngắn

Gặp Gỡ Ngày Cuối Năm

Thời điểm sáng tác : 1989

Nhận xét về truyện ngắn “Gặp Gỡ Ngày Cuối Năm” in dưới đây, bình luận gia Đỗ Thái Nhiên đã viết:

Gặp gỡ ngày cuối năm” là một truyện đầu voi đuôi chuột! Truyện này đã mở đầu bằng bài toán cộng tả và hữu để toan tính một cái gì mới mẻ cho quê hương nhưng lại kết thúc bằng một cuộc làm hòa giữa hai anh em để ngay sau đó người anh dẫn người em đi “hồi tà”!... “ Gặp gỡ ngày cuối năm” hiển nhiên chỉ là truyện cổ võ cho một cuộc “Hồi tà”!

Giáo sư Bùi Ngọc Đường lại có ý kiến khác, ông đã nêu nhận định :

“…….sẽ có lúc, ông Đỗ Thái Nhiên nhận được ra rằng ông đã hơi vội vàng trong khi phê phán những nhận thức của nhà văn Nhật Tiến:

- là “ấu trĩ ,

- là “toan tính dùng lòng khoan dung của đạo đức giả để che lấp nghĩa vụ phục hoạt dân sinh”,

- là “khiếp sợ và an thân”,

- là “nên ân cần xin lỗi độc giả của ông ta”!

(Xin coi Hành Trình Chữ Nghĩa, Tập I , trang 193-203)

________________

gặp gỡ ngày cuối năm

Truyện ngắn

NHẬT TIẾN

Cuối cùng thì hai người cũng đã gặp nhau. Một người ở trong tù. Một người ở ngoài tù. Một người thuộc chế độ miền Nam cũ. Một người là sĩ quan mang quân hàm Đại tá thuộc bộ đội miền Bắc. Họ là hai anh em ruột. Ba mươi năm trời không gặp lại, hơn năm năm cậy cục để mong được tiếp xúc, bây giờ ông anh Đại tá mới được toại nguyện.

Căn phòng trống trải, bốn bề vách gỗ, mái lợp tôn có những chỗ nứt nẻ. Gió ở ngoài lùa qua những lỗ thủng mang theo cái căm căm lạnh của một buổi cuối năm nơi rừng núi. Đồ đạc trong phòng không có gì khác ngoài chiếc bàn gỗ và hai tấm ghế dài kê ở hai phía đối diện. Người công an bảo vệ đã lặng lẽ rút ra ngoài từ mấy phút trước sau khi kín đáo khép cánh cửa ra vào làm bằng tôn xộc xệch. Ngọn đèn héo úa trên trần cũng đã được bật lên. Ánh sáng vàng vọt, xanh xao như bầu không khí thoi thóp, bệnh hoạn của cả trại tù.

Từ nãy, hai người vẫn nhìn nhau. Lòng họ đầy bối rối, ngỡ ngàng. Anh mình, em mình đấy ư ? Đâu còn là hình ảnh thân thiết, ruột thịt ngày xưa, thằng anh cõng thằng em chạy nhong nhong trên con đường nhỏ hẹp để đi theo một đám rước, đi ra chùa xem tế lễ hay mải mê chạy theo con diều bang bay bổng trên nền trời cao.

Hình ảnh thân thiết của dĩ vãng như có động lực làm cho hai trí não đang đóng băng của họ trở nên động đậy. Họ cố gắng thu ngắn khoảng cách của thời gian đằng đẵng gần ba mươi năm. Họ kín đáo tìm kiếm ở nhau dấu tích của ngày xưa thân ái cũ. Nhưng rồi họ bất lực. Họ chẳng tìm thấy ở người này hay người kia một chỗ bấu víu nào để có cảm giác gần gũi nhau hơn. Cuối cùng người anh cũng phải lên tiếng trước:

- Chú hút với tôi một điếu thuốc nhé?

Người tù vẫn không trả lời. Anh ta chỉ nhìn bằng cặp mắt lạnh lùng những cử chỉ có vẻ hơi lúng túng của người đối diện có vẻ đang cố gắng phá tan bầu không khí im lặng nặng nề mà vô hiệu quả. Ông ta moi ra ở trong túi áo một bao thuốc đã nhàu nát và lục ở túi bên kia một cái bật lửa cũ kỹ đến nỗi cái bản lề ở nắp đã xộc xệch và nước kền mạ ở ngoài đã phai đi để lộ ra nước đồng màu đỏ quạch. Rồi ông ta nghiêng đầu châm một điếu thuốc. Đôi môi dầy của ông ta chúm lại. Cặp lông mày rậm rịt lốm đốm bạc ríu lấy nhau, kéo theo những lớp da ở hai bên đuôi mắt nhăn túm lại. Chợt người tù khám phá ra rằng cái đuôi mắt ấy, cái cung cách nghiêng đầu châm lửa hút thuốc ấy đã giống hệt như những cử chỉ quen thuộc ngày xưa của bố mình. Lòng anh chợt thoáng một niềm xúc động. Anh cố nén cái cảm giác buốt nhói vừa chạy qua trái tim của mình.

Bây giờ viên Đại tá chìa ra trước mặt anh một điếu thuốc. Bàn tay khô cằn xương xẩu của ông ta hơi run run. Người tù tự nghĩ đó là dấu hiệu của tuổi già chứ không phải là hậu quả của một cơn xúc động. Người Cộng sản không dễ gì biểu lộ những cảm nghĩ của mình một cách dễ dàng và lộ liễu như thế.

Quả thật, "anh ấy" đã già thật. Người tù tiếp tục nghĩ. Những đuôi mắt đã nhăn. Những lớp da hai bên gò má đã rúm ró. Những sợi tóc đã ngả màu xám bạc. Anh cố gắng mường tượng hình ảnh của ông ta không qua ảnh hưởng của thời gian. Nhưng anh ta hoàn toàn bất lực trong ý định này. Hơn ba mươi năm xa cách, hình ảnh của người anh lúc chia tay không để lại trong óc anh một ấn tượng nào. Điều này khiến người tù nẩy ra cái cảm giác kỳ cục khi nghĩ rằng mình có thể nhớ hình ảnh của ông ta thời thơ ấu lúc mà hai anh em còn cõng nhau chạy rông ngoài ngõ rõ ràng và gần gũi như nó mới chỉ xẩy ra đâu đó ngày hôm qua, hôm kia, nhưng muốn bắt lại một hình ảnh khác xẩy ra mới mẻ hơn thì anh đành chịu, như thế thì dĩ vãng đâu có ảnh hưởng bởi yếu tố thứ tự của thời gian. Nó phải là điều gì gắn bó với những nỗi rung động trong trái tim của mình. Có những điều xẩy ra, người ta có thể ghi nhớ cả một đời người, nhưng cũng có nhiều điều khác người ta đã dễ dàng rũ đi như một lớp bụi mỏng bám víu lấy khoảng trời kỷ niệm của riêng mình.

Như thế, quả là mình đã coi "anh ấy" là một hạt bụi trong đời sống, người tù tiếp tục nghĩ. Cũng đúng vậy thôi. Tình cốt nhục, anh em, không có chỗ cho những kẻ đã đứng trên vị trí của lòng căm thù. Leo lên tới quân hàm Đại tá, hẳn ông ta đã nhúng tay vào biết bao nhiêu thảm họa, đã gây nên những thảm trạng đau thương như hiện giờ: những con người bị đầy đọa triền miên trong những trại tù, những bạn bè, đồng ngũ của anh đã âm thầm gục ngã trong tủi nhục đớn đau. Và hơn hết thẩy là trong số những kẻ gục ngã ấy, có cả bố của anh nữa. Người tù thốt nhiên thấy mình sục sôi lên vì một cảm giác căm hờn. Anh nhìn thẳng vào đôi mắt đục lờ của người đối diện. Hình ảnh của những ngày thơ ấu ngày xưa tan biến mất. Trước mắt anh chỉ là một kẻ xa lạ. Hơn thế nữa, một kẻ đã chịu trách nhiệm về biết bao nhiêu biến cố đau thương, tang tóc chia lìa. Đó là lý do mà anh từ chối điếu thuốc vẫn được chìa ra từ một bàn tay run run.

Viên Đại tá chờ đợi không được, liền đặt gói thuốc xuống mặt bàn. Ông ta cũng không biểu lộ một ánh mắt hay cử chỉ nào dù bất mãn hay bối rối về sự lạnh lùng, căng thẳng của người tù. Ông chỉ cầm cái bật lửa cũ kỹ đặt chồng lên gói thuốc rồi đẩy chúng lại gần hơn nữa về phía người đối diện. Hai người bây giờ cách nhau bởi một màng khói mỏng tuôn ra từ đầu điếu thuốc vừa được châm lên và đang nằm giữa hai ngón tay xương xẩu của viên Đại tá. Cuối cùng vẫn lại là lời lên tiếng trước của ông ta:

- Tôi đến thăm chú năm lần trong năm năm. Lần này chú mới cho gặp, tại sao chú không nói gì hết vậy?

Người tù lại nhìn thẳng vào đôi mắt của viên Đại tá. Anh ta biết rõ mình đang trồi lên từ một cơn sóng của sự thù hận. Rồi anh ta nói rành rẽ:

- Có chứ! Tôi có nhiều điều muốn nói với anh lắm chứ! Tuy nhiên có lẽ tôi chẳng cần dài dòng chi nhiều. Tôi chỉ tóm tắt bằng một câu thôi. Đó là, nếu tôi có súng, tôi có thể bắn anh mà không chút mảy may thương xót gì.

Viên Đại tá mỉm cười. Nụ cười chẳng mang một vẻ gì cay đắng hay bất mãn cả. Hình như ông ta đã quá quen thuộc với sự trực diện đối với lòng hận thù. Ông ta chỉ nhìn "thằng em của mình" với ánh mắt chế giễu. Rồi ông ta nhỏ nhẹ:

- Bắn tôi xong rồi, chú có giải quyết được vấn đề gì không?

Người tù cười khẩy:

- Được chứ! Ít nhất tôi cũng loại được một tên ra khỏi hàng ngũ của những kẻ bạo tàn.

- Vậy thôi sao?

Người tù nhún vai:

- Thế cũng đủ.

Viên Đại tá bật lên cười:

- Có hai điều đáng phàn nàn trong ước muốn điên rồ của chú. Một là tôi chỉ là một cá nhân nhỏ bé trong hàng ngũ của những kẻ mà chú gọi là bạo tàn. Loại đi một cá nhân không thôi, sẽ chẳng có gì thay đổi đâu. Hai là hành động ấy của chú sẽ đổ dầu thêm vào lửa, nó không những không làm suy yếu hàng ngũ của những kẻ bạo tàn mà trái lại còn dấy động chúng nó lên bằng lòng hận thù. Một hành động như thế chỉ thuần túy cảm tính chớ không giải quyết được gì !

Người tù cãi lại:

- Tại sao không giải quyết được gì? Bè lũ các anh, bớt được một tên nào hay tên đó. Sẽ có ngày cả nước sẽ nổi dậy có cùng một hành động như thế, và lúc đó anh sẽ thấy mỗi cá nhân sẽ chỉ làm một việc nhỏ bé đó thôi, cũng đủ để làm nên đại cuộc rồi!

Mặt viên Đại tá bỗng nhiên nhăn lại. Ông ta biểu lộ sự bất mãn của mình bằng cách đập nhẹ bàn tay của mình xuống mặt bàn. Rồi ông nói, lần này người tù thấy rõ những nghị lực của ông ta như tuôn ra theo từng lời:

- Chú ở tù năm năm rồi mà còn ấu trĩ đến như thế à? Phải nói rằng chính sách cải tạo không nhằm dậy dỗ các chú trở thành những con người Cộng sản mà mục đích của nó là nhằm tiêu diệt khả năng đề kháng của những người ở phe của chú. Thành quả của nó thế nào, chú đã thấy. Phần đông các sĩ quan cải tạo về đều ôm một mơ ước đoàn tụ với thân nhân ở nước ngoài. Đó có phải là một hình thức tháo chạy hay không? Còn nhân dân nổi dậy? Họ làm sao nổi dậy được khi chính những người có khả năng chiến đấu, lãnh đạo như các chú chỉ có một mơ ước là muốn ra đi, và mặt khác làm sao họ nổi dậy được khi mà đời sống bây giờ đã thu gọn họ vào có một điều kiện duy nhất là lo chạy vạy để có miếng cơm hàng ngày? Chủ trương thắt bao tử để cai trị của chính quyền nó có tác dụng như thế nào, chú chưa nhìn ra hay sao?

Người tù như chết lặng đi vì những sự thực tàn nhẫn mà ông ta vừa trút lên đầu mình. Anh ta choáng váng đến độ cũng không thấy ngạc nhiên khi những sự thực ấy lại được thốt ra từ một cán bộ cao cấp của chính quyền, những kẻ mà vốn từ xưa tới nay chỉ quen nói những lời nhân nghĩa giả trá, đề cao chế độ đến tận mây xanh.

Đến lúc này thì người tù thực sự thấy cần một điếu thuốc. Anh ta muốn nén xuống cơn hoang mang cực độ đang xâm chiếm trọn vẹn tâm trạng của mình. Chẳng cần chờ đợi mời mọc, anh nhặt gói thuốc lên và gắn một điếu lên môi. Viên Đại tá nhoài người ra, cầm lấy cái bật lửa, mở nắp ra và đánh lửa lên. Lúc cúi xuống châm điếu thuốc, một lần nữa, người tù lại thấy rõ bàn tay run rẩy của ông ta.

Một lát sau, viên Đại tá lại cất tiếng:

- Kinh nghiệm cho chúng tôi biết, căm thù là nguồn nhiên liệu để nuôi dưỡng ngọn lửa đấu tranh. Nhưng nếu chỉ biết căm thù không thôi thì tự mình cô lập mình. Nó là một con số trừ chứ không phải là con số cộng. Trong ý nghĩ đó tôi có thể nói, chú chỉ biết làm tính trừ chứ chưa biết làm tính cộng.

Người tù nhún vai:

- Tuyệt đối, không bao giờ chúng tôi làm tính cộng với những người như anh, cho dù anh là ruột thịt đi chăng nữa.

Viên Đại tá kêu lên:

- Chẳng có điều gì trên cõi đời này được gọi là tuyệt đối cả trừ cái chết của mỗi người. Đấy cũng là một điều chú nên trang bị cho nhận thức của mình.

Người tù nhìn người đối diện với ánh mắt ngạc nhiên. Anh ta cố gắng tìm hiểu những ẩn ý gợi lên đằng sau câu nói của ông ta. Tuy nhiên, anh không thấy điều gì khác hơn là ông ta đang là cán bộ quân sự cao cấp của bạo quyền và điều này chỉ có một ý nghĩa duy nhất là ông ta phải là người sẽ sống chết vì bạo quyền, cho bạo quyền. Nghĩ được như thế, người tù thấy mình thoải mái hơn. Anh ta tự thấy rằng mình không hề sai lầm khi vẫn giữ được thái độ hoàn toàn đối lập đối với ông ta, dù ông ta là ruột thịt. Anh em ruột thịt không có ý nghĩa gì hết đối với những kẻ đã lựa chọn đứng trên hai chiến tuyến. Anh chợt nhớ đến "con số cộng" mà ông ta vừa nhắc nhở đến. Bất giác, anh chợt nở một nụ cười mang đầy vẻ giễu cợt. Anh tự nghĩ "Làm gì có được con số cộng giữa tôi và anh. Đấy là chuyện ảo tưởng". Điều này lại lôi kéo anh qua ý nghĩ duyệt lại những người đứng về phe hàng ngũ của mình. Quả là viên Đại tá đã nói đúng khi đề cập đến mơ ước đoàn tụ của những người đã ra tù. Đó là một sự thực cay đắng. Nó cũng cay đắng như lúc nhìn vào hoàn cảnh của những con người đang tranh sống, chụp giật với tất cả tận cùng ý nghĩa của hai chữ sinh tồn để có được miếng cơm manh áo hằng ngày.

Bất ngờ, anh cảm thấy rùng mình khi biết rõ mình đang bị trôi xuống con dốc của nỗi tuyệt vọng. Nó làm anh nhược hẳn người ra. Anh cố gắng che giấu tâm trạng của mình bằng cách đưa điếu thuốc lên môi, rít một hơi thật dài và thở mạnh ra. Làm khói xanh tỏa ra mù mịt làm che mờ khuôn mặt của người đối diện. Người tù thấy rõ nỗi cô đơn đang phủ kín con người của mình. Bỗng có tiếng của viên Đại tá cất lên:

- Tôi không đến đây để dìm chết chú xuống bằng những nỗi tuyệt vọng mà chú đang cảm nhận ấy đâu. Không bao giờ có hai chữ tuyệt vọng đối với những người còn duy trì cho mình một mơ ước muốn thực hiện. Vấn đề là ở chỗ hãy bắt đầu từ những cái gì mình đang có chứ không phải cái gì mình muốn có. Và vấn đề là ở chỗ đừng bao giờ xây dựng những nhận thức của mình chỉ vỏn vẹn bằng cảm tính, bởi cảm tính chỉ là bước đầu của nhận thức trước những trực quan sinh động của thế giới khách quan bên ngoài.

Lại một lần nữa người tù tự hỏi "ông ta muốn ám chỉ cái gì đây?". Anh ta định nói toẹt ra thắc mắc này nhưng rồi lại kìm giữ được ngay. Bởi vì anh biết rõ, dù ám chỉ điều gì, ông ta vẫn là ông ta, một kẻ được tôi luyện trong bạo lực và trở thành một giai cấp quyền thế của bạo lực. Chỉ bấy nhiêu điều cũng đủ xác định vị trí của ông ta rõ rệt trong bất cứ hoàn cảnh nào rồi. Nghĩ như thế, người tù không nói năng gì thêm mà chỉ lơ mơ ngồi nhả khói với sự cố ý làm ra vẻ lơ là đối với những lời nói của viên Đại tá. Khoảng cách giữa hai người như thêm lên vì sự im lặng nặng nề lại kéo dài. Một lát sau, vẫn lại ông ta lên tiếng trước:

- Tôi có một thắc mắc nhỏ muốn hỏi chú. Tại sao những lần trước chú từ chối không gặp tôi, mà lần này chú lại chấp nhận cho tôi được gặp chú? Có điều gì thay đổi ở nơi chú không?

Người tù nhún vai:

- Chẳng có gì thay đổi hết. Tôi đồng ý gặp mặt anh không phải vì nghĩ tới anh mà vì lời trăn trối của bố.

Nhắc đến người cha thân yêu, giọng người tù như nghẹn lại. Anh ta chớp mắt nhiều lần, cố nén cơn xúc động đang ùa đến, và tiếp tục nói bằng giọng khó khăn, cắt quãng:

- Bố chết ở trại giam Chí hòa như anh biết. Giây phút cuối cùng có thằng Quang hiện diện. Anh nhớ thằng Quang con chú Sáu chứ ? Nó là cán bộ của Cục Bảo vệ Trại giam. Nó nghe được lời trối trăng của bố. Bố trối trăng rằng dù anh em thù hận thế nào thì cũng cố gặp nhau một lần. Như một hình thức nối lại sợi dây ràng buộc gia đình đã đứt quãng mấy chục năm. Còn anh? Anh làm gì trong thời gian bố tù tội và chết tức tủi trong trại giam?

Viên Đại tá cúi đầu, tránh né cái nhìn như xoáy vào óc của đứa em của mình. Ông ta nói:

- Khi đó tôi bận công tác ở bên Cam bốt. Mãi tôi mới được tin bố bị bắt. Khi có hoàn cảnh về thăm thì bố đã mất rồi.

Người tù cười nhạt, nụ cười vừa đắng cay vừa có tính chất thù nghịch:

- Thế cũng là may cho anh. Anh có lý do để bào chữa. Chứ thực ra, nếu có hoàn cảnh thì anh cũng chẳng làm được gì. Trong chế độ bất nhân này, bố là một chuyện, anh lại là một chuyện khác. Nhân danh Đại tá, anh cũng chẳng làm gì được cho bố hết.

- Chú nói đúng đấy. Cũng như hoàn cảnh của chú bây giờ, tôi có làm được gì cho chú đâu, ngoài mấy gói quà thăm nuôi.

Người tù chăm chú nhìn người anh, lần này anh ta dịu giọng:

- Ít ra anh cũng có đôi điều thú nhận sự thật. Nhưng nói cho ngay, một chế độ như thế, anh vẫn trung thành phục vụ thì kể cũng là chuyện lạ.

Viên Đại tá chợt mỉm cười:

- Thì chú "thuyết phục" tôi đi.

Người tù kêu lên:

- Tôi đâu có phí hơi sức để thuyết phục những người như anh! Mèo bao giờ cũng hoàn mèo!

- Chú lại đầy định kiến mất rồi? Khổ thay cho con số trừ thường trực của chú.

- Anh muốn tôi làm tính cộng hả? Muốn thế thì tôi phải thay đổi hay là chính anh phải thay đổi?

- Cả hai bên, chú à ! Chú rũ bỏ định kiến của chú đi, chú sẽ thấy tôi có thể là bạn đồng hành của chú. Ngược lại tôi cũng vậy. Và tôi nghĩ là tôi đang làm vậy.

Người tù cười khẩy:

- Đồng hành đi đâu? Làm gì? Hay là cùng nắm tay xây dựng cái chế độ phi nhân của anh?

Viên Đại tá chợt bật lên cười. Tiếng cười rổn rảng phá tan bầu không khí yên tĩnh của căn phòng, vọng ra cả hành lang phía bên ngoài. Cánh cửa ra vào bỗng sịch mở và anh bảo vệ viên thò đầu vào với vẻ mặt ngơ ngác. Anh ta bắt gặp tia nhìn lạnh lẽo của viên Đại tá đang ném về phía mình với một điệu bộ hách dịch, điều này khiến anh ta sợ hãi vội vàng đóng sập ngay cánh cửa lại. Sau tiếng cười, viên Đại tá châm thêm một điếu thuốc nữa và nét mặt trở lại vẻ trầm ngâm, lạnh lùng. Một lát sau, ông ta nói chậm rãi:

- Hai chữ Cộng sản hình như là một vấn đề ám ảnh đối với nhiều người, trong số đó có chú. Trong khi đó, thật ra đối với thế giới, nó đã trở thành lỗi thời. Nó lại càng trở nên lỗi thời đối với những người đã từng tích cực tham dự vào cái guồng máy ấy, như tôi chẳng hạn. Nói khác đi, chỉ những thằng ngu thì cho tới bây giờ vẫn còn tin tưởng rằng chủ nghĩa Cộng sản sẽ đem lại ấm no và hạnh phúc cho nhân loại.

Người tù nhìn viên Đại tá với ánh mắt ngạc nhiên. Anh ta tò mò nhìn ngắm kỹ khuôn mặt của người đối diện để tìm tòi xem ông ta đã che giấu bản chất qua sự giả trá đến mức độ nào. Nhưng anh ta không tìm thấy được điều gì qua cử chỉ của ông ta cả, kể cả sự thành thực. Rút cục, anh tự nghĩ, những thằng Cộng sản đều là những đứa nói láo, quan điểm, lập trường, nhận thức luôn luôn chỉ có tính cách giai đoạn. Nghĩ như vậy, anh cảm thấy lòng thản nhiên, chẳng hề thấy chút rung động trước những lời lẽ bất ngờ của ông anh quý hóa.

Viên Đại tá lại nói tiếp:

- Chủ nghĩa Cộng sản thuần túy đã biến đổi bản chất của nó từ lâu rồi. Hãy cứ nhìn cái cảnh những tên lãnh tụ siêu cường qua lại thăm viếng nhau và cụng với nhau những ly sâm banh thì đủ thấy!

Người tù chợt mỉm cười, cắt ngang lời nói của viên Đại tá:

- Anh già đầu rồi mà còn ngây thơ nhỉ! Hoặc giả anh là một chuyên viên kịch cỡm đang thủ một vai nói dối một cách ngờ nghệch!

- Đối với chú, tôi chả cần thiết phải nói dối làm gì. Chú ở đây đã năm năm mà vẫn còn một đôi chút bướng bỉnh. Nhưng mười năm nữa, mười lăm năm nữa, chú sẽ chỉ còn là một thân xác tàn úa, vô dụng, không đáng để tôi phải quan tâm!

- Thế thì anh là một kẻ ngây thơ ! Tụi tôi ngây thơ thì mọi sự cũng đã kể như xong rồi. Nhưng anh ở trong guồng máy của chế độ, anh mà ngây thơ thì chỉ có ngày guồng máy nó sẽ nghiền nát anh ra.

Viên Đại tá nhún vai:

- Thì tôi đã nói với chú rồi. Chỉ những thằng ngu mà bây giờ vẫn còn tin rằng chủ nghĩa Cộng sản là liều thuốc đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân loại. Tôi đâu có ngu!

Người tù cướp lời:

- Cho là anh sáng suốt đi. Nhưng cái xã hội tồi tệ này còn biết bao nhiêu là thằng ngu.

Viên Đại tá chặn ngang:

- Không! Chúng nó cũng không ngu gì. Một số đông đã nhận chân ra sự thực thì hoặc câm nín hoặc còn đang trăn trở nhìn lại con đường đã đi qua của mình. Một số khác có cơ hội được hưởng thụ thì đang cố gắng níu lấy điều giả trá để mưu cầu đặc quyền đặc lợi cho bè lũ phe nhóm của mình. Chú cứ nhìn kỹ mà xem, bọn chúng nêu chiêu bài chống phong kiến bóc lột, nhưng trong đời sống thực tế, chúng nó phong kiến hơn ai hết. Chúng nó nêu khẩu hiệu "Không gì quý hơn độc lập, tự do" nhưng chúng nó tước đoạt độc lập tự do của con người hơn ai hết. Nếu phải dùng danh từ "ngụy" thì chính chúng nó ngụy hơn ai hết.

Người tù giương to đôi mắt để cố nhìn ngắm con người đối diện. Anh ta lại không tin những lời lẽ vừa phát ra lại là của "ông anh Đại tá" của mình? Thâm tâm anh tự nhủ phải hết sức thận trọng để tránh cái cạm bẫy mà tên cán bộ cao cấp này đang giăng ra. Thói quen theo thành kiến có sẵn đã tạo cho anh cái thái độ dè dặt. Cuối cùng, anh đã nói:

- Tôi chẳng cần mất công đánh giá những lời phát biểu của anh thành thực đến mức độ nào. Tôi chỉ tự hỏi tại sao bỗng dưng anh lại đem những lời đó ra nói với tôi? Để làm gì cơ chứ ?

Trầm ngâm một lát, viên Đại tá mới nói:

- Chú không nhớ những lời trăn trối của ông cụ à? Cụ dặn rằng dù anh em thù hận đến mức nào thì cũng cố gặp nhau một lần, như một hình thức nối lại sợi dây ràng buộc gia đình đã đứt quãng mấy chục năm. Tôi cho rằng, gặp nhau để rồi vẫn thù hận về nhau thì sự gặp gỡ chẳng mang lại ý nghĩa gì. Mà tại sao ta phải làm như thế trong khi mọi sự đều đã đổi thay? Chú có một mơ ước về đời sống ấm no, hạnh phúc thì tôi cũng vậy. Và tôi tin rằng nhiều người trên giải đất này cũng đều như vậy. Tại sao không thể nhìn nhận nhau để toan tính một cái gì mới mẻ cho quê hương?

Người tù nhìn ông anh của mình bằng cặp mắt lạnh lùng. Anh phấn đấu trong lòng một cách dữ dội và lý trí của anh luôn luôn nhắc nhở "Đừng tin những gì Cộng sản nói, hãy nhìn những gì Cộng sản làm". Điều này khiến anh cảm thấy tự tin hơn và anh buông một câu lạnh lùng:

- Nếu có điều kiện thì tôi chắc chắn sẽ toan tính một cái gì với bất cứ ai, trừ những tên cán bộ Cộng sản!

- Nghĩa là chú vẫn chỉ thích có một con toán trừ ?

- Phải ! Trừ đi những kẻ như anh.

- Bằng cách nào?

- Có được súng trong tay, tôi sẽ bắn không tiếc tay.

Viên Đại tá nhìn anh ta bằng đôi mắt lạnh lùng. Rồi bằng một cử chỉ hết sức bất ngờ, ông ta rút khẩu súng ở phía sau thắt lưng ra và ném lên bàn. Ông buông sõng một câu:

- Có súng rồi đó ! Chú bắn đi !

Người tù sửng sốt nhìn ông ta bằng một vẻ bàng hoàng. Anh ta không thể ngờ được rằng tình thế đã du mình tới cái giây phút ấy. Anh hết nhìn người đàn ông trước mặt rồi lại liếc khẩu súng đang nằm tênh hênh trên mặt bàn. Nó là một khẩu nhỏ nhắn, quen thuộc, dễ sử dụng, có nước thép bóng ngời như lúc nào cũng được lau chùi kỹ lưỡng. Thốt nhiên anh nhoẻn một nụ cười chế nhạo:

- Anh đừng dọa tôi. Súng của anh làm gì có đạn! Tôi thừa biết mánh khóe của anh rồi!

Viên Đại tá lẳng lặng chộp lấy khẩu súng, và bằng những ngón tay thiện nghệ, ông ta lật cái ổ đạn qua một bên cho người tù nhìn thấy những viên đạn sáng ngời. Sau đó, ông ta kéo cơ bẩm cho viên đạn sẵn sàng lên nòng. Rồi ông ta ném trả lại nó trở lại chỗ cũ với tất cả sự lạnh lùng đến ghê rợn. Cử chỉ của ông ta làm cho người tù chết lặng đi. Anh đã bị dồn vào cái thế phải chọn lựa. Và anh chợt phát giác ra rằng nói thì được chứ thực hành điều mình nói sẽ không phải dễ dàng gì. Phải chi viên Đại tá này không phải là anh ruột của mình! Phải chi hai người đang đối diện với nhau ở ngoài trận địa. Phải chi ông ta không tự nguyện thấy khẩu súng cho kẻ đối diện để giục dã hắn ta bắn lại chính mình. Những điều kiện "phải chi" ấy cứ dồn dập nảy ra trong óc của người tù khiến cho tâm trạng của anh bấn loạn lên. Anh thấy mồ hôi rịn ra ướt cả chân tóc và đầm đìa một mảng lưng. Anh thấy mình đang rũ liệt và anh cảm thấy mình không đủ can đảm để cầm khẩu súng trên tay.

Chờ đợi một lát, khi đã nắm chắc phản ứng của người tù, viên Đại tá mới lẳng lặng nhặt khẩu súng lên, trả nó lại vị trí ở sau lưng như cũ, rồi ông ta mới nói:

- Như thế là đủ. Tôi thấy chú chẳng có lòng dạ nào cầm súng bắn tôi, mặc dù chú vẫn thường xuyên bị ngự trị bởi lòng hận thù. Cuộc đời còn đáng sống chính là cái yếu tố nhân bản ấy.

Người tù nhìn ông ta thảng thốt:

- Tại sao anh lại làm như vậy chứ ?

Viên Đại tá nhún vai:

- Để cho chú tin rằng những điều tôi nói với chú là thực. Trong hàng ngũ của những kẻ mà chú coi là thù nghịch, thật ra vẫn còn ẩn chứa những nhân tố có thể đem áp dụng toán cộng chứ không phải là toán trừ. Nếu cứ ôm mãi quan niệm chỉ làm tính trừ, chú sẽ chẳng bao giờ có hy vọng thay đổi được cái xã hội này đâu.

- Nhưng tôi là một thằng tù. Bài học ấy của anh, trong hoàn cảnh tôi, có áp dụng được gì đâu!

- Tù thì vẫn có ngày hy vọng được thả. Vấn đề là ở chỗ gìn giữ được cho mình một niềm tin, một hy vọng. Niềm tin và hy vọng ấy phải được xây dựng trên một cái nhìn sáng suốt và khách quan chứ không phải là những thành kiến cố hữu. Thế thôi !

Nói hết lời, viên Đại tá đứng dậy. Ông ta xòe một bàn tay ra trước mặt người tù. Anh ta rụt rè một giây rồi giơ tay ra nắm lấy bàn tay xương xẩu, với nước da đen xạm có nổi lên những đường gân xanh. Đột nhiên, anh xiết chặt lấy bàn tay ấy, và lần đầu tiên anh có cảm giác buốt nhói của một tình thân thiết ruột thịt.

Hai người nhìn nhau trong yên lặng một hồi lâu rồi cùng tiến ra phía cửa phòng. Lúc viên Đại tá giơ tay cầm lấy cái nắm cửa thì người tù vội vã chặn lại, và thốt lên hỏi:

- Tại sao anh lại làm như thế ? Nếu tôi chai lì, cứ lượm khẩu súng lên và bóp cò thì sao?

Viên Đại tá ôm lấy bờ vai của em mình, xiết chặt rồi thủ thỉ:

- Tôi hiểu rõ những con người đã được đào luyện và giáo dục trong xã hội tự do, nhân bản. Chú là em của tôi. Điều đó có nghĩa là dù ở hoàn cảnh nào, trong lòng chú vẫn có những tình cảm máu mủ ruột thịt. Nếu chú được sinh ra và lớn lên ở xã hội Cộng sản, có lẽ tôi đã xử sự theo cách khác.

NHẬT TIẾN

2.1989

 

                 5

THƠ VĂN THỜI

VĂN CHƯƠNG PHẢN KHÁNG

cái nhìn của tương lai

Thanh Thảo

những đứa trẻ như những cây cao su còi

mọc không hàng không lối

nắm tay nhỏ vung qua bụi đỏ

mắt gườm gườm xói vào chúng tôi

những nhà văn đi thực tế bằng xe hơi

tung bụi bẩn vào mắt đàn em nhỏ

tung ngôn ngữ gấm hoa

vào mặt những túp lều khốn khổ

nơi đói nghèo công khai rách nát công khai

chúng tôi cứ hồn nhiên ca ngợi tương lai

cho tới chiều nay. Rừng cao su Chư-pả

tương lai bỗng ném vào chúng tôi cái nhìn kỳ lạ

qua cặp mặt gườm những đứa trẻ ngây thơ

Cao su Chư-pả 11-1989

Di căn

Thanh Thảo

như nghẹt thở

như không muốn thở

ô nhiễm

ung thư máu

ung thư không khí

những kẻ bán mình

di căn hung hãn

khát một hớp trong lành

khát một ánh thật thà

cần ngọn lửa sờ thấy nóng

không phải lửa ma trơi

viết một dòng cho một người

cho hai người

không viết một chữ cho ngợm

nói một lời nhỏ nhẹ

yếu đuối

như roi quật

khạc vào mặt giả nhân

anh lặng lẽ ra đi

dấu chân nhà văn

vỡ những dòng run run trên mặt đất.

Mộng dữ

Trinh Đường

Người bạn đường hỏi tôi

Anh đi bằng chân anh hay bằng chân người khác?

Người hàng xóm hỏi tôi

Anh múc nước giếng gần hay biển xa khi nhà cháy?

Nhà tư pháp hỏi tôi

Thủ phạm phải chăng là sự nghèo nàn ?

Người công nhân hỏi tôi

Làm thế nào để thiết kế lại nhân tâm?

Người làm vườn hỏi tôi

Do sâu đục thân hay do giống xấu ?

Người lọc nước cật hỏi tôi

Làm sao mẻ sau bảo đảm vô trùng?

Tôi bàng hoàng tỉnh dậy vã mồ hôi

Bao câu hỏi nhảy múa quanh tôi như

hồn ma bóng quỷ.

cuộc đời như vợ của ta ơi:

Việt Phương

Năm xưa ta nói rất nhiều về “Cực kỳ “ và

“Hết sức”

Tội nghiệp là ta nói chân thành rất mực

Chưa hiểu rằng trời còn xanh hơn cả “trời xanh”

Ta thiếu sự trầm lặng cũng do bởi nhiệt tình.

Ta cứ nghĩ là đồng chí rồi không còn ai xấu nữa

Trong hàng ngũ ta chỉ dành chỗ cho yêu thương

Đã chọn đường đi chẳng ai dừng ở giữa

Mạc Tư Khoa còn hơn cả thiên đường.

Ta nhất quyết đồng hồ Liên Xô tốt hơn

đồng hồ Thụy Sĩ

Hình như đây là ý chí, niềm tin và tự hào

Mường tượng rằng trăng Trung Quốc

đẹp hơn trăng nước Mỹ

Sự ngây thơ đẹp tuyệt vời nhưng

ngờ nghệch làm sao!

Một nửa thế kỷ qua đi và bấy giờ ta đã biết

Thế nào là yêu thương thế nào là chém giết

Ta đã thấy chỗ lồi, chỗ lõm trên trăng sao

Những vết bùn trên tận đỉnh chín tầng cao.

Sức ta tăng bội phần khi ta say

đến trở thành rất tỉnh

Ta có thể nói với quân thù những lời bình tĩnh

“Những cái gì tốt đẹp của mày thuộc về tao!

Những cái gì xấu xa của tao thuộc về mày!”

Năm xưa ta vô tình tô thăm cuộc đời để mà tin

Nay đã tin mà không cần tô thắm gì nữa cả

Quen thuộc rồi mối bất ngờ kỳ lạ

Ta đã trả giá rất đau và đã học nhìn.

Ta đã gặp những điều không hề chờ đợi gặp

Mà đâu phải chỉ rắn phục giữa vườn hoa

Những kẻ tốt đến yếu mềm chỉ là đồ giẻ rách

Rắn còn nằm cuộn khúc giữa lòng ta.

Ta suy nghĩ tám nghìn đêm đánh giặc

Nghiền tâm tư với những hạt ngô bung

Giữa bom đạn ta lọc ra hạnh phúc

Tim ta dần trong sáng đến vô cùng.

Ta đã sống những phút giờ sự thật

Tâm dân tộc ta và kích thước loài người

Bừng vẻ đẹp chắc bền của Đất

Những thung lũng đau xưa vàng rực niềm tin.

Ta đã hiểu sai và có thể vẫn còn sai

Chất người trong ta cộng sản thêm chút nữa

Trút vẻ thần tượng đi, càng lồng lộng

con người

Phía trước, đằng sau, bên ngoài, và chính giữa.

Như Quảng Bình, Vĩnh Linh càng tươi máu lửa

Ta hiểu hết sự xấu xa, bỗng nở nụ cười

Mở đài địch như mở toang cánh cửa

Nghe nó chửi mà tin tưởng ở ngày mai.

Ta đau lắm những nỗi đau sinh nở

Cuộc đời thân như hơi thở của ta ơi

Ta vui lờm những niềm vui cởi mở

Cuộc đời yêu như vợ của ta ơi !

VIỆT PHƯƠNG

Ba người trong hẻm đuôi voi

Xuân Đài

(trích)

- Anh Tư là đại úy, học tới đại học sao không xin được việc làm hả anh Hiền ?

- Tà tà anh kể chú nghe. Cách đây gần ba năm, trung đoàn ở Campuchia về nước, bọn anh được phục viên. Anh Tư Thắng ra Bắc tìm đơn vị xây dựng cũ. Đơn vị làm ăn thua lỗ sao đó, giải tán. Anh Tư ba lô khăn gói về quê. Bố anh đã mất từ hồi anh chưa vào đại học. Anh về giữa lúc mẹ già đang ốm nặng. Về hôm trước, hôm sau bà cụ thều thào: “Mẹ được nhìn thấy con lành lặn là mẹ yên lòng nhắm mắt xuôi tay được rồi.” Nói xong bà cụ tắt thở. Nhắc lại chuyện này với anh, anh Tư chảy nước mắt, bảo: may mà đơn vị xây dựng rã đám, chứ không mình chẳng được gặp mẹ. Số tiền dành dụm trong mấy năm đi lính cộng với tiền phục viên, anh Tư trang trải vào đám ma bà cụ hết sạch. Anh Tư kể với anh, sau đó anh ấy ra Hà Nội tá túc nhà người anh ruột. Người anh giáo viên cấp hai, lương ba cọc ba đồng, thương em, chạy ngược chạy xuôi xin việc không đâu nhận, lý Do đơn giản, đã không có hộ khẩu lại thiếu tiền trà lá.

Thằng Hải nói xen vào:

- Gặp cảnh thế này, ông nội em hay chửi “tổ cha cuộc đời vô hậu” !

- Cuộc đời không phải lúc nào cũng vô hậu cả đâu em. Nhưng con người ta được số phận an bài hết trọi. Anh Tư lộn về quê bán nhà. Anh ấy kể, gần nửa làng đi kinh tế mới, nhà rẻ rề, bán như cho vừa đủ một suất vé tàu vào Sài Gòn. Em biết câu họa vô đơn chí không? Có hả, giỏi. Trên tàu, bọn khốn nạn nẫng gọn ba lô anh Tư. Quần áo, chứng minh thư, giấy tờ phục viên mất sạch. May mà cái thẻ đảng để ở túi áo ngực là còn. Em nhìn thấy thẻ đảng chưa? Đẹp lắm, nhưng nó lại vô tích sự không giúp được anh Tư việc gì trong lúc này. Có lần, chính nó lại xuýt gây “tai nạn” cho anh ấy. Số là thế này. Anh Tư mới vào, ngủ nhà anh, nửa đêm công an kiểm tra hộ khẩu. Anh Tư xuất trình thẻ đảng. Cái ảnh ông đại úy trong thẻ đẹp trai, tự tin, còn cái hình hài ông đại úy ngồi trước mặt tiều tụy, quần áo nhếch nhác, họ nghi cho là anh Tư xài thẻ giả. Dong lên đồn ngủ với muỗi một đêm, mai sáng tha về, xác định sau. Đã gần hai năm nay, họ không trả lại thẻ đảng, anh Tư cũng không buồn đòi. Mà thôi, em chẳng nên nghe những chuyện tầm phào thêm mệt.

Hiền sờ tay vào trán thằng Hải, gật gật đầu, hỏi nó có thích uống nước chanh để anh pha. Hải lắc đâu. Chuyện đời phiêu bạc, đa đoan của Tư Thắng đang hấp dẫn, nó tò mò hỏi:

- Sao anh không giữ anh Tư ở lại đây với gia đình ?

- Dạo mới ngoài Bắc vô, anh Tư ở đây. Hai anh em chạy khắp nơi xin việc. Cũng giống Hà Nội, không có hộ khẩu, không chỗ nào người ta nhận. Hôm trước má anh tính bán cái tủ gương, phụ thêm ít tiền mua cho anh Tư cái xích lô chân co chân duỗi, kiếm sống qua ngày. Anh Tư gạt đi, đâu có chịu. Năm ngoái, anh ấy định về Long Khánh làm rẫy, má anh cản không cho đi. Gương mấy gia đình ở hẻm này, bán cửa bán nhà đi kinh tế mới, chịu không thấu bỏ về hết trọi, còn sờ sờ ra đó. Anh Tư mày khái tính lắm, không muốn nhờ vả ai lâu. Hôm bỏ ra đi, anh bảo với anh: Sức dài vai rộng như tao, cứ níu gấu quần đàn bà già ăn bám, nhục lắm. Vả lại, ở đây, em biết không, dăm bữa nửa tháng, người ta lại sục vô vặn hỏi giấy tờ tạm trú làm anh ấy bực mình.

Má anh Hiền đi bán hủ tiếu rong về, cười xởi lởi, hỏi oang oang từ ngoài sân:

- Thằng nhỏ sao rồi, lành bệnh chưa? Tao mua cho hai anh em tụi bay một lố bánh cam đây. Ăn liền cho nóng.

Hiền tất tả chạy ra đỡ gánh hàng cho mẹ. Đặt đĩa bánh cam lên bàn, giục Hải :

- Bánh cam bà “Sáu chín năm” ngon có tiếng, em ăn đi. Ăn xong uống hai viên thuốc nữa. Thuốc anh gói để trên tủ, cái gói trắng trắng đó. Ăn uống rồi ngủ một giấc, chiều là lành hẳn. Bây giờ anh phải tới Bộ tư lệnh lấy lại giấy tờ phục viên cho Tư Thắng. Hôm nay họ hẹn, chắc được. Không có giấy tờ tùy thân có ngày người ta hốt vô Chí Hòa thì khốn. Anh đi chút xíu về liền.

(ngưng trích)



 

                4

V .- Dư luận về cuốn

Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương

.

Cho tới tận bây giờ, tôi chưa hề được đọc một bài điểm sách nào nói về nội dung cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương, để nghe tác giả phân tích xem các bài viết trong cuốn sách có những bài nào cần mổ xẻ, tranh luận.

Nhưng những thứ bài chửi bới rác rưởi thì nhiều vô số kể! Qua những trang sách với Lời Mở Đầu và Lá Thư Kết Thúc ở trên, hẳn độc giả thấy những nhận định, những chủ trương, đường lối, tâm tình của những người thực hiện cuốn sách này đã quá rõ ràng, đã chứng tỏ không bao giờ có thể có chuyện chúng tôi là “lũ văn nô, quỵ lụy in tác phẩm của các nhà văn trong nước để tuyên truyền cho Cộng sản” mà nhiều kẻ cầm bút ở hải ngoại vốn chưa từng nhìn thấy cuốn sách, chưa đọc qua một dòng nhưng vẫn nhắm mắt lăng mạ.

Ở trên tôi bất đắc dĩ phải dùng chữ “rác rưởi” bởi vì nhiều bài đã chứa đựng những ngôn từ hạ cấp, với luận điệu chụp mũ hàm hồ, toan tính vu oan giáng họa cho những người thực hiện cuốn sách, và nhất là thủ đoạn cắt xén câu văn in trong sách để xuyên tạc nội dung tư tưởng của đoạn văn hòng đánh lừa độc giả. Hành vi đê tiện này nếu không gọi là rác rưởi thì không biết còn danh từ nào khác hơn nữa để diễn tả sự kiện theo đúng bản chất của nó. Xin nêu một vài thí dụ cụ thể :

1) NGUYỄN THIẾU NHẪN lên án cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương :

(trích - với những chỗ tô đậm dể nhấn mạnh)

“Sự thật là những loạt sách này chỉ nhằm thực hiện kế hoạch kiều vận theo chỉ thị của Đảng về “giao lưu văn hóa”, các văn nghệ sĩ này được phép chống Đảng để xây dựng Đảng cho thêm vững mạnh chứ có phải phản kháng gì đâu. Mấy ông văn nghệ sĩ lưu vong tỵ nạn chắc vì nhớ cái cũi sắt của “nền văn chương cũi sắt” ở trong nước mà họ đã liều sống, liều chết để thoát ra, nên bèn ra báo Hợp Lưu và xuất bản sách “Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương” (THVNTQH) đem về nước để dâng Đảng, lập công.

Nhật Tiến, nhà văn đoạt giải Văn Chương Toàn Quốc thời Đệ Nhị Cộng Hoà Miền Nam viết trong sách này những lời như sau:

Chúng tôi vẫn thao thức với vận mệnh đất nước. Dù ở trên phần đất nào, trong hay ngoài quê hương, dù định kiến chính trị khác nhau như thế nào, qua lời các anh chị, chúng tôi vẫn thấy chúng ta còn nhiều điểm tương đồng”.

Để đáp lại những lời tha thiết xin xỏ để “hoà giải hòa hợp, xóa bỏ hận thù” này của nhà văn Nhật Tiến, những đảng viên cầm bút của VC đã đáp ứng như thế nào? Xin mời độc giả đọc bài trả lời cho những người thực hiện quyển THVNTQH của tờ Quân Đội Nhân Dân xuất bản ngày 18 tháng 5 năm1991, như sau:

Thật là lố bịch, những kẻ đã từng làm bồi bút phục vụ chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở Việt Nam trước đây, khi nhân dân phá bỏ chế độ thực dân năm 1975, thì chạy trốn ra ngoài sống lưu vong, tiếp tục phản bội lại lợi ích dân tộc. Họ đã tự nguyện nhận tiền, nhận vàng, đô la của thế lực quốc tế, tự nguyện làm công cụ thực hiện mọi mưu đồ chính trị đen tối cho chúng, nay lại tự nhận mình là bạn đồng hành đi tìm tự do, dân chủ với những người cầm bút trong nước, những người đã từng vào sinh ra tử với sự sống còn của dân tộc trong Kháng Chiến Chống Pháp, Chống Mỹ.”

Thật là đau đớn! Thật là chua chát cho những kẻ bạc đầu, đen óc – như nhà văn Nhật Tiến và những kẻ cùng-đi-một-đường với ông ta! Đã bị những người cộng sản cầm bút chê hôi mùi thực dân đế quốc lại còn đòi đi song hành chỉ vì muốn cướp công lao xương máu của họ, vì họ đã “vào sinh ra tử với sự sống còn của dân tộc.”- (hết trích)

NGUYỄN THIẾU NHẪN

Nguồn : http://nguyenthieunhan.wordpress.com

Trả lời của Nhật Tiến :

Đây là một bằng chứng bắt quả tang sự cắt xén lươn lẹo một đoạn văn rồi tuôn ra luận điệu chụp mũ để xuyên tạc sự thật. Nguyễn Thiếu Nhẫn tưởng người đọc không có tài liệu hay cơ hội đối chiếu nên vẫn theo thói quen giở thói bất lương của mình. Trong đoạn văn Nguyễn Thiếu Nhẫn trích ở trên:

Chúng tôi vẫn thao thức với vận mệnh đất nước. Dù ở trên phần đất nào, trong hay ngoài quê hương, dù định kiến chính trị khác nhau như thế nào, qua lời các anh chị, chúng tôi vẫn thấy chúng ta còn nhiều điểm tương đồng”,

Anh ta đã cố ý cắt xén phần sau của toàn câu, mà nguyên văn đã in ở những trang trước về “lá thư ngỏ gởi văn nghệ sĩ trong phong trào văn nghệ phản kháng tại quê nhà ”, xin nhắc lại như sau:

Dù ở trên phần đất nào, trong hay ngoài quê hương, dù định kiến chính trị khác biệt như thế nào, thì qua lời viết của các anh chị, chúng tôi nhận thấy chúng ta vẫn còn nhiều điểm tương đồng. Chúng ta đã cùng mang chung những nỗi đớn đau khi nhìn thấy quê hương điêu tàn, đồng bào lầm than khổ cực. Chúng ta đã có chung một niềm mơ ước về một tương lai đẹp đẽ của đất nước, ở đó giặc dốt, giặc nghèo, giặc ngu muội bị đẩy lui và mỗi người Việt Nam có được một đời sống đáng sống. ”

(xin coi lại phần gần cuối trang 41)

Nguyễn Thiếu Nhẫn trả lời ra sao với những độc giả của anh ta về cung cách cầm bút thiếu lương thiện này khi thò tay cắt câu sau (phần in đậm dưới đây) rồi dùng câu trước tác giả chưa nói hết ý, để làm luận chứng cho sự chửi bới vô tội vạ của mình :

Chúng ta đã cùng mang chung những nỗi đớn đau khi nhìn thấy quê hương điêu tàn, đồng bào lầm than khổ cực. Chúng ta đã có chung một niềm mơ ước về một tương lai đẹp đẽ của đất nước, ở đó giặc dốt, giặc nghèo, giặc ngu muội bị đẩy lui và mỗi người Việt Nam có được một đời sống đáng sống?”

Và các độc giả của Nguyễn Thiếu Nhẫn sẽ nghĩ sao khi bây giờ thấy rõ mình đã bị anh ta nhồi nhét vào đầu những luận-cứ lươn lẹo, cắt xén, xuyên tạc để vu cáo và nhất là nhân danh chính nghĩa “chống Cộng” cứ to mồm hô hoán chửi bới cả một công trình tim óc của nhiều người !

Than ôi! Thị trường chữ nghĩa ở hải ngoại trong bao nhiêu năm nay vẫn đầy rẫy những thứ rác rưởi này, hỏi nếu ai cũng cứ im lặng mãi mãi thì những thứ lộn sòng chữ nghĩa này còn quấy hôi bôi nhọ, làm nhục bộ mặt của những người Việt Quốc Gia chân chính cho tới bao giờ ?

***

2) NGUYỄN HỮU NHẬT đã bịa đặt trắng trợn cái gọi là “Tuyên ngôn Thơ đỏ của Nhóm Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương” để đánh lừa người đọc. Vì nhu cầu làm sáng tỏ vấn đề, nên dù biết đã làm phí giấy, tốn mực, nhưng tôi cũng phải tường thuật đầy đủ nội dung như sau :

Sách “ Đá đổ Mồ Hôi” của Sắc Không (tức Nguyễn Hữu Nhật) do Làng Văn của Nguyễn Hữu Nghĩa ở Canada xuất bản năm 1997, trang 98 có đoạn như sau :

(trích 4 trang rưỡi liên tục sau đây)

“Một trong những đám “ghetto” văn nghệ thuộc mặt chữ nhiều, hiểu lòng nghĩa ít, ở ngoài này phải kể tới các tay thơ văn nhà nghề từng chủ trương Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương. Cuốn sách in năm l990, cộm cứng tới 797 trang, rống lên kêu gọi người cầm bút trong và ngoài nước:

VẬN HỘI MỚI *

(* Tuyên Ngôn Thơ Đỏ của Nhóm Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương. SanTa Ana, tháng 4 năm 1990, trang 126 sách đã dẫn.)

Con đường chông gai ấy

dĩ nhiên trở lực nhiều

Xuất phát từ lãnh đạo

giới bảo thủ quan liêu

Chỉ nhìn thấy quyền lực

không trông rõ lớn lao

Bao khát vọng quần chúng

đang dâng lên cao trào

Nhưng trở lực lớn nhất

phải kể ra trước hết

Nơi chính mỗi cá nhân

con người giới cầm bút

Họ phải biết cảm thông

sâu sắc với quần chúng

Đứng về phía đám đông

rồi chính mình lột xác

Trong thời gian gần đây

đời quanh ta bao thứ

Đang mãnh liệt đổi thay

Mỗi ngày một thay đổi

Người cầm bút phải biết

tự mình bước khỏi ra

Cái ốc đảo cá thể

vào cuộc đời chung hòa

Nhập trong sự sống mới

Đang ra sức chuyển nhanh

Chỉ ở vị trí mới

chức năng mới hoàn thành

Quả là quanh con người

và trong mỗi con người

Từng nhà văn đã đổi

bao khát vọng cuộc đời

Chắc chắn là không nhỏ

cũng chẳng hề gián đơn

Những mơ ước về một

cuộc đời tốt đẹp hơn

Xã hội có đầy đủ

dân chủ và tự do

Ai cũng được hạnh phúc

áo ấm cùng cơm no

Ngăn cản làm sao được

cao trào của con người

Bước vào thế kỷ mới

ở tất cả mọi nơi

Các nhà văn Việt Nam,

giới cầm bút nói chung

Không thể không nhìn thấy

cuộc “thay máu” tới cùng

Nhịp tim đập chia xẻ

chan hòa cùng niềm tin

Về một vận hội mới

(niềm tin ôi niềm tin)...

* Tuyên Ngôn Thơ Đỏ của Nhóm Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương. SanTa Ana, tháng 4 năm 1990, trang 126 sách đã dẫn.

“ Nhà thơ tình Lê Thị Ý, hiện ở Mỹ, người có thói quen hết sức dè dặt trong Sinh hoạt Văn học Nghệ thuật Hải ngoại đọc lại bài thơ trên, cũng phải thở dài thườn thượt:

Cởi ra rồi lại trói vào

Cao trào cũng phải

thoái trào chịu thua

Con rùa

Phản kháng mu rùa

Cái càng phản kháng

con cua cắp người. . .

“ Nhà báo Thợ Hồ, người có giọng văn “bê-tông” và ý tứ “cốt sắt” chuyên “trộn xi-măng” bọn văn nghệ nằm vùng, lại bảo: “Khốn kiếp! “Trăm Hoa vẫn Nở trên Quê Hương chính là tiếng gõ búa, quay ma-ni-ven cho ồn lên trong tiểu thuyết Giông Tố của ông Vũ Trọng Phụng, bọn đầy tớ của Nghị Hách đập át giọng người kêu cứu, để chủ của chúng tha hồ hiếp Thị Mịch trên xe! Tiếng ồn kiểu ấy, 7 năm sau, tức ngay lúc này đây vẫn còn đang ầm ầm trong văn học, báo chí Việt ngoài nước !”

“ Nhà báo Mõ Lờ Vờ, vua “chọc cười, rơi lệ”, rất tinh đời qua câu chuyện kể sau đây:

XỐC QUẦN

(Xốc quần quần tụt tụt quần. Xốc sao cho bọn cù lần mỏi tay)

“Bà Khúc Minh Thơ, Chủ tịch Hội Gia Đình Tù Nhân Chính trị, tới thăm nhà một nữ hội viên, thấy thằng cháu bé khoảng năm tuổi cứ luôn tay xốc quần. Khúc Phu Nhân bèn hỏi:

- Nè! Em nổi tiếng may đồ giỏi, sao hổng sửa cái lai quần cho thằng nhỏ, mắc công chuyện thời cũng phải mua cho va sợi dây nịt chớ... ?

Bà chủ nhà, lắc đầu, cười:

- Không được đâu! Chị à! Lưng quần của nó phải rộng.Luôn luôn tụt. Mãi mãi xốc. Tự tụt. Tự xốc. Lúc nào nó cũng bận rộn với việc xốc xốc, tụt tụt !

- Em, hành thằng nhó, chi vậy?

Bà chủ nhà, hết sức vui vẻ, xòe ngay lá bài tẩy của mình:

- Cháu nó phá quá, chị à! Mở lồng cho chim bay túa ra sân, vớt cá vàng trong bồn... Nói chung là nó phá loạn nhà. Em lại không thể khuyên bảo hay đánh mắng gì được cháu. Giận điên người. Hội Bảo Vệ Trẻ Em ở đây mạnh hơn Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị. Cái khó ló cái khôn. Em mua toàn quần thật rộng cho cu cậu mặc. Thường trực tụt. Tha hồ xốc. Còn tay nào rảnh mà phá phách nữa?

Bà Khúc Minh Thơ phá ra cười, xong giật mình đánh thót một cái, kêu lên:

- Chết ! Chết !

- Chị nói gì? Ai chết?

- Còn ai dzô đây nữa! Em rõ thiệt... Cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn mình ngoài này, phần lớn, cũng mắc chứng “quần rộng”! Lo lắc lia lịa. Kéo lên. Rớt xuống. Kéo lên.

Mệt nghỉ ! Hổng có phá lại được bọn đỏ. Chúng vẫn tàng tàng chơi trò “ cá chậu, chim lồng!”

- Thôi, em hiểu ra rồi. Trăm hoa vẫn nở ? Các lực lượng dân chủ. Trăm thứ quần rộng. Hết quần nhân nghĩa Nhật Tiến tới quần yêu nước Bùi Tín, rồi quần thương nòi Dương Thu Hương. Nay lại đến quần “Ông Nguyễn Hộ” rồi quần “Ông Hà Sĩ Phu”… Sao hai “ông” ấy có lắm “cháu” ngoan ở hải ngoại thế ? Chết mất thôi !

- Chị dzìa nghen em! Nè, thằng cu Xốc* kia, bác dzìa đââây ! Cha mày chớ, xốc goài !

- Chị đi đâu mà vội thế ?

- Kiếm mớ dây nịt !

(Ngưng trích trong cuốn Đá Đổ Mồ Hôi của Sắc Không tức Nguyễn Hữu Nhật, Làng Văn xuất bản, trang 98-101)


Bà Khúc Minh Thơ


 

Ý KIẾN CỦA NHẬT TIẾN

1) Xin nói ngay, bài thơ ngũ ngôn VẬN HỘI MỚI mà Nguyễn Hữu Nhật ghi chú “Tuyên Ngôn Thơ Đỏ của Nhóm Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương. SanTa Ana, tháng 4 năm 1990, trang 126 sách đã dẫn” là hoàn toàn xuyên tạc, có ác ý.

Anh ta đã lấy một đoạn văn của tôi viết về Nguyên Ngọc ở trang 126 cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở , rồi chế ra thành bài thơ ngũ ngôn kể trên, tự ý đặt tên là “Vận Hội Mới” và khoác cho nó cái nhiệm vụ là “Tuyên Ngôn Đỏ” để đánh lừa người đọc. Xin coi đoạn văn của tôi ở cuối trang 66 trong sách này.

Hỏi có còn thủ đoạn nào lưu manh hơn nữa, nhất là lại được tiến hành bởi một người vừa mang danh nghĩa là nhà Thơ, là Họa sĩ, là tác giả những cuốn Hoa Đào Năm Ngoái (về Ngọc Hân Công Chúa), Thơ Hoa Sen (về Phật Giáo), Chí Tôn Ca (về Thiên Chúa Giáo, sách đã đem trình bản thảo lên tới cả Trung Ương Tông Đồ Mục Vụ Hải Ngoại ở Vatican), và chủ trương nhà xuất bản Anh Em, Hương Xa.

Nguyên văn đoạn mà Nguyễn Hữu Nhật đã lấy ra của tôi trong bài tôi viết về Nguyên Ngọc như sau:

Con đường chông gai ấy, dĩ nhiên có nhiều trở lực xuất phát từ giới lãnh đạo bảo thủ, trì trệ, chỉ nhìn thấy quyền lực mà không thấy sự khát vọng lớn lao của tuyệt đại đa số quần chúng, nhưng trở lực trước hết phải kể đến chính cá nhân của mỗi con người trong giới cầm bút. Họ phải biết cảm thông sâu sắc với quần chúng, phải biết đứng về phía quần chúng để tự lột xác chính mình. Trong thời gian gần đây, đời sống quanh ta đã có biết bao nhiêu là đổi thay mãnh liệt. Người cầm bút phải tự bước ra khỏi cái ốc đảo của mỗi người để hoà nhập vào đời sống đang chuyển mình. Bởi chỉ ở vị trí mới đó, người cầm bút mới có thể hoàn thành được chức năng của mình. ”

Và Nguyễn Hữu Nhật chế thành thơ 5 chữ để đặt tên là “Tuyên Ngôn Đỏ”:

Con đường chông gai ấy,

dĩ nhiên trở lực nhiều

Xuất phát từ lãnh đạo

giới bảo thủ quan liêu

Chỉ nhìn thấy quyền lực

không trông rõ lớn lao

Bao khát vọng quần chúng

đang dâng lên cao trào…” …vân.. vân…

Tôi coi đây là một trong những sự vu khống trắng trợn nhất của một thứ tâm địa ti tiện nhất trong lãnh vực chữ nghĩa. Tôi thực tình cảm thấy xấu hổ khi phải đứng chung hàng ngũ với những người cầm bút nhân danh chống Cộng theo kiểu đốn mạt này.

2) Khẩu khí trên những trang sách của Nguyễn Hữu Nhật vừa được tôi trích dẫn ở trên còn thể hiện ở việc anh ta đem bà Khúc Minh Thơ với tuổi già khả kính vào những chuyện “tụt quần, xốc quần” qua mấy câu thơ mà Nguyễn Hữu Nhật cho là của Mõ Làng Văn tức Nguyễn Hữu Nghĩa kể lại (đúng là tác phong tung hứng, gian manh của một lũ Maffia VănNghệ).

Chúng còn gài vào những chữ để nhục mạ cả Cộng đồng:

Cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn mình ngoài này, phần lớn, cũng mắc chứng “quần rộng”! Lo lắc lia lịa. Kéo lên. Rớt xuống. Kéo lên.Mệt nghỉ ! Hổng có phá lại được bọn đỏ. Chúng vẫn tàng tàng chơi trò “ cá chậu, chim lồng!”

Cũng trong Mục Chém Đá trên báo Làng Văn do Nguyễn Hữu Nhật phụ trách, cùng với sự phụ họa của Nguyễn Hữu Nghĩa dưới bút hiệu Mõ Làng Văn, Cung Vũ...v..v...cả hai trong suốt một thời gian dài đã vấy bùn lên rất nhiều văn hữu có uy tín trong Văn Bút VN Hải Ngoại để đến nỗi cả một tập thể trong tổ chức này đã chia rẽ tan hoang và gây mang tiếng trên trường Quốc tế vì đã bị treo giò hoạt động một thời gian và phải nhờ đến nhân sự Quốc tế đứng ra can thiệp, hòa giải !

(Xin coi thêm về những thủ đoạn của nhóm này ở phần sau)

V . Phụ Lục :

Trước khi chấm dứt Phần I nói về cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương, xin mời độc giả đọc thêm 3 bài, coi như phần phụ lục của Phần này :

1) Một bài do tôi được phân công viết về nhà văn Nguyên Ngọc, đã in trong cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương, phần nói về Tác giả và Tác phẩm.

2) Vài bài Thơ Văn thời Văn Chương Phản Kháng

3) Một bài trích từ cuộc phỏng vấn chính tôi do nhà văn, nhà thơ Đỗ Quyên thực hiện. Trong cuộc phỏng vấn, người hỏi đã duyệt qua nhiều giai đoạn trong cuộc đời cầm bút của tôi, bao gồm nhiều lãnh vực như viết văn, làm báo Thiếu Nhi, sinh hoạt Văn Bút, chuyện vượt biển và đặc biệt có phần hỏi về việc ấn hành cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương.

Tôi xin trích đăng phần Phỏng vấn về Cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở để mời độc giả thưởng lãm với sự đồng ý của anh Đỗ Quyên, người thực hiện cuộc phỏng vấn.
                    3
Sự Thật không
thể bị chôn vùi


____________

LỜI NÓI ĐẦU

Như đã thông báo trong Hành Trình Chữ Nghĩa cuốn I , cuốn II của tập sách này đã tới tay bạn đọc với tên “SỰ THẬT KHÔNG THỂ BỊ CHÔN VÙI”.

Tựa đề này hẳn gây thắc mắc cho bạn đọc : “Sự thật nào đã bị chôn vùi ?”

Xin nói ngay, kể từ khi miền Nam bị mất vào tay Cộng sản, đã có hàng ngàn, hàng vạn con người mang theo những kinh nghiệm sống chất chứa rất nhiều sự thật hãi hùng trước khi họ bị vùi thây trong rừng sâu, nơi biển cả, hay trong các trại cải tạo..v…v…Những Sự Thật ấy tuy riêng lẻ, tuy xẩy ra ở những thời điểm khác nhau, không gian khác nhau, nhưng trong một ý nghĩa nào đó, có thể gói chung vào hai chữ “vận nước” mà phạm vi cuốn sách nhỏ bé này không có ý định đề cập tới.

Ở đây, người viết chỉ nói đến một vài Sự Thật, tuy không lớn lao và hãi hùng như đã xẩy ra trong vận nước, nhưng trong sinh hoạt chữ nghĩa ở hải ngoại, triền miên trong nhiều năm ròng rã, cho đến nay nó vẫn bị chôn vùi.

Đó là sự thật về những thiện chí của nhiều người muốn đóng góp tâm sức vào công cuộc chung của Cộng đồng nhưng rồi đã bị xuyên tạc, bôi nhọ do ý đồ đen tối của nhiều kẻ chỉ muốn gây chia rẽ hàng ngũ cầm bút hoặc triệt hạ những nhân vật có thiện chí để khiến cho tiềm năng chống Cộng của người Việt hải ngoại trở nên suy yếu đi.

Nhưng cái hậu quả tệ hại nhất sinh ra bởi những mưu đồ triệt hạ liên tục không ngơi nghỉ này, là nhiều người Việt đã nẩy sinh lòng thắc mắc, nghi hoặc, tâm trạng hoang mang, thậm chí đến nỗi tuy nhìn nhau mà không còn phân biệt được ai là bạn, ai là thù.

Sở dĩ để xẩy ra cái tình trạng đau lòng như vậy là vì ta đang sinh sống ở một xứ tự do. Đã có nhiều kẻ lợi dụng sự tự do quý báu này để làm xáo tung hàng ngũ những người Việt hải ngoại lên bằng đủ mọi thủ đoạn đê hèn qua những lời lẽ hạ cấp, ti tiện để xuyên tạc, chụp mũ, dựng chuyện lên đời tư của nhiều người khiến cho trong một thời gian dài cả nhiều chục năm, nhiều người chân chính tuy đứng trong cùng một hàng ngũ, tuy cùng chia sẻ với nhau lý tưởng chống CS và xây dựng lại quê hương nhưng lại đã nhìn nhau ngỡ ngàng, lắm khi còn sinh ra đến cả sự khinh bỉ hay hận thù.

Đây là một trong những nguyên nhân khiến cho Cộng đồng VN hải ngoại trong nhiều thập niên qua, tuy vững mạnh về mặt đời sống nhưng rất yếu kém trong thành quả chống lại CSVN.

Xin lấy một ví dụ cụ thể :

Vào cuối thập niên 80, đất nước đã tới thời điểm cực kỳ đen tối : Đổi Mới hay là Chết, nên Tổng Bí Thư của Đảng CSVN là Nguyễn văn Linh vào khoảng năm 1987 đã phải chấp nhận một sự đổi mới và để cho văn nghệ sĩ trong nước được tự do phần nào viết lên tâm tư, nguyện vọng của mình. Nhờ thế mà ở trong nước, vào thời điểm đó đã nổi lên một cao trào mà ở hải ngoại mệnh danh là “cao trào văn chương phản kháng”.

Trên phương diện sách lược chống lại Cộng sản, thì dù có đặt nghi vấn là “phản kháng thật hay phản kháng giả” thì mọi người cũng nên thổi vào đám lửa “phản kháng” đó cho nó bùng rộng thêm và khiến cho sự kiện đó hóa ra“lộng giả thành chân” thì mới phải.

Biết đâu, trong hàng ngũ những nhà văn, nhà thơ gọi là phản kháng đó lại chẳng có những con người khát khao tự do thực sự, viết ra những lời tâm huyết thực sự và muốn tâm tư, tình cảm của mình được tất cả mọi người Việt trên toàn thế giới lắng nghe?

Đây là lý do mà nhiều anh chị em trong làng văn, làng báo ở hải ngoại hồi cuối thập niên 80 đã ngồi lại với nhau, bỏ công sức biên soạn một cuốn sách mà chính chế độ CSVN khi hết “cởi trói văn nghệ sĩ” lại cũng muốn đem vùi giập.

Cuốn sách mang tên ‘TRĂM HOA VẪN NỞ TRÊN QUÊ HƯƠNG”, lấy ý tưởng của nhà biên khảo Hoàng văn Chí hồi cuối thập niên 50’s viết cuốn Trăm Hoa Đua Nở Trên Quê Hương khi nói về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.

Khi nhóm biên soạn chúng tôi sử dụng những chữ “Vẫn Nở” là có ngụ ý rằng tinh thần Nhân Văn Giai Phẩm của văn giới trong nước hồi thập niên 50, sau hơn ba chục năm sau vẫn còn tồn tại, và do đó đã tạo nên phong trào Văn Chương Phản Kháng để cho ta thấy rằng từ hồi Nhân Văn Giai Phẩm đến nay, sau biết bao nhiêu vùi giập mà Trăm Hoa VẪN NỞ .....

Ý hướng của nhóm thực hiện rõ ràng như thế mà vẫn bị đám tay sai nhà nước cộng sản hợp sức cùng một vài tên lộn sòng vào hàng ngũ cầm bút khác, nhất loạt xuyên tạc nội dung của cuốn sách để dẫn dắt dư luận cộng đồng đi theo một hướng khác, đến nỗi nhiều người chỉ mới nghe thấy tên cuốn sách “Trăm Hoa Vẫn Nở….” là đã nghĩ ngay đó là sản phẩm tuyên truyền cho Cộng Sản rồi.

Cho nên, đã tới lúc phải để cho Sự Thật không bị chôn vùi, phải có một hợp lực đồng loạt lên tiếng để xóa tan những ngộ nhận, vạch mặt chỉ tên những bàn tay lợi dụng ngòi bút để phá hoại Cộng đồng ngõ hầu vừa làm sạch mội trường chữ nghĩa, vừa trả lại công bằng cho những người công chính.

Biên soạn cuốn sách này, ngoài việc góp phần cho mục đích kể trên, tôi còn tiếp tục ghi lại vài dấu ấn trong cuộc hành trình chữ nghĩa của tôi, và nhân dịp này tôi cũng mong muốn góp phần vào công cuộc dọn dẹp sạch sẽ môi trường chữ nghĩa tại hải ngoại vốn đã từ lâu bị bôi bẩn bằng những thứ văn phong tục tĩu, vô văn hóa của một số ngòi bút vẫn tự phong cho mình vai trò ngự sử văn hóa, văn nghệ, nhân danh lý tưởng chống Cộng để vùi giập, hạ nhục rất nhiều con người công chính.

Thành quả chống Cộng chẳng thấy đâu, mà chỉ thấy bọn này đã làm lợi rất nhiều cho Cộng sản.

Như đã thưa trước trong Lời Mở Đầu, việc tôi biên soạn cuốn sách này, ngoài việc làm sáng tỏ thêm những ngộ nhận đã từng bao trùm lên cuốn sách Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương cùng một số tác phẩm của riêng tôi , tôi còn mong muốn góp phần vào công cuộc dọn dẹp sạch sẽ môi trường chữ nghĩa tại hải ngoại vốn đã từ lâu bị bôi bẩn bằng những thứ văn phong tục tĩu, vô văn hóa của một số ngòi bút vẫn tự phong cho mình vai trò ngự sử văn hóa, văn nghệ, nhân danh lý tưởng chống Cộng để vùi giập, hạ nhục rất nhiều con người công chính. Đây là một hậu quả bi thảm của tình trạng Tự Do trong địa hạt Chữ Nghĩa đã bị lạm dụng tối đa bởi những kẻ không biết “ liêm sỉ” hay “tinh thần trách nhiệm” là cái gì. Bọn chúng chỉ viết cho sướng tay, cho thỏa mãn tự ái cá nhân và đầu óc bệnh hoạn vốn chỉ chất chứa những hình ảnh tục tĩu để lúc nào cũng sẵn sàng văng ra trên bài viết của mình.

Tôi nói không ngoa!

Thí dụ có mấy ai biết rằng Nguyễn Hữu Nhật với bút danh Chém Đá, phụ họa với Nguyễn Hữu Nghĩa với bút danh Mõ Làng Văn trong một bài viết về một nhân vật già khả kính là bà Khúc Minh Thơ, Chủ tịch Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị, mượn cớ thằng nhỏ phải mặc quần rộng vì nghịch ngợm cứ phải xốc lên, để đưa ra 2 câu thơ với ý đồ bệnh hoạn, tục tĩu không thể che giấu: “Xốc quần quần tụt tụt quần. Xốc sao cho bọn cù lần mỏi tay” ( Trong cuốn Đá đổ mồ hôi, của Sắc Không tức Nguyễn Hữu Nhật ở Na Uy do Làng Văn của Nguyễn Hữu Nghĩa ở Canada xuất bản).

Người Việt chân chính hỏi ai mà không phẫn nộ khi nhận ra rằng môi trường văn hóa hải ngoại đã bị bọn chúng quấy hôi bôi nhọ đến như thế !

Trên đây chỉ là một ví dụ trong hằng hà sa số những bài viết hạ thấp Nhân phẩm cũng như bôi đen Chính nghĩa chống Cộng xuất hiện đầy rẫy trên báo chí, trên Internet trong hàng chục năm vừa qua.

Tôi nghĩ, đã tới lúc chúng ta không thể tiếp tục cho phép tình trạng viết lách hỗn loạn , tục tĩu, vô luân ấy được duy trì mãi để khiến cho người Việt ở hải ngoại cứ bị mang tiếng xấu xa chỉ vì từ lâu đã dung dưỡng những loại cầm bút vô trách nhiệm, kém đạo đức và thiếu lương tâm này.

Ước mong những nỗ lực chính đáng và chân thành của tôi sẽ không trở thành tiếng kêu trong sa mạc.. ..

 

NHẬT TIẾN

California , tháng 5 năm 2012

 


Nhà Văn Nhật Tiến

 


Nhà Văn Nhật Tiến & Ông Khai Trí Nguyễn Hùng Trương và

Gia đình Thiếu Nhi

 

 

 

PHẦN I : Cuốn Trăm Hoa

Vẫn Nở Trên Quê Hương

Cái nhìn của một người trong cuộc về cuốn

TRĂM HOA VẪN NỞ TRÊN QUÊ HƯƠNG

TRĂM HOA VẪN NỞ TRÊN QUÊ HƯƠNG là nhan đề một cuốn sách được biên soạn bởi 27 người viết ở hải ngoại vào cuối thập niên 80 khi ở trong nước có vấn đề “đổi mới” và “cởi trói cho văn nghệ sĩ”.

Chính nhờ đường lối cởi mở này (dù chỉ trong một thời gian ngắn ngủi rồi lại bị khép lại) mà nhiều tâm tình thầm kín, nhiều ước vọng tự do của cả người viết lẫn người đọc có dịp được bung ra, in ấn tràn lan trên nhiều trang báo trong nước.

Là những người sinh hoạt trong giới Văn Học Nghệ Thuật ở hải ngoại, nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình hay biên khảo đã cảm thấy mình có liên đới trách nhiệm đến sự kiện kể trên và nhất là thấy nội dung vấn đề rất gắn bó với nhu cầu đấu tranh cho Tự Do và Dân Chủ trên đất nước. Vì thế, một số đông đảo anh chị em cầm bút đã ngồi lại với nhau trong những buổi gặp gỡ cuối tuần ròng rã trong cả gần hai năm trời để :

1) Tìm hiểu cặn kẽ diễn tiến của phong trào văn chương đổi mới mà chúng tôi gọi tên là Văn chương Phản kháng, có mục tiêu “không chấp nhận loại văn chương cung đình” vốn đã tồn tại trước đó ở trong nước.

2) Góp phần phổ biến những lời tâm huyết, những sáng tác mang đầy những ước mơ về quyền làm người của nhiều văn nghệ sĩ trong nước, điển hình như:

- “ Mình trót nói dối hết hai phần ba thì cũng phải tự phủ định hai phần ba ấy. Đến tuổi này, lúc này, không nói dối được nữa.” (nhà văn Nguyễn Khải).

- “ Không phải cứ là nhà chính trị thì cao hơn nhà nghệ sĩ. Nhà văn lớn phải là nhà tư tưởng lớn. Chính trị có nhiều cấp độ, thật đáng buồn khi người ta đòi văn nghệ trở thành sự vụ.... tức là hạ chính trị xuống những cấp độ thông tục nhất và bắt văn nghệ "phục vụ" ở cấp độ ấy.” (Tạ văn ThànhHọc viện Nguyễn Ái Quốc).

-“ Kiểu bảo trợ có nhiều mức, nhiều dạng, nhưng mức cao nhất là đẻ ra nghệ thuật quan phương, như kiểu "tao đàn" của Lê Thánh Tông. Dạng nghệ thuật này khó mà có giá trị cao, vì nó gắn với "cảm hứng nhà nước" diễn đạt tư tưởng của nhà nước nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước. Trong khi đó, nghệ thuật chân chính phải phát ngôn ý thức nhân dân, ý thức thời đại, phải diễn đạt nhu cầu phát triển con người và xã hội cao nhất của thời đại và dân tộc.

(Nguyễn Đăng Mạnh- Đại Học Sư Phạm) ….v…v…

3) Nhóm biên soạn cũng muốn gióng lên lời đáp ứng nhiệt thành rằng: những nguyện vọng chính đáng của anh chị em cầm bút trong nước nói riêng, và toàn thể đồng bào nói chung đã được bên ngoài nước lắng nghe và được hỗ trợ bởi khối đông đảo người Việt hải ngoại, tất nhiên trong đó cũng có giới cầm bút.

4) Chúng tôi gom góp các tài liệu văn học nghệ thuật được sáng tác trong thời gian đó kèm thêm những bài nhận định, tổng hợp hay phê phán do chúng tôi viết để in thành cuốn “Trăm Hoa Vẫn Nở trên Quê Hương”.

***

Một công việc làm với đầy đủ ý nghĩa như thế tất không thể là một sự “quỵ lụy, lòn gối, lấy lòng CSVN” như một số dư luận từ xưa tới nay đã nghĩ, do nhiều người đã bị hướng dẫn bởi vài kẻ cầm bút thiếu lương tâm, sách thì chưa đọc, chưa biết sự thể Ất Giáp thế nào đã nhào vô chửi bới với lời lẽ rất vô văn hóa để chứng tỏ ta đây mới là người đích thực chống Cộng và có quyền vùi giập bất cứ ai không vừa ý mình.

Nhưng có biết đâu, càng chống cuốn “Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương” bao nhiêu thì càng rơi vào ý muốn của đám lãnh đạo CSVN bấy nhiêu. Bằng cớ là chỉ vài năm sau, tất cả những tâm tư, nguyện vọng về tự do sáng tác ghi gói trong phong trào văn chương phản kháng đều đã bị chính quyền trong nước dẹp bỏ.

Bây giờ, thời gian đã trôi qua trên 20 năm, tưởng cũng đã đủ để nhìn lại sự việc một cách chính xác, và nhất là để làm sáng tỏ những sự kiện xoay quanh cuốn sách này vốn vẫn còn gây thắc mắc trong tâm trí nhiều người mà vì lý do sách đã tuyệt bản, không mấy ai còn lưu giữ để có thể tìm hiểu cặn kẽ.

Riêng cá nhân tôi, nhân danh một người đã góp phần biên soạn cuốn sách này, tôi thấy cần phải lên tiếng trả lời những luận điệu xuyên tạc đã có từ nhiều năm qua (và cho đến bây giờ nó vẫn còn được sử dụng mỗi khi thấy cần bêu tên cuốn sách để làm luận chứng chống Cộng) để một phần làm sáng tỏ vấn đề và phần khác, trả lại sự công bằng cho những thiện chí của nhiều người cầm bút, cả trong lẫn ngoài nước ở vào thời điểm cuối thập niên 80’s.

Xin nêu một luận điệu chống đối hàm hồ sau đây do Nguyễn Thiếu Nhẫn đã viết:

“Mấy ông văn nghệ sĩ lưu vong tỵ nạn chắc vì nhớ cái cũi sắt của “nền văn chương cũi sắt” ở trong nước mà họ đã liều sống, liều chết thoát ra, bèn ra báo Hợp Lưu và xuất bản sách “Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương ” đem về nước để dâng Đảng lập công....”...

Tôi sẽ chứng tỏ lối phê phán kiểu này chỉ là sự bất lương cầm bút vì sự thực ra sao, nội dung cuốn sách sẽ tự nó nói lên . Xin mời độc giả tiếp tục đọc những phần kế tiếp.

Trước khi đi vào phần nói về sự ra đời của cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương, một công trình biên soạn của 27 tác giả ngoài nước viết về 79 tác giả trong nước, được ấn hành vào tháng 9-1990 ở Nam Cali, xin mời độc giả đọc trước một số cảm nghĩ của các nhà văn, nhà thơ, nhà biên khảo..v..v.. ở VN vào thời kỳ của những năm 1986-1989 mà ta vẫn thường gọi là “Thời Kỳ Đổi Mới” với “Phong trào Văn Chương Phản Kháng”.

CẢM NGHĨ CỦA GIỚI VĂN HỌC

NGHỆ THUẬT TRONG NƯỚC TRƯỚC

CHỦ TRƯƠNG “ĐỔI MỚI”

1) Ngày 7 tháng 10 năm 1987, Tổng Bí thư Nguyễn văn Linh đã có một cuộc gặp gỡ với văn nghệ sĩ.

Nhà văn Nguyên Ngọc, khi đó đang là Tổng Biên tập báo Văn Nghệ, tức là người có trách nhiệm duy trì đường lối của tờ báo và tuyển chọn các bài vở để cho in lên mặt báo, đã phát biểu một bài dài trong có đoạn như sau :

Một nguyên nhân khác, theo tôi, là đẻ ra từ hệ tư tưởng bao cấp nặng nề thống trị trong suốt thời gian rất dài, kể cả “bao cấp về tư tưởng”. Có những thời kỳ dài, tôi xin nói một cách hình ảnh, cứ hàng quý đến kỳ anh tuyên huấn cấp dưới lại khăn gói lên tuyên huấn cấp trên, lĩnh một ít tư tưởng do cấp trên cấp phát cho, về để tiêu dùng cho mình và đơn vị mình trong suốt quý. Hết quý, lại đi lĩnh suất khác. Nếu chẳng may đến kỳ rồi mà giao thông trắc trở chưa đi lĩnh được suất tư tưởng mới thì đành lúng túng ngồi chờ vậy, chẳng thể tự mình nghĩ ra được và dám nghĩ ra cái gì khác. Bởi đã quen: quyền suy nghĩ là quyền của cấp trên!

Tôi e rằng tình trạng này đến nay cũng chưa hết hẳn đâu.

Trong văn học nghệ thuật, tình trạng này cũng nặng nề. Mãi gần đây, một hôm tôi được chứng kiến một nhà văn có tên tuổi hẳn hoi và đang giữ một cương vị khá quan trọng trong bộ máy lãnh đạo văn học ta, lên chỗ Ban Văn hóa văn nghệ Trung ương của đồng chí Trần Độ, nằng nặc đòi: “Trung ương phải chỉ đạo cho chúng tôi nên xây là chính hay chống là chính chứ! Lúc này văn học nên ca ngợi cái tốt là chính hay đấu tranh chống tiêu cực là chính? Phê bình đấu tranh đến mức nào? Tỷ lệ như thế nào?... Yêu cầu Ban của Đảng phải chỉ đạo cho chúng tôi!...”.

Riêng tôi, hôm ấy, tôi nghĩ: nếu tự anh không biết được trước cuộc đời hôm nay anh cần ca ngợi cái gì, đấu tranh chống cái gì, anh yêu ai ghét ai, anh phải yêu như thế nào và ghét như thế nào... thì anh còn là nhà văn cái nỗi gì!”

(Nhà văn Nguyên Ngọc phát biểu trong cuộc gặp gỡ của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với văn nghệ sĩ, ngày 7-10- 1987)

Nguồn

http://www.viet-studies.info/NhaVanDoiMoi/NguyenNgoc_CanPhatHuyDayDu.htm

2) Ngày 28 tháng 1-1988, tại tòa soạn báo Văn Nghệ ở Hà Nội có một cuộc hội thảo bàn tròn giữa nhiều văn nghệ sĩ, có thể kể : các nhà văn Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, các nhà phê bình nghiên cứu văn học Hoàng Trinh, Vũ Đức Phúc, Phong Lê, Bùi Công Hùng (Viện Văn học), Hà Xuân Trường (Tạp chí Cộng sản), Tạ Văn Thành (Học viện Nguyễn Ái Quốc), Từ Sơn, Nguyễn Nghĩa Trọng, Tú Ngọc (Ban Văn hóa văn nghệ Trung ương), Phan Hồng Giang (Nhà xuất bản Văn Học), Lại Nguyên Ân (Nhà xuất bản Tác phẩm mới), Hoàng Ngọc Hiến (Trường viết văn Nguyễn Du), Hồ Ngọc, Ngô Thảo (Hội nghệ sĩ Sân khấu), Nguyễn Đăng Mạnh, Phương Lựu, Lã Nguyên (Đại học Sư phạm I Hà Nội), Hà Minh Đức (Đại học Tổng hợp Hà Nội).

Báo Văn Nghệ trong 2 số 9 và 10 ra những ngày 27-2 và 5-3-1988 có tường thuật buổi thảo luận này.

Xin trích vài ý kiến đã phát biểu :

- NGÔ THẢO (Hội nghệ sĩ Sân khấu):

Nếu thời gian qua ta chưa làm được những gì lẽ ra có thể làm được thì cái chính là vì chúng ta đã quá gắn với một xã hội lấy chính trị làm thống soái.

LÃ NGUYÊN (Đại học Sư phạm I Hà Nội):

Có ý kiến nói nếu người lãnh đạo hiểu biết văn nghệ thì tình hình sẽ tốt đẹp. Không phải thế đâu. Phạm sai lầm trong các vụ việc trước đây là những người rất hiểu văn nghệ. Ai đã cấm văn nghệ dân gian chống tiêu cực trước đây ? và gọi nó là phản động? Ai đã cấm Hà Nội Trong Mắt Ai? Chính là những người rất hiểu văn nghệ. Lập trường quan phương đương thời khiến họ không chấp nhận những nghệ thuật nhân danh ý thức phi quan phương. Giải tỏa điều này thế nào, xin chốt lại ở dân chủ hóa, ở tự do sáng tác, mà tựu trung là chống bao cấp, nhất là bao cấp về tư tưởng. Vì bao cấp tư tưởng trong văn nghệ chính thống, quan phương, không cho nó bung ra để phát ngôn cho ý thức nhân dân, cho sự tự ý thức của lịch sử.

TẠ VĂN THÀNH (Học viện Nguyễn Ái Quốc):

Không phải cứ là nhà chính trị thì cao hơn nhà nghệ sĩ. Nhà văn lớn phải là nhà tư tưởng lớn. Chính trị có nhiều cấp độ, thật đáng buồn khi người ta đòi văn nghệ trở thành sự vụ....tức là hạ chính trị xuống những cấp độ thông tục nhất và bắt văn nghệ “phục vụ” ở cấp độ ấy.

NGUYỄN KHẢI (Nhà văn):

Ai bảo là từ 75 mới phát sinh tiêu cực, chứ thật ra nhiều cái đã có nguồn gốc từ trước đó lâu rồi, ví dụ như quan niệm hiện thực là phải tốt đẹp. Đã có những chủ trương giả, dẫn đến bố trí cán bộ giả, chính sách giả, kết quả cũng giả nốt. Viết theo sát cái đó thì thành văn chương nói dối, ba anh nói dối đối đáp nhau. Đến khi người ta nhận ra cái giả ấy, thay bằng chính sách khác, thì chính sách mình còn đó sờ sờ chịu trận, không trốn được. Mình trót nói dối hết hai phần ba thì cũng phải tự phủ định hai phần ba ấy. Đến tuổi này, lúc này, không nói dối được nữa.

HỒ NGỌC : (Hội nghệ sĩ Sân khấu)

Đọc Mác-Lênin, tôi không thấy chỗ nào nói văn nghệ phục vụ chính trị cả. Chỉ nói gắn bó, nói mật thiết, chứ không nói phục vụ.

Đồng ý là không có tự do tuyệt đối. Nhưng bản chất của nghệ thuật là sáng tạo tự do. Sáng tạo tức là anh làm ra cái đầu tiên, duy nhất, không lặp lại (chứ không phải hàng gia công hàng loạt). Tính chất công việc đòi hỏi phải có tự do. Thứ hai là động cơ sáng tạo: phải có thôi thúc bên trong - nó cũng tự do. Thứ ba, mục đích sáng tạo - cũng tự do.

NGUYỄN ĐĂNG MẠNH :

(Đại học Sư phạm I Hà Nội)

Nhưng khía cạnh mà tôi cho có vấn đề hơn cả, có vấn đề một cách lâu dài, thường xuyên, ấy là quan hệ giữa nhà chính trị cầm quyền với các nghệ sĩ, trí thức. Đây cũng là vấn đề quan hệ giữa hai thứ “bá quyền”: quyền lực chính trị và “quyền” của các giá trị văn hóa, tri thức khoa học.

Về quyền lực chính trị, càng ngược về quá khứ ta càng thấy quyền lực tuyệt đối của người cầm quyền, cá nhân họ được tôn lên thành đối tượng của sự sùng bái. Nhưng xã hội càng văn minh thì càng tìm ra được những thể chế thích hợp, người cầm quyền chỉ là người quản lý, điều hành trên cơ sở những “khế ước” do cả xã hội đề ra làm quy tắc chung. Về “quyền” của các giá trị văn hóa, khoa học, có lẽ không cần biện giải là có hay không, bởi ngay xã hội văn minh vẫn có những nghệ sĩ lớn, những trí thức lớn được mọi người hâm mộ, nể trọng.

Trong khi đó, nghệ thuật chân chính phải phát ngôn ý thức nhân dân, ý thức thời đại, phải diễn đạt nhu cầu phát triển con người và xã hội cao nhất của thời đại và dân tộc. Những nghệ sĩ lớn bao giờ cũng phải “bung ra” khỏi ý thức ấy: độ lớn về tư tưởng và nghệ thuật của họ, đến thời đại còn chưa dễ chấp nhận, nói gì đến cái khung hẹp và thực dụng của tư tưởng và nghệ thuật cung đình.

(Những ý kiến trên được phát biểu trong cuộc thảo luận bàn tròn tại tuần báo Văn Nghệ, Hà Nội ngày 28-1-1988 do Vân Trang lược ghi)

Nguồn :

http://www.viet-studies.info/NhaVanDoiMoi/NhieuTacGia_ThaoLuanBanTron.htm

II.-DƯ LUẬN VĂN GIỚI HẢI NGOẠI

VỀ PHONG TRÀO VĂN CHƯƠNG PHẢN KHÁNG

Ở TRONG NƯỚC.

Bất cứ ai trong văn giới hay báo giới vào thời kỳ đó (những năm cuối của thập niên 80) nếu còn quan tâm đến sinh hoạt chữ nghĩa thì không thể không đón nhận những tín hiệu thay đổi quanh vấn đề sáng tác ở quê nhà.

Một số có tinh thần lạc quan thì cho rằng đã có một “phong trào văn chương phản kháng”

Một số vị khác thì dè dặt nêu vấn đề “ Phản kháng thật hay Phản kháng giả ?”

Hai ý kiến này đã làm bùng nổ một cuộc tranh luận trên hầu hết các trang báo, đặc biệt là các trên các tạp chí văn nghệ của người Việt hải ngoại trên toàn thế giới.

Tuy nhiên, dù tranh cãi, dù đã vận dụng tất cả kinh nghiệm sống cũng như lý luận văn học để bênh vực cho ý kiến của mình thì hầu hết những cây bút tham dự cuộc tranh luận này đều đã chứng tỏ được hai điều :

- Một là họ có thực sự theo dõi những biến chuyển văn hóa, chính trị ở quê nhà và có đọc những tác phẩm của nhiều văn nghệ sĩ ở VN đã viết ra trong thời kỳ đó.

- Hai là dù tranh luận cách nào thì vẫn giữ thái độ ôn hòa, nghiêm túc, theo thói quen của người cầm bút chân chính là có một thái độ văn hóa khi đề cập đến một văn đề văn hóa.

Nhưng ngoài những ngòi bút nghiêm túc vừa kể, trên mặt báo cũng không thiếu gì kẻ chưa biết Ất Giáp sự thể ra sao, chưa từng đọc một bài nhận định nghiêm túc về phong trào này, hầu hết chỉ nghe đồn láng thoáng ở chốn trà đình tửu quán đã nhào vô nhân danh chống Cộng để đánh hôi bằng những ngón võ bất cận nhân tình, để chỉ mong tên tuổi của mình cũng được nhắc nhở trên mặt báo, hay là để thỏa mãn một mối tư thù hay lợi nhuận cá nhân vặt vãnh khi cố tình đi vùi giập kẻ khác.

Hậu quả là dư luận trong cộng đồng đã bị đầu độc bởi những tên viết lách kiểu này, đến nỗi về sau, khi cứ nhắc tới cái tên “ Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương” là nhiều người đã nghĩ ngay đến một cuốn sách thiên Cộng, bợ Đảng, chống lại lý tưởng Tự do, Dân chủ.

Và đấy là một thực trạng đáng buồn và là lý do mà chương sách này được viết ra để cho “Sự thật không thể bị chôn vùi.”

***

Trong lãnh vực văn hóa đích thực, đã có nhiều nhà văn, nhà phê bình văn học viết bài phê bình, nhận định về phong trào Văn Chương Phản Kháng đăng rải rác trên nhiều tạp chí xuất bản ở hải ngoại hay qua các cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh loan tải trên toàn thế giới. Xin tạm trích những lời nhận định của vài cây bút tiêu biểu :

Nhà văn MAI THẢO

(trong cuộc phỏng vấn do nhà phê bình Thụy Khuê thực hiện cho đài RFI)

Thụy Khuê: Anh nghĩ sao về văn học phản kháng trong nước?

Mai Thảo: Trong một cuộc phỏng vấn mới đây cho báo Hợp Lưu của nhóm Khánh Trường, tôi có nói đến văn nghệ phản kháng, tôi cũng không thể trả lời được gì nhiều bởi vì tôi không theo dõi từ đầu, và những tiểu thuyết, những bài viết, những bài báo của những người ở trong khuynh hướng gọi là đối kháng ở Việt Nam bây giờ, gửi ra, tôi cũng không đọc được nhiều. Tôi cho là phong trào đối kháng đó có. Đáng lý nó phải có từ lâu rồi. Nhưng có lẽ bởi vì trước kia, sự kiểm soát của đảng, của nhà nước gắt gao quá, hay họ không có tinh thần đối kháng lại chế độ, chính sách của chế độ, lúc ấy họ không có môi trường, không có phương tiện để tỏ hiện sự đối kháng của họ ra, mà thời gian gần đây, họ đã có một số điều kiện để có thể lên tiếng hay để có thể xuất bản những cuốn sách không theo đường lối, chính sách của văn chương xã hội chủ nghĩa. Nhưng nói đến phong trào đối kháng sẽ đi tới đâu thì tôi không rõ bởi vì nếu đảng hay nhà nước lại thi hành chính sách kiểm soát khắc khổ trở lại thì cái đối kháng ấy có thể bị dập tắt.

Nguồn : RFI

****

Nhà văn NGUYỄN ĐỨC LẬP:

……..

Xin thành thật nể phục những cây bút đã đóng góp vào cao trào dùng chữ nghĩa để phản kháng tại Việt Nam hiện nay.

Dù là chống chủ nghĩa, chống chế độ hay chống lại những việc làm sai trái của cán bộ địa phương, mọi sự phản kháng bằng sách vở, báo chí, trên giấy trắng mực đen, đều đáng nể phục.

Những ai đã từng sống với Cộng sản đều biết rằng chế độ vốn tráo trở như nướng bánh phồng, vốn lật lọng như đảo bàn tay. Nhân dân không tin chế độ. Hơn ai hết, những người được phép cầm viết trong chế độ hiểu rõ bản chất của chế độ.

Một lời tuyên bố “cởi trói văn nghệ” của Tổng bí thư Nguyễn văn Linh, đã nổi lên một phong trào phản kháng trong văn chương bác học, đã có những tên tuổi nổi bật, đã có những tác phẩm được bàn tán.

Điều nầy, có thể giải thích bằng hai lý do.

Một là, các nhà cầm bút, làm công việc phản kháng ở Việt Nam, đã đặt niềm tin tuyệt đối vào lãnh tụ. Lãnh tụ đã hạ lệnh “cởi trói”, các nhà cầm bút tuyệt đối tin tưởng rằng đây là toàn tâm thiện ý của đảng, họ không hề cảm thấy phải dè dặt ở sự tráo trở, lật lọng ngày một ngày hai, đúng với bản chất của chế độ trước đây. Niềm tin sáng chói đó đã kết tụ thành những dòng chữ, những tác phẩm.

Hai là, các nhà cầm bút phản kháng, đã nương lấy cơ hội “cởi trói” để đứng về phía nhân dân, nói lên tiếng nói uất nghẹn của đại khối nhân dân. Đây là một hành vi can đảm, cực kỳ can đảm, đem chính cái an nguy của mạng sống mình, nói lên tiếng nói của đám đông bị đàn áp.

Cho dù phát xuất từ lý do nào, các người cầm bút phản kháng ở Việt Nam cũng đáng nể phục. Trong trường hợp ở lý do thứ nhất, họ đáng nể phục vì vẫn còn có niềm tin sáng chói, trong khi, niềm tin để viết đã mất ở một số cây viết ở hải ngoại, mất đến nỗi phải vay mượn niềm tin từ kẻ khác và tưởng đó là của mình.

Trong trường hợp ở lý do thứ hai, không đáng khâm phục, kính trọng sao, những người đã đem hết tương lai, sinh mạng của mình để đánh đổi tiếng nói đau thương của nhân dân?…….

(Tạp chí Văn Học ở Nam Cali - Số 49, Đặc biệt Văn Chương Phản Kháng –ra ngày 1 tháng 3-1990)

NGUYỄN HƯNG QUỐC :

Nhà văn, Nhà Phê bình Văn học

....Cuộc vận động đổi mới diễn ra trên cả ba lãnh vực: sáng tác, phê bình và lý luận.

Cuộc vận động đổi mới trong lãnh vực sáng tác khởi sự khá sớm và kéo dài khá lâu. Tuy nhiên, số cây bút tham gia và thực sự thành công tương đối. Cũng dễ hiểu. Đổi mới trong sáng tác có nghĩa là đổi mới cả một nếp cảm xúc trong con người. Nhiều nhà văn, nhà thơ ở Việt Nam tự ví mình như những con gà công nghiệp, sau một thời gian dài bị nhốt trong chuồng, nay được thả ra giữa sân, mắt lóa nắng, đi đứng lạng quạng, gặp cái gì cũng ngỡ ngàng, không biết bới rác và không biết về đâu đến đâu.

Với những mức độ khác nhau, có thể coi những tên tuổi sau đây ít nhiều đổi mới sáng tác của mình. Về văn xuôi, có Nguyễn Minh Châu, Dương Thu Hương, Lê Lựu, Xuân Cang, Phạm thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Phùng Gia Lộc... Về thơ, có Nguyễn Duy, Ý Nhi, Xuân Quỳnh, Trần Vàng Sao, Trần Mạnh Hảo... Có thể tóm gọn sự đổi mới của họ vào bốn điểm :

- Thứ nhất, họ chấp nhận có mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp vô sản và trong bản thân xã hội chủ nghĩa.

- Thứ hai, vì chấp nhận có mâu thuẫn nên họ cũng chấp nhận có bi kịch.

- Thứ ba, họ chấp nhận, trong văn học, có một khu vực khá rộng rãi dành cho cái “tôi”, cái riêng của con người, những con người bình thường, tầm thường.

- Và thứ tư, họ chấp nhận sự hiện diện của những yếu tố “vô hại” trong nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa.

Bốn điểm gọi là mới trên, so với lịch sử văn học dân tộc nói chung, là những cái cũ mèm, tuy nhiên, so với lịch sử văn học cộng sản, từ năm 1945 đến nay, là những canh tân độc đáo và cực kỳ quan trọng.

(Phong trào đổi mới văn học tại Việt Nam từ phản tỉnh đến phản kháng- Tạp chí Văn Học ở Nam Cali, số 53-54 tháng 7&8-1990)

***

Nhà phê bình Văn học THỤY KHUÊ: duyệt qua tính chất của văn học phản kháng ……

Những năm gần đây, văn học phản kháng không phải là một phong trào. Không bùng lên như một ngọn lửa, nhưng là những đợi sóng ngầm, những lớp địa tầng, sửa soạn chuyển mình, ấp ủ những suy tư chín mùi của những con người đã sinh ra hoặc đã trưởng thành trường kỳ luân lạc trong đói rét, thiếu thốn, hy sinh và đau khổ, trên nhiều miền đất nước, qua nhiều lãnh vực của nghệ thuật và tư tưởng.

Văn học phản kháng hiện nay là tiếng kêu tuyệt vọng của thế hệ trí thức trung niên và trẻ, thấm nhuần tư tưởng Cộng sản trước sự đổ vỡ, tha hóa của con người dưới chế độ độc tài, mục rữa vì những tệ đoan xã hội, chồng chất những quyết đoán bất công, u tối và sai lầm từ nhiều thập kỷ.

Những bài nghị luận phê bình lãnh đạo hiện diện những ngòi bút sắc bén, đôi khi lý luận bằng chính hệ thống triết học trong tư tưởng Cộng sản, tìm đến cội nguồn của sự sai lầm trong nền văn học chỉ đạo, bằng lối suy luận có hệ thống vững chãi và sâu xa: Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc, Hồ Ngọc...

Trên địa hạt sáng tác, xuất hiện nhiều nét đặc thù:

- Những quằn quại của con người khát khao tìm mà chưa từng được biết hạnh phúc (Thời Xa Vắng, Lê Lựu. Bên Kia Bờ Ảo Vọng, Dương Thu Hương. Thiên Sứ, Phạm thị Hoài...).

- Cái nhìn bất lực của con người trước sự tan rã của những tâm hồn lành mạnh trong một môi trường mục rữa (Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt, Lưu Quang Vũ).

- Nét cay độc và sâu sắc của bằng người đã thấy giữa “có nhân” và “phi nhân” không còn giới tuyến, đả phá đến tận nền tảng chế độ đưa con người tới chỗ phi nhân (hiện tượng độc đáo Nguyễn Huy Thiệp).

- Lật lại quá trình của một chế độ, khai sinh trên đất nước với một lý tưởng cao đẹp: giải phóng quê hương, dìu dắt con người đến thiên đường hạnh phúc, nhưng trên đường đi đến “thiên đường” đã dùng mọi thủ pháp xảo trá để tiến bước, dẫm lên lý tưởng và đè bẹp con người, đưa dân tộc tới ngõ cụt ngày nay (Ly Thân, Trần Mạnh Hảo).

- Lật đổ hiện tượng thần thánh hóa chiến tranh với những nhân vật vĩ đại, anh hùng: có những người hèn của chiến tranh.

- Đặt lại giá trị cuộc chiến Nam - Bắc như một cuộc nội chiến với bộ mặt thê thảm! Anh em tàn sát lẫn nhau.

- Phán xét đấu tranh giai cấp như một sai lầm trầm trọng đưa đến hủy hoại con người, trong đó có cái phần dốt nát, vô học (dưới tên vô sản) đã đè bẹp cái phần trí thức, tư tưởng và tình cảm (dưới tên tiểu tư sản) (Những Mảnh Đời Đen Trắng, Nguyễn Quang Lập).

- Những tư tưởng đến từ những cái nhìn thăm thẳm vào con người, vào cuộc sống của chính những tâm hồn - sinh ra trong xã hội Cộng sản – nhìn và đánh giá sự thất bại của cái gia đình, cái xã hội đã hoài thai và mang nặng đẻ đau mình, bằng cái nhìn thẳng thắn đến độ lạnh lùng, gay gắt; để thức tỉnh mọi người, để đổi thay hay cảnh giác xã hội, để tìm một lối thoát cho quê hương đã cận đường, tuyệt lộ.

Những tư tưởng bắt nguồn từ những cỗi rễ sâu xa như thế, không dễ gì mà dập tắt cho được.

THỤY KHUÊ

(Tiến trình văn học phản kháng từ 1980 đến 1990- tạp chí Văn Học ở Nam Cali, số 51- ngày 1 tháng 5-năm 1990)

III.- VIỆC ẤN HÀNH CUỐN

“TRĂM HOA VẪN NỞ TRÊN QUÊ HƯƠNG”

Ở HẢI NGOẠI

Trong bầu không khí sôi nổi về văn chương phản kháng ở trong nước như thế, nhiều anh em trong giới văn nghệ ở hải ngoại tự nhận thấy có nhu cầu phải thực hiện một điều gì khả dĩ góp phần phổ biến cho những tiếng nói ấy, một mặt để những sáng tác của họ được nhiều người biết đến hơn và một mặt khác để người trong nước nhận thấy cũng đã có những hỗ trợ tinh thần ở bên ngoài xoay quanh công cuộc phản kháng mà họ đang tiến hành.

Sáng kiến thu thập tài liệu rồi phân công viết bài nhận định để in thành một cuốn sách bắt nguồn từ đó.

Những vị tham gia công việc này kể là rất đông đảo, cả ở Mỹ, ở Canada, Âu châu, Nhật Bản hay Úc đại Lợi..v..v... Người ở xa thì sưu tập tài liệu từ trong nước, nhận phân công viết bài, người ở ngay Orange County (khoảng trên 10 vị) thì tụ họp hàng tuần để bàn thảo nội dung cuốn sách, góp ý cân nhắc để chọn lựa các tài liệu đã có, lập danh sách phân công viết bài.

Tuy nhiên những vị đóng góp công sức tích cực nhất thì có thể kể tên như : Trần Vịnh, Đỗ hữu Tài, Thân Trọng Mẫn, Nguyễn Quốc Trung, Lê Bửu Tấn, Nguyễn Bá Tùng, Trương đình Luân, Hoàng Sử Mai, Nhật Tiến, Nguyễn Mộng Giác, Hoàng Khởi Phong, Đỗ Thái Nhiên….

Cuối cùng, cuốn TRĂM HOA VẪN NỞ TRÊN QUÊ HƯƠNG được thành hình, in trong loại sách khổ lớn dầy 800 trang, bao gồm 27 tác giả ngoài nước viết về 79 tác giả trong nước. Theo tôi, có lẽ đây là một lần duy nhất tính cho đến nay, đã có một nhóm cầm bút thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau ngồi lại được với nhau trong suốt ròng rã hơn một năm trời với những sinh hoạt sôi nổi, nhiệt tình và đầy thiện chí. Họ đã tiến hành một công trình văn học đến nơi đến chốn kể từ lúc khởi đầu cho đến khi hoàn tất, không có một trở lực nào mà họ không xúm lại cùng giải quyết để vượt qua. Cuối cùng, cuốn sách đã được in ra và phát hành ở Nam Cali vào khoảng tháng 8-1990.

IV- NỘI DUNG CUỐN

TRĂM HOA VẪN NỞ TRÊN QUÊ HƯƠNG

******

Lời nói đầu của nhà xuất bản

(Có in lại nguyên văn Lời Nói Đầu, xin coi trang 36 )

Nội dung cuốn sách gồm bẩy phần và một phần kết thúc gọi là CHUNG, theo thứ tự như sau :

PHẦN 1: Bối cảnh và Diễn tiến

PHẦN 2: Tác phẩm và Tác giả

PHẦN 3: Hai biến cố Phản Kháng tiêu biểu

PHẦN 4: Phân tích Chính trị

PHẦN 5: Tài liệu : Lý Luận văn Học và

Tự Do Tư Tưởng

PHẦN 6: Văn Liệu

PHẦN 7: Nhìn từ nước ngoài.

CHUNG : Thư ngỏ gửi anh chị trong phong trào văn chương phản kháng ở trong nước –Nhóm Chủ biên

Đóng góp bài vở cho 7 phần này gồm bài viết của 27 ngòi bút ở hải ngoại, theo thứ tự như sau:

- Từ phong trào Nhân văn Giai phẩm đến Cao trào văn nghệ phản kháng (1986 -1989) - Thân Trọng Mẫn .

- Phong trào đổi mới văn học tại Việt nam: từ phản tỉnh đến phản kháng -Nguyễn Hưng Quốc

- Tâm lượng kẻ hào sĩ - Nghiêm Xuân Hồng

- Nguyễn Minh Châu và Hoàng Ngọc Hiến, những người cầm bút trung thực - Nguyễn Mộng Giác

- Nhà văn Nguyên Ngọc: suy nghĩ và hành động

trong cao trào văn nghệ phản kháng - Nhật Tiến

(Có in lại nguyên văn trong sách này, xin coi trang 55)

- Lưu Quang Vũ: chim sâm cầm đã chết - Vũ Hạ

- Đọc Những Thiên Đường Mù của

Dương Thu Hương -Phạm Việt Cường

- Trần Mạnh Hảo một con đường ly thân

với quá khứ - Hoàng Chính Nghĩa

- Hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp - Phan Tấn Hải

- Giới thiệu Trần văn Thủy - Thụy Khuê

- Tản mạn với Phạm thị Hoài - Phạm Kim Khải

- Dẫn nhập: Trường hợp tạp chí Langbian

- Dẫn nhập về đại hội nhà văn lần thứ IV - Hoàng Khởi Phong

- Dẫn nhập phần Bốn

- Những suy nghĩ chính trị về cao trào văn nghệ phản kháng tại Việt Nam (1987-1989) - Đỗ Hữu Tài

- Từ đề cương 1943 đến nghị quyết 1987 - Đỗ Thái Nhiên

- Chung quanh cuộc tranh luận về quan hệ giữa chính trị và văn học – Nguyễn Bá Tùng

- Dẫn nhập phần Năm

- Hạnh ngộ cụ Nguyễn Mạnh Tường - Phạm Trần

- Ảo tưởng và thực tế qua một vài tác phẩm của văn chương phản kháng trong nước - Nguyễn văn Sâm

- Dòng thơ từ phía khác - Hoàng Sử Mai

- Vai trò của Ký trong cao trào văn nghệ phản kháng - Trương Đình Luân

- Vài suy nghĩ liên quan đến văn chương phản kháng - Trương Vũ

- Ly thân hay ly đảng - Thi Vũ

- Cảm nghĩ rời - Nguyễn Đức Lập

- Lá thư Hoa Thịnh Đốn - Bùi Bảo Trúc

- Sĩ phu và sinh mệnh dân tộc - Thập Lang

- Văn chương phản kháng, nhìn từ hải ngoại - Nguyễn Trần Ngọc Thu

CHUNG

- Thư ngỏ gửi anh chị trong phong trào văn chương phản kháng ở trong nước – Nhóm Chủ biên ( Có in lại nguyên văn trong sách này, xin coi trang 39.)

***

Nội dung cuốn sách cũng trích dẫn nhiều tác phẩm Thơ, Văn, Ký, Tham luận, Phỏng vấn..v.v..của 76 tác giả trong nước, liệt kê như sau :

* Hòa đồng nhân loại - Nguyễn Minh Châu

* Vết về chiến tranh - Nguyễn Minh Châu .

* Nhớ anh Châu - Phạm Tiến Duật

* Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió - Hoàng Ngọc Hiến

* Phỏng vấn Hoàng Ngọc Hiến: Phê bình cần có văn - Sông Hương

* Đề cương đề dẫn để thảo luận ớ hội nghị đảng viên bàn về sáng tác văn học của hội nhà văn Việt Nam - Nguyên Ngọc

* Gặp gỡ Nguyên Ngọc - tạp chí Sông Hương

* Phỏng vấn Nguyên Ngọc - tạp chí Sông Hương

* Vấn đề cách chức Nguyên Ngọc : Dương-T-Hương & Trần Bạch Đằng

* Hồn Trương Ba da hàng thịt (cảnh 5) - Lưu Quang Vũ

* Molière Việt Nam tên là Lưu Quang Vũ -

* Christian Hoche (Lưu Trùng Dương chuyển dịch)

* Lưu Quang Vũ vị đăng đắng nồng cay một mùa hoa Hànội – Minh Trang

* Những Thiên Đường Mù (một đoạn) - Dương Thu Hương

* Quan điểm về thời cuộc - Phỏng vấn Dương Thu Hương – CA TPHCM .

*. Đừng lạm phát tuyên ngôn về đổi mới - Dương Thu Hương

* Dương Thu Hương tự bạch phỏng vấn - Nguyễn Trọng Chức

* Ly thân (Chương cuối) - Trần Mạnh Hảo

* Nhớ Nguyễn Bính (thơ) - Trần Mạnh Hảo

* Đêm phương bắc nhớ về tổ quốc- (thơ) - Trần Mạnh Hảo

* Vĩnh biệt tiếng hót (thơ) - Trần Mạnh Hảo

* Con gái Thủy Thần - Nguyễn Huy Thiệp

* Cún - Nguyễn Huy Thiệp

* Vàng lửa - Nguyễn Huy Thiệp

* Chuyện tử tế (phân cảnh) - Trần văn Thủy

* Lời cảnh tỉnh nghiêm khắc - Nguyễn thị Ngọc Phượng

* Thiên Sứ (Chương I và X) - Phạm thị Hoài

* Người đoán mộng giỏi nhất thế gian - Phạm thị Hoài

* Viết như một phép ứng xử - Phạm thị Hoài

* Những cây thông kêu (thơ) - Thanh Thảo

* Mùa thu đi qua (thơ) - Đặng thị Vân Khanh

* Cảm xúc đi trên đường Nguyễn Trãi (thơ) Đặng thị Vân Khanh

* Phản ứng chống đối - Biện Duy Tích và Ngô Thanh Loan

* Phản ứng ủng hộ - Tuấn Đức, Lưu Vĩnh Hy, Hà Sĩ Phu, Mai Dy Linh, Đình Hy, Trung Hồ, Hoàng Bình, Dương thị Kim Loan, Nguyễn văn Toàn, Nguyễn Lương Tâm, Nguyễn Hữu Cầu và Nguyễn Thân Văn

* Bản tin tức đọc tại CLB Cựu Kháng Chiến –

Nguyễn Đắc Xuân, Phan Vũ và Thu Bồn

* Nhà văn và số phận của nhà văn - Tham luận - Thu Bồn

* Chức năng của người cầm bút -Tham luận - Dương Thu Hương

* Dân chủ hóa và trách nhiệm của nhà văn – Tham luận - Bùi Minh Quốc

* Tham luận - Bửu Tiến

* Góp ý về lãnh đạo văn nghệ - Thương Chính

* Gặp gỡ Trần Dần: đối thoại mất ngủ - Hoàng Phủ Ngọc Tường

* Tôi thích viết văn trên giấy có kẻ dòng (thơ) - Phùng Quán

* Ái hoa và nấm độc (thơ) - Hữu Loan

* Phỏng vấn Hoàng Cầm -tạp chí Sông Hương

* Kết luận của bộ chính trị về mấy vấn đề trước mắt trong công tác tư tưởng -Báo SGGP

* Văn học, cuộc trường chinh gian khổ- Trần Bạch Đằng

* Góp phần tổng quát về vấn đề chính trị và văn nghệ - Trần Độ

* Phỏng vấn Nguyễn Đình Thi - tạp chí Sông Hương

* Về một phương diện quan hệ giữa văn nghệ và chính trị - Lại Nguyên Ân

* Chính trị và văn nghệ: đổi mới hay không đổi mới - Lữ Phương

* Cái hèn của người cầm bút - Phạm Xuân Nguyên

* Đoàn kết thực sự, dân chủ thực sự, đổi mới thực sự - Nguyễn Đăng Mạnh

* Chúng ta bảo vệ cái gì ? – Đặng Nhật Minh

* Ngẫu hứng và sáng tạo - Ma văn Kháng

* Vấn đề thẩm định văn học nghệ thuật và

ý niệm nhạc vàng – Nguyễn Trọng Tạo

* Thị hiếu và lối đọc truyện hiện nay qua một cuộc tranh luận - Đặng Anh Đào

* Cuộc sống hôm nay & trách nhiệm của thơ - Bùi Minh Quốc

* Góp ý về đổi mới -Tham luận tại Mặt trận Tổ quốc - Phan Đình Diệu

* Trên chuyến tàu tốc hành về năm 2000 - Vũ Kim Hạnh

* Biện chứng và ngụy biện trong công cuộc đổi mới - Hà Sĩ Phu

* Con khuớu xổ lồng- Nguyễn Quang Sáng

* Ôi, cam sao mà đắng- Ninh Đức Định

* Dưới tán rừng còn lại- Nguyên Linh

* Ba người trong hẻm đuôi voi -Xuân Đài

* Về nhà trước cơn mưa - Trang Thế Hy

* Người đội mồ - Trúc Chi

* Nhìn từ xa... tổ quốc (thơ) - Nguyễn Duy

* Cuộc chạy tiếp sức của bệnh sốt rét rừng (thơ) - Phạm Tiến Duật

* Cái nhìn của tương lai (thơ) - Thanh Thảo

* Di cảo (thơ) - Thanh Thảo

* Mộng dữ (thơ) - Trinh Đường

* Người đàn ông 43 tuổi nói về mình (thơ) – Trần Vàng Sao

* Cuộc đời như vợ của ta ơi (thơ) - Việt Phương

* Người ơi (thơ) - Đỗ Nam Cao

* Hànội Perestroika - Nguyễn Trọng Tạo

* Lương Thiện (thơ) - Trần Chấn Uy

* Viết về một ông quan (thơ) - Nguyễn văn Chương

* Lời khai bị can – Trần Huy Quang

* Suy nghĩ trên đường làng - Hồ Trung Tú

* Bông lúa nổi giận - Hà văn Thùy

* Công lý, đừng quên ai - Lâm thị Thanh Hà

* Đêm trắng - Hoàng Hữu Các

* Tiếng kêu cứu của một vùng văn hóa - Võ văn Trực

************

Phần dưới đây xin trích lại hai bài đã in trong cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương :

- Lời Nói Đầu (trang 7 cuốn Trăm Hoa).

- “Lá thư ngỏ gửi anh chị em trong phong trào văn chương phản kháng ở trong nước”.(trang 795 cuốn Trăm Hoa)

Lời Nói Đầu của Nhà Xuất Bản

(Trong Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương- trang 7)

Đặt tựa đề “Trăm Hoa Vẫn Nở” cho Tuyển Tập này, chúng tôi có ý làm một việc tương tự công trình sưu tập văn liệu mà cụ Hoàng văn Chí đã làm vào thập niên 50 với cuốn: “Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc” . Chúng Tôi cũng muốn ghi lại những chứng tích của một cuộc đấu tranh cho Tự do Dân chủ và Nhân quyền khởi đi từ những người trong nước hiện nay. Trước đây cụ Hoàng đã viết:

“Bốn mươi năm một thuở” (nhân dịp hạ bệ Stalin), họ (nhóm Nhân văn Giai phẩm) đều đứng dậy đấu tranh chố ng đảng, đòi phục hồi quyền tự do tư tưởng... Trí thức ở miền Bắc đã sản xuất được trên một trăm văn bản có giá trị. Cộng sản coi những bản văn ấy là những cỏ độc, nhưng chúng tôi coi những tác phẩm của họ như một “trăm hoa” thực sự .”

Hôm nay, lại có những người cầm bút nổi dậy đòi phục hồi quyền tự do bất tử ấy:

“Hoa Vẫn Nở... .”

Ở chủ đề này, chúng tôi nhận định rằng :

“Hiện có cao trào phản kháng ở trong nước”.

Đây không phải chỉ là một “phong trào văn nghệ “ mà còn xuất hiện đồng thời một cao trào quần chúng đón nhận, thôi thúc và cổ võ dòng văn chương thịnh nộ trong nước. Đây cũng chính là một trong những điểm khác biệt giữa “trăm hoa” bây giờ với “trăm hoa …trên đất Bắc”. Nhân văn Giai phẩm trước kia chưa ai có thể đặt thẳng các câu hỏi như bây giờ :

- “ Có hay không một khuynh hướng phủ nhận 40 năm văn học Xã Hội Chủ nghĩa”

- Có hay không “cái tâm lý muốn phủ nhận, xóa sạch”

Hồi đó cũng chưa có ai dám nói toạc ra trước mặt giới lãnh đạo Đảng và lãnh đạo văn nghệ rằng đời Lê, đời Trần đánh thắng ngoại xâm đâu cần đến sự hỗ trợ của phe Xã Hội Chủ Nghĩa ; họ chưa dám công khai phán xét tội của giới lãnh đạo, của đảng!

“Trăm Hoa Trên Đất Bắc” là một thiểu số văn nghệ sĩ làm một hành động bất khuất. Thiểu số ấy đã sớm phản tỉnh vì thấy cái tệ hại của chế độ chuyên chính, trong khi hầu hết dân miền Bắc lúc ấy chưa “mở mắt” hoặc còn sợ sệt. Bây giờ, thế giới ai cũng đã “sáng mắt”cả rồi.

Chúng tôi tin rằng các văn bản xuất hiện ở Việt Nam trong giai đoạn 1986-1989 sẽ là những “sử liệu quý báu cho các sử gia mai sau viết về một thời đại đen tối của dân tộc mang tên Thời đại Xã hội Chủ nghĩa”.

***

Đi vào việc hình thành Tuyển Tập, chúng tôi đã không tránh khỏi một vài điểm chưa thỏa đáng.

Vấn đề tuyển chọn tác giả, tác phẩm, văn liệu và dữ kiện thông tin trong nước: Số lượng tài liệu chúng tôi thu lượm được so với khối lượng sáng tác trong giai đoạn phản kháng vẫn còn quá ít ỏi. Có tác giả được nhận định là tiêu biểu cho dòng văn chương phản kháng thì chúng tôi lại không tìm được tác phẩm của họ.

Lại có những tác phẩm rất căn bản đã được nhiều tác giả khác trích dẫn như rường cột tư tưởng phản kháng nhưng không chuyển được ra nước ngoài. Dẫu sao tài liệu hiện có ở đây cũng đã thể hiện rõ nét đa diện và đa nguyên bởi sự khác biệt về động lực phản kháng, đối tượng phản kháng và cường độ phản kháng.

Chúng tôi cũng tin rằng các văn bản (tài liệu báo chí, các tác phẩm văn, thơ, ký, kịch, điện ảnh...) trong Tuyển Tập này sẽ đóng góp một số dữ kiện cần thiết cho các cuộc thảo luận giữa những người Việt trong khuôn khổ đấu tranh cho Tự do - Dân chủ và Nhân quyền tại Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi đã gom góp và lựa chọn một số sáng tác, tham luận có hệ thống cũng như cảm nghĩ tản mạn của những người đang thao thức vì vận mệnh tổ quốc trong thập niên giao thừa này.

Về số lượng các bài viết xuất hiện trên nhiều tạp chí hải ngoại, chúng tôi chỉ xin trích đăng một ít vì sách đã quá dầy.

Lời cuối, xin để tỏ lòng thành thật cám ơn bằng hữu gần xa đã trực tiếp hoặc gián tiếp giúp chúng tôi từ bước khởi đầu cho đến ngày ra mắt Tuyển Tập này.

Kính chào

Nhà Xuất Bản Lê Trần

California, USA

Tháng Bảy năm 1990

                   2

NGƯỜI TÙ CUỐI NĂM

Truyện ngắn của NHẬT TIẾN

Khi lão thủ trưởng về tới đơn vị thì trời đã xế chiều. Hôm nay Ba Mươi Tết, các cơ quan đều nghỉ việc nên truớc cổng trụ sở không còn diễn ra cái khung cảnh ồn ào, hỗn độn của đám dân chúng chờ đợi để xin giấy tờ. Việc canh phòng cũng lơi là hẳn đi. Trên chiếc chòi đóng bằng gỗ thùng sữa tùm hụp như chiếc chuồng chim, lão thấy một nhân viên của mình đang ngồi hút thuốc trong tư thế chiếc ghế ngồi bị đưa ngả cả về đằng sau để cho lưng anh ta dựa được hoàn toàn lên vách gỗ. Điều này làm anh ta không nhìn thấy vị thủ trưởng của mình vừa đạp xe tới. Mãi tới lúc lão ta xuống xe và đã dắt chiếc xe đeo lỉnh kỉnh đủ thứ túi, giỏ, gói đồ cồng kềnh đi qua cánh cổng làm bằng sườn gỗ và những sợi kẽm gai thì anh chàng gác trên chòi canh mới bật dậy, giọng nói hốt hoảng hẳn lên :

- Thưa thủ trưởng…. thủ trưởng đã về. . .

Lão ngước mắt nhìn lên. Ánh mắt đầy nghiêm khắc, nhưng miệng lão vẫn nở một nụ cười làm ra vẻ hiền lành, dễ thương tương phản hẳn với tia nhìn lạnh buốt như lưỡi dao mới mài sắc. Lão nói với thủ hạ một câu, với một giọng chọn lựa đủ để anh ta không đoán ra được là lão đã xuề xòa bỏ qua hay vẫn còn để tâm tới sự canh phòng lơi là của mình:

- Mọi sự tốt cả đấy nhỉ ?

Anh công an vội vã xoắn xuýt:

- Thưa thủ trưởng mọi sự tốt cả. Trừ có mỗi một vụ ngày hôm qua. . .

Anh ta chưa kịp nói hết câu lão đã đi ngang qua mặt, chẳng ra vẻ ngạc nhiên hay chú ý gì tới lời báo cáo bất thường này. Hình như lão ta không cho anh cái dịp để xuề xòa cái tội đã canh gác trong tư thế "Ngồi trên ghế mà dựa cả lưng vào vách gỗ để nhìn trời !".

Lão lầm lũi dắt cái xe đi qua một khoảng sân cỏ nhỏ. Mặt tiền của trụ sở cơ quan đóng im ỉm nhưng ở phía trong vọng ra những tiếng cười nói ồn ào. Lão đi vòng ra phía sau và qua khung cửa sổ, lão nghe thấy tiếng reo hò lẫn những tiếng chửi thề tục tĩu.

Lão dựng chiếc xe ở đầu hè, cố tạo ra tiếng động rổn rảng bởi chiếc bàn đạp cọ sát trên sàn xi măng để gây sự chú ý của mọi người. Lão không muốn khi mình sắp bước vào văn phòng mà mọi người trong đó không ai hay biết gì cả, nhất là trong cái hoàn cảnh tất cả đều đang bệ rạc chúi đầu vào canh bạc.

Sự đánh tiếng của lão có ngay kết quả, vì hình như trong đám nhân viên đang sát phạt, vẫn có kẻ thỉnh thoảng liếc ra sân dòm chừng. Tiếng động do lão gây ra lập tức làm cho tiếng ồn ào bỗng nhiên im bặt. Lão bước tới những bước thật chậm về phía cửa phòng. Lão cảm thấy hài lòng về sự im lặng tuyệt đối ở chung quanh mình. Điều đó có nghĩa là lão vẫn nắm trọn vẹn quyền uy ở đây, loại quyền uy luôn luôn gắn theo một mục tiêu là tạo ra cái cảm giác khiếp sợ bao trùm trên tất cả mọi người.

Rồi lão bước chân vào phòng. Kẻ đứng ngay phía ngoài là một nhân viên trẻ. Anh ta mới được đổi về đây không đầy hai tháng. Trong mọi trường hợp, anh ta luôn luôn chứng tỏ là một kẻ cuồng tín nhưng lại rất non tay nghề ở chỗ dễ hốt hoảng, dễ bối rối. Cho nên mới vừa chỉ chạm vào ánh mắt sắc lẻm của lão, là Vinh, tên anh ta, đã vội vàng nói bằng một giọng ấp úng:

- Thưa Thủ trưởng. . . . hôm nay cuối năm . . . . .

Rồi mặt đỏ rần lên, anh ta không thể tìm thêm được lời nào để tiếp nối câu nói của mình. Ngay lúc đó, ở góc phòng có giọng nói quen thuộc của Hào cất lên:

- Thủ trưởng đã về. Anh em đang vui tất niên. Nếu không mệt xin mời thủ trưởng nhập cuộc với anh em.

Lão đưa mắt về phía cuối phòng. Lão thấy Hào đang cởi trần và trên tay còn cầm mấy quân bài. Trong đám thủ hạ, Hào là kẻ vững chãi nhất. Gã có một đức tin mãnh liệt. Điều này nhiều lúc biến gã thành một kẻ cứng đầu, nhưng đồng thời cũng là một nhân viên ưu tú, góp phần đắc lực trong mọi công tác điều hành ở đây. Tuy nhiên về một phương diện nào đó, đối với thủ trưởng, gã là một tên đáng ngại. Tận tụy và hay rình mò. Đó là đặc điểm của những kẻ đứng chung trong cùng một ngành, làm chung một cơ quan, chia sẻ chung một mối quan tâm hay một công tác được giao phó.

Thái độ ngang nhiên của Hào đáng để cho lão ngừng lại một giây. Lão nhìn thẳng về phía Hào. Lão cố tạo cho mình một vẻ ngạo nghễ, ở ánh mắt, ở nụ cười chỉ nhếch ra không tới một nửa vành môi, bờ vai của lão cũng vuông thẳng lại. Rồi lão cất tiếng khoan thai, pha một chút bỡn cợt nhưng nhiều phần là quyền uy :

- Nhập cuộc với các đồng chí thì sẵn sàng rồi. Nhưng đừng vì ham vui mà mất cảnh giác đấy nhé.

Trong sinh hoạt thân thiết, ngoài nhiệm vụ hằng ngày, khi dùng tới tiếng "đồng chí" với nhau thì đó là lúc bắt đầu có vấn đề. Ai cũng thấy vậy. Và lão đã sử dụng tiếng xưng hô đó để bầy tỏ sự bất như ý của mình. Rồi không chờ cho Hào có dịp nói thêm một câu nào khác, lão lầm lũi quay lưng trở ra. Mấy nhân viên đang đứng gần đó vội vã lùi giật lại mặc dù lối đi còn rộng rãi. Lão trở về bàn giấy của mình trong một căn phòng ở cuối dẫy hành lang.

Khi lão kéo ghế ngồi xuống trước đống hồ sơ ngổn ngang trên mặt bàn thì Hào cũng đã vội vã theo vào. Bây giờ gã đã mặc thêm chiếc áo sơ mi tươm tất. Sự bỏ cuộc chơi đang ồn ào của gã để tới trình diện mình ngay khiến lão thấy cơn bực tức dịu lại. Lão nhoẻn ngay một nụ cười hoàn toàn dễ dãi rồi nói với gã bằng một giọng cởi mở, thân thiết:

- Sao chú Hào? Tết nhất rồi, nhớ nhà không?

Hào vui vẻ:

- Em mới nhận được thư của bà cụ hồi chiều. Cụ nhận được gói quà em gửi về rồi. Thôi, thà để tiền mua thêm cái bồi dưỡng cho nhà còn hơn là dẫn thân về, có đồng nào chạy vào tiền xe đi đường hết.

Lão mỉm cười :

- Hà..hà...Chớ không phải vì cô Tâm bên quán hàng trước cổng cơ quan mà chú chịu bỏ mấy ngày phép để ăn Tết ở đây hả?

Mặt Hào đỏ bừng lên. Gã tỏ ra luống cuống thấy rõ. Hiển nhiên là cấp chỉ huy của gã đã nhìn thấu đến tận tim đen của mình. Điều này làm lão thủ trưởng càng thêm hài lòng vì lão đã nắm trúng nhược điểm của gã nhân viên dưới quyền. Chỉ một sự vướng mắc này thôi thì lão cũng đã có dư điều kiện để vo tròn bóp méo con người của Hào như một món đồ chơi trong tay rồi.

Lão đổi giọng nghiêm chỉnh:

- Chú trẻ, chưa vợ thì có quyền tìm hiểu. Nhưng chớ có nhẹ dạ để mất cảnh giác đấy nhé.

Rồi lão chuyển ngay qua đề tài khác:

- Bây giờ chú báo cáo cho tôi cái vụ xẩy ra hôm qua coi.

Hào giật nẩy người lên. Gã thực sự thán phục cấp chỉ huy của mình về cái tài ma xó này. Lão ta về đây chưa đầy mười phút đồng hồ, lại chưa tiếp xúc với ai, chính gã là người đầu tiên đến chào lão trở về, thế mà lão đã "nắm được tình hình" thì thần sầu quỷ khốc thật! Gã cứ ngẩn mặt ra mất đến mấy giây rồi mới sực tỉnh và nói vội vã:

- Trình thủ trưởng, vụ này không xẩy ra trong phạm vi trách nhiệm của mình. Việc phát giác chiếc tầu trốn ra nước ngoài là ở khu vực của bên các đồng chí Vĩnh Hậu. Lúc bị phát giác, bọn phản động chạy phân tán khắp mọi chỗ. Đồng Văn có, Minh Thuận có. Thuận Hiệp cũng có. Riêng khu vực của mình thì chúng em chỉ bắt được một tên mà chúng em đánh giá là chủ chốt. Bản báo cáo đầy đủ nội vụ em đã thảo và đệ trình trong hồ sơ trên bàn của thủ trưởng.

- Chú thông báo vụ này đi những đâu rồi?

- Chưa! Em chờ lệnh thủ trưởng !

Mặt lão thoáng một vẻ hài lòng. Dĩ nhiên trước sau gì thì hồ sơ cũng được chuyển đi, nhưng lão không muốn bị ràng buộc bởi bất cứ một yếu tố sơ xuất nào có thể tránh trước để có thể được rộng rãi hơn trong cung cách giải quyết vấn đề. Yếu tố chủ động bao giờ cũng là điều kiện tuyệt hảo trong mọi công tác.

Lão vẫy tay cho Hào lui ra rồi tiến lại bàn mở tập hồ sơ ra coi. Hào đã báo cáo khá đầy đủ, từ bản tự khai của người tù cho đến lý lịch của đương sự, bản phúc trình nội vụ của Hào cùng biên bản về những tang vật tịch thu được. Mải nghiền ngẫm đến hơn nửa giờ sau lão mới đặt tập hồ sơ xuống bàn.

Những chi tiết ghi trong tập hồ sơ quả thực đã lôi cuốn lão một cách mãnh liệt đến nỗi lão quên bẵng cả mọi cảnh vật chung quanh lúc này thì nắng bên ngoài đã xuống thấp ở lùm cây phía bên ngoài cửa sổ và xa xa thỉnh thoảng vẫn có tiếng pháo đì đẹt vọng lại mang hương vị phảng phất cái rộn ràng của một ngày giáp Tết.

Trong khoảnh khắc, lão đã quên đi tất cả hiện tại để đắm hồn mình vào dĩ vãng xa xăm với những nhân danh, địa danh ghi trong hồ sơ mà hàng mấy chục năm qua, lão không có dịp được nghe nhắc lại. Những tên người, tên đất năm xưa xen lẫn với mớ kỷ niệm hỗn độn, mơ hồ tưởng như đã xóa nhòa trong dĩ vãng nhưng nay đã vụt trỗi dậy như hiện lên qua những hàng chữ trong tập hồ sơ để lôi kéo lão trở về những ngày xa xưa của thời kỳ đầu cách mạng. Lão vội vã đứng bật dậy và toan tìm xuống phòng tạm giam tù nhân. Nhưng bản tính trầm tĩnh đã khiến lão tự kiềm chế được ngay hành động vội vã của mình. Cả một đời lăn lộn trong đấu tranh nhiều khi vào sinh ra tử, nếu lão có leo lên được tới chức vụ bây giờ thì phần lớn cũng là nhờ ở cái sự biết tự kiềm chế đó.

Vì thế, lão chỉ tiến ra phía cửa sổ và móc túi lấy bao thuốc lá châm một điếu để cho cái đầu tự do lan man suy nghĩ. Bên ngoài, trời đang bảng lảng nắng chiều trên những ngôi gò thấp có những bụi cây um tùm xào xạc tiếng lá xen lẫn tiếng chim. Cho đến cái giây phút đó lão mới chợt ngạc nhiên nhận ra rằng ở đây sao giống với khung cảnh thôn cũ ngày xưa của lão đến thế, mà suốt thời gian qua do bận rộn nên lão không hề nhận ra.

Bây giờ thì lão phó mặc cho dòng tâm tưởng của mình trôi về dĩ vãng với hình ảnh của con sông hiền từ chẩy qua xóm làng, có những cánh đồng xanh bát ngát với những mái tranh lô nhô sau những bụi tre già, những thân cau thẳng tắp nhô lên bầu trời mầu xanh lơ và những đụn rơm cao ngất ngưởng mọc lên sau những vụ mùa. Chính ở đó đã xẩy ra cái bi kịch đầu đời của lão và cũng chính từ nơi đó, lão đã bỏ làng ra đi mang theo trong lòng tất cả mối hận thù của một con người bị đàn áp dưới bạo lực. Rồi hơn ba mươi năm trôi qua, trong khoảnh khắc, cái khởi sự và cái hiện thời bỗng nhiên trùng hợp nhau, ở đây, tại cái đồn công an hẻo lánh này qua tập hồ sơ báo cáo về một tên tù, một nhân vật mà lão không bao giờ quên, từ dáng dấp của hắn cho đến ánh mắt cuối cùng mà hắn đã nhìn lão trước khi mỗi người nổi trôi theo một ngả khác nhau trên đường đời.

Cái lý tưởng mà lão đã mang đi từ ngày đầu đã mờ nhạt chẳng còn gì sau những năm dài chứng kiến những cuộc đấu tố ở miền Bắc. Lão biết rõ sự thay đổi ấy trong tâm tư của mình từ lâu, nhưng cuộc sống vẫn lôi lão đi như một khúc gỗ trôi theo dòng. Nhưng cũng lại chưa bao giờ lão thấm thía với chính lòng mình ở giây phút này, cái giây phút khởi đi từ lúc lão miệt mài nghiền ngẫm bản báo cáo do Hào đã để trên bàn.

Những nhân danh, địa danh ghi gói trong đó chợt lôi lão trở về dĩ vãng ngày xưa và đặt lão trong khoảnh khắc vào vị thế của một con người sống cùng một lúc tới hai hoàn cảnh: Một kẻ bắt đầu ra đi và một kẻ đã đi gần như tận cùng của con đường cách mạng. Nhìn lại thành quả, lão thấy xã hội chung quanh hầu như chẳng thay đổi gì. Con người chung quanh lão vẫn lầm than cơ cực. Công cuộc đấu tranh giai cấp làm nảy sinh một giai cấp mới có đầy đủ bản tính bóc lột của chính cái giai cấp mà nó vừa đạp đổ !

Nói cho ngay, cái nhận thức kinh khủng này chỉ gậm nhấm lão một cách âm ỉ và chẳng thường xuyên. Bởi vì một phần là lão quá bận rộn trong công tác, phần khác là do chính lão muốn giập tắt nó ngay vì lão tự nghiêm khắc cho mình là đã lệch lạc mất cảnh giác, mất lập trường.

Nhưng vào buổi chiều hôm nay, một buổi chiều cuối năm có những tiếng pháo đì đẹt từ xa vọng lại hầu như mang lại cho lão một sự hối thúc muốn quay trở lại những hình ảnh ngày xưa. Lão quăng điếu thuốc đang hút giở qua khung cửa sổ rồi mở cửa phòng tiến ra hành lang, đi về phía phòng tạm giam. Viên cảnh vệ đang ngồi trên ghế, trông thấy lão, vội vàng đứng dậy. Lão cất tiếng hỏi:

- Yên ổn cả chứ ?

- Trình thủ trưởng, mọi sự bình thường.

Lão kéo tấm vải bạt che kín bên ngoài để nhìn qua những chiếc song gỗ. Lão trông thấy người tù cuối năm đang nằm co quắp tại góc của căn phòng giam chật hẹp và nhờ nhờ ánh sáng. Chiếc áo sơ mi hắn mặc trên người đã rách bươm để phô ra một mảng lưng bầm giập và đọng nhiều vết máu. Chợt lão thủ trưởng hơi nhăn mặt lại. Hình như lão bắt gặp lại cái hình ảnh bầm máu của chính mình hồi gần bốn mươi năm về trước.

Tay lão bấu chặt lấy một tấm song gỗ. Lão gần như thò cả nửa mặt của mình qua khe song để cố nhìn người tù cho thật rõ. Nhưng hắn ta vẫn im lặng nằm ở đấy, không ngước lên, cũng chẳng quay ra nhìn. Trầm ngâm giây lát, lão thủ trưởng quay lại nói với viên cảnh vệ :

- Thằng này nguy hiểm đấy. Phải coi chừng !

Nói rồi lão tất tả đi lên phòng. Lão sai một đàn em mang tất cả mọi thứ vặt vãnh quà bánh, thực phẩm Tết mà lão mua được ở trên thành phố đem ra bầy la liệt lên mặt bàn. Ngoài mấy món đồ dùng lặt vặt như bàn chải răng, xà phòng, dao cạo râu, khăn mặt, vài cuốn sách mới xuất bản, còn kỳ dư toàn là đồ ăn Tết. Có mứt. Có rượu. Có bánh chưng, lạp xưởng và nhiều đồ hộp linh tinh khác đủ để khao cả cái đồn nhỏ bé này một bữa thịnh soạn. Lão gọi Hào vô để ban chỉ thị :

- Thông cảm với các chú vất vả quanh năm, lại tình nguyện không xin phép về quê ăn Tết, tôi khao các chú một bữa tất niên.

Cái tin ấy loan ra làm bầu không khí trong đơn vị rộn ràng hẳn lên. Hào nhanh nhẩu lãnh nhiệm vụ điều động tất cả mọi công việc cần làm: nấu nướng, kê dọn, trang hoàng như chuẩn bị một bữa đại tiệc.

Tối hôm ấy, hàng rào ngăn cách giữa mọi người hầu như mặc nhiên được hủy bỏ (Tết nhất có khác, đồng chí 'Thủ trưởng dễ dãi hẳn ra). Nhất là khi có rượu vào. Hai chai của Thủ trưởng đem ra, cả đơn vị có hơn chục người chỉ quanh vài vòng là cạn queo. Hào gãi tai xin phép Thủ trưởng cho "vượt chỉ tiêu” một bữa. Thủ trưởng ngần ngại giây lâu rồi miễn cưỡng gật đầu. Thế là có ít nhất hơn một nửa số người hiện diện đã cùng ùa lên, chạy vội vã về phòng riêng. Họ đem bầy ra đủ loại rượu mà nếu chẳng có dịp này thì không bao giờ lão thủ trưởng lại biết được rằng nhân viên của mình lại đổ đốn ra như thế. Nhưng tết nhất mà ! Mọi sự xuề xòa hết. Bởi chính lão cũng uống, lão cũng say ngà ngà. Lão cũng đùa giỡn vui vẻ như chưa bao giờ ở đây có ai thấy lão đùa giỡn vui vẻ đến thế. Đến giữa buổi tiệc, lão đem vấn đề người tù ra nói với đám nhân viên:

- Tóm được thằng này tôi phải ghi công các chú. Nó đối với tôi có nhiều nợ máu đấy !

Vừa nói lão vừa cởi phăng chiếc áo đang mặc trên người và xoay lưng về phía néon sáng. Chờ cho mọi người đã đủ kinh ngạc và thắc mắc về những vết sẹo sần sùi, nhăn nhúm rải rác trên khắp lưng của mình, lão mới nói tiếp :

- Đòn thù của cường hào ác bá làng tôi đấy ! Cũng một ngày cuối năm như thế này vào thời tiền cách mạng, tôi bị chúng nó trói vào thân cau, vừa đánh vừa dội nước sôi. Sẹo đấy. Sẹo nước sôi đấy !

Rồi lão lại tụt chiếc dép ở chân trái ra và giơ cái cẳng của mình lên cao cho mọi người nhìn thấy:

- Chưa hết đâu. Các chú có thấy vết sẹo cắt ngang gót chân đấy không ? Tôi còn bị chúng nó cắt gân, mà kẻ cầm dao chính là thằng này !

Vừa nói lão vừa chỉ về phía phòng tạm giam. Ngay lúc đó có tiếng ly đập bể và có tiếng hét to:

- Cắt tiết nó đi !

Tiếp theo là những tiếng ồn ào, tiếng rủa xả, tiếng văng tục làm bầu không khí tự nhiên sôi sục cả lên.

Lão Thủ trưởng giơ ly rượu lên và cất giọng bình thản:

- Thôi ! Rồi đâu sẽ có đó. Ta chẳng nên để cái loại người đó làm mất vui buổi tiệc tất niên hôm nay. Nào, mời các chú nâng ly. Hôm nay đặc biệt cho các chú thả dàn. Nhưng chỉ một hôm nay thôi đấy nhé !

Mọi người quên ngay câu chuyện bi thảm vừa qua và trở về với những ly rượu tràn đầy trước mặt. Ly này cạn, ly khác đã rót thay. Rượu vào lời ra, bầu không khí ồn ào, vui vẻ đúng như một ngày tết.

Khi tàn tiệc, đồng hồ đã chỉ gần mười hai giờ khuya. Trong phòng chỉ còn lác đác một vài người là còn ngồi vững. Những kẻ khác thì đã gục ngay tại chỗ hay lê lết nằm đâu đó trong các góc phòng, ngoài hành lang hay trên những chiếc võng mắc rải rác ở phía sau khu vực kê bàn làm việc.

Lão Thủ trưởng cũng say khướt. Lão được hai tên đàn em xốc lên và dìu về phòng. Mà hai cái anh này cũng chẳng tỉnh táo gì hơn. Bộ ba dính chùm lấy nhau như một chùm sung, chập choạng đi mãi mới hết chiếc hành lang có ánh néon héo úa, vàng vọt.

Khi tới phòng, lão Thủ trưởng cố cất lên tiếng cám ơn bằng một giọng say líu lưỡi rồi lão nhào vào phòng. Hình như lão ngã dúi xuống tại một góc nào đó trong căn phòng, kéo theo một cái ghế ngã đổ. Nhưng điều này chẳng khiến cho hai tên đàn em quan tâm. Họ cũng chuệnh choạng đi về phiá dẫy phòng ngủ dành cho các nhân viên. Một anh lên tiếng hát. Giọng hát ồ ề cất lên chỉ được vài ba câu rồi tắt ngóm. Hình như anh ta cũng đã ngã gục đâu đó trên đường mò về giường ngủ của mình. Cả căn trại trước đầy tiếng la lối, cười nói om sòm nay chìm hoàn toàn trong sự yên tĩnh lạ kỳ. Rải rác đâu đó lâu lâu có tiếng nói mê, có tiếng cựa mình, đạp dẫy lung tung. Cũng có chỗ lại vang lên tiếng ngáy đứt đoạn.

Rồi tiếng pháo giao thừa ở nhiều nơi bắt đầu vọng về. Trước còn thưa thớt, sau trở nên râm ran, rộn rã. Năm cũ đã qua. Một năm mớí bắt đầu. Đời sống cơ cực của mọi người không chắc có thay đổi gì nhưng con người vào cái giờ phút thiêng liêng giữa đêm trừ tịch vẫn nhen nhúm một niềm hy vọng mới, dù là đang ở ngoài đời sống hay đã nằm sau những trấn song của nhà tù.

Người tù ở đây cũng vậy. Tiếng pháo giao thừa đã làm cho ông ta tỉnh dậy sau một cơn ác mộng dài. Hơi ẩm từ sàn đất đưa lên khiến ông ta thấy đầu óc của mình dịu lại. Ông nhấc thử chân tay của mình. Nó vẫn cựa quậy theo sự điều khiển của ông, điều đó khiến ông yên tâm phần nào. Nó đã không bị hề hấn sau những trận đòn mà ông chịu đựng từ hôm trước. Hơn một ngày trôi qua kể từ khi ông bị bắt giữ mà ông thấy nó dài như một thế kỷ. Ông nghĩ đến gia đình, đến bạn bè, đến những người đồng hành trong một chuyến đi hoàn toàn đổ vỡ. Ông cố không muốn nghĩ tới họ nhiều hơn vì ông biết trong hoàn cảnh này ông ông cần dành những tàn lực còn lại cho những chuyện khác quan hệ hơn. Chẳng hạn sự tỉnh táo trong những lời khai báo. Điều gì nói ra được. Điều gì nói ra không được. Lời khai nào có lợi. Lời khai nào dẫn tới hậu quả làm sụp đổ cả một hệ thống những dữ kiện mà ông đã dóng lên qua lời khai báo để tạo cho mình cái vị thế không có gì nguy hiểm trước những cặp mắt soi mói của kẻ lấy cung.

Tiếng pháo giao thừa làm ông tỉnh táo hơn lên. Ông lết lại phiá cửa phòng. Cũng là những tấm song gỗ chắc nịch được che kín mít bởi lớp vải bạt căng từ phía bên ngoài. Ông không nhìn thấy gì nhưng cố vểnh tai lên nghe ngóng. Bốn phiá chung quanh hoàn toàn yên tĩnh gây cho ông cái cảm giác biệt lập hẳn với thế giới bên ngoài. Ông mường tượng qua song gỗ là dẫy hành lang, con đường ông đã quen thuộc khi bị dẫn giải một đôi lần lúc lên phòng thẩm vấn. Bên kia đầu hành lang là dẫy nhà làm trụ sở nơi làm việc của cơ quan. Rồi qua một cái sân đất. Rồi đến hàng rào kẽm gai. Và sau cùng là con đường lộ nhỏ, biên giới giữa đời sống bên ngoài và nhà tù.

Bỗng trong cái tĩnh mịch đến ghê rợn của căn phòng giam nhỏ hẹp chợt vọng lại tiếng chân người. Ông ghé sát tai vào song gỗ để nghe ngóng cho rõ hơn. Ông nghe thấy tiếng chân đi về phía phòng giam của mình. Rồi tiếng chân dừng lại ngay trước cửa phòng. Có tiếng sột soạt của lớp vải bạt che bị kéo lên. Và ánh sáng héo úa của ngọn đèn trước cửa hắt qua song gỗ làm ông hơi nheo mắt lại. Nhưng rồi ông thấy ngay một người đứng ở đó, mặt quay vào. Có tiếng cất lên nhỏ nhẹ nhưng rõ ràng, rành mạch, tiếng của lão Thủ trưởng:

- Ông Nguyễn Phú Định !

Người tù, ông Nguyễn Phú Định, hơi giật mình mở to mắt lên nhìn kỹ kẻ mới đến. Nhưng trong đầu óc bồng bềnh tan loãng của mình, ông không nhận ra được ai ngoài khuôn mặt xa lạ của một kẻ đã bước qua tuổi già với những nếp nhăn ở trán ẩn dưới mái tóc đã ngả mầu đốm bạc. Lão Thủ trưởng nói tiếp :

- Ông không nhận ra tôi đâu, kẻ ba mươi sáu năm trước đã bị chính ông cầm dao cắt gân chân. Ông còn nhớ chứ ?

Đầu óc của ông Định bỗng lóe lên một kỷ niệm như một tia chớp sáng lòa. Ông nhìn sững kẻ đối diện. Thời gian đã xóa nhòa hình ảnh quen thuộc, đã chìm sâu trong quá khứ. Ông không còn tìm thấy ở nhân vật này hình bóng chàng thanh niên năm xưa, tóc tai rũ rượi, mặt mũi bầm tím, quần áo rách nát bị trói giật hai tay ra phía đằng sau lưng vòng qua thân của một cây cau. Anh ta đã lẻn vào trong vườn nhà ông Lý trưởng trong làng. Anh ta đã leo lên cây cau để bẻ trộm một buồng cau to nhất, đẹp nhất mà ông Lý dự định sẽ dùng tới trong lễ ăn hỏi của con trai ông. Đang bẻ trộm thì anh ta bị phát giác. Ông Lý vác tù và ra thổi inh ỏi và tráng đinh trong làng đổ xô lại. Cuộc hành hạ một kẻ nghèo đói, khốn cùng kéo dài suốt từ sáng cho đến chiều. Đánh đập. Chửi rủa. Dội nước sôi vào lưng và sau cùng như vẫn còn giận vì mất buồng cau đẹp nhất dành cho ngày lễ trọng, ông Lý lạnh lùng phán :

- Cắt gân chân cho nó chừa đi ăn trộm !

Công việc hãi hùng này ông Lý truyền cho Định cũng là một tráng đinh, phải thi hành.

Định cầm con dao sắc như nước của ông Lý giao cho mà người cứ như lên cơn sốt. Trong đời anh, anh đã từng cắt tiết gà, thậm chí có nhiều lần thọc cả huyết heo nhưng điều đó không làm cho anh có can đảm gì hơn khi phải cắt gân một con người. Chỉ cần nghĩ tới thôi anh đã bủn rủn tay chân rồi. Nhưng lệnh là lệnh, anh không có quyền chối từ. Anh cầm con dao với tất cả sự run rẩy mà chỉ có anh tự nhận biết. Trời xẩm tối, ông Lý ra lệnh cho đốt đuốc lên để soi sáng cho cuộc bạo hình. Ánh lửa bập bùng soi lên từng khuôn mặt dữ tợn của đám tráng đinh đang in những cái bóng chập chờn trong tiếng kêu than rền rĩ của tội nhân tạo thành một bầu không khí ma quái, ghê rợn như khung cảnh địa ngục có bầy quỷ sứ.

Định vô cùng ngại ngần nhưng cuối cùng cũng phải sấn tới. Anh ta đứng trấn ngay trước mặt tội nhân để che lấp mọi người. Rồi anh ta nhìn thẳng vào đôi mắt cầu cứu, van lơn của gã ăn trộm.

Suốt nhiều năm sau đó, mỗi khi nhớ lại, ông Định cũng chẳng bao giờ quên được cái ánh mắt khẩn cầu, tuyệt vọng của một kẻ đang bị dẫn tới đường cùng. Còn chính nạn nhân, tức là Thủ trưởng bây giờ, mỗi khi nhớ lại cái giây phút hãi hùng đó, lão cũng không thể quên được ánh mắt của kẻ cầm dao trước mặt. Trong ánh lửa bập bùng, tia nhìn của gã tráng đinh tên Định không mang vẻ gì gọi là hung ác, bạo tàn mà ngược lại nó có vẻ bao hàm một nỗi cảm thông, thương xót.

Rồi một ý nghĩ chợt nảy ra trong đầu óc Định. Gã nháy mắt với tên trộm, hươi con dao lên, và lợi dụng đang còn sấp bóng, gã bấu lên vai tên trộm một cái như có ý ra hiệu.

Thế rồi cuộc hành hình xẩy ra theo đúng ý muốn của viên Lý trưởng. Định đã nhấc cẳng chân trái của tội nhân lên, nhắm đường gân ở gót mà cứa mấy đường dao.

Máu phụt ra chan hòa và tội nhân hét lên kinh hoàng đau đớn. Nó đã bị cắt đứt gân chân. Nó không còn lết được. Người ta đã khiêng nó đem vứt ở ngoài cổng làng. Ai cũng nghĩ rằng sẽ không còn bao giờ gã còn cơ hội bén mảng tới đây để leo trèo những cây cau, vì chân của gã bị tàn phế. Trừ người trong cuộc.

Quả thật Định đã áp dụng kỹ thuật chọc tiết heo của mình vào cuộc bạo hình. Đường dao của anh trông dữ dằn như thế nhưng chỉ làm đổ máu ở bên ngoài. Gã ăn trộm đêm hôm ấy, chờ không còn ai, đã nhỏm dậy bỏ làng đi mất biệt.

Hơn ba mươi năm trời trôi qua, bây giờ hai nhân vật ấy lại đối diện nhau nhưng vị thế đã đảo lại, tên tội nhân đã trở thành người quyền thế và kẻ kia thì đứng sau những song gỗ của phòng giam tù. Có tiếng của lão Thủ trưởng cất lên:

- Ông Định. Hơn ba mươi năm rồi, bây giờ tôi mới có dịp nói lên lời cám ơn ông.

Bàn tay của lão chìa ra và ông Định cũng thò tay ra nắm lấy. Lòng ông rưng rưng cảm động. Ông thấm thía về hai chữ tình người, dù là giữa những con người đến từ hai phía. Cuối cùng, bao giờ tình người cũng vượt lên trên được tất cả, trên áp bức, trên cường quyền, trên căm thù bạo lực.

Trong hơn một phần tư thế kỷ vừa qua, con người đã vận dụng bạo lực, căm thù để mong giải quyết những vấn đề của xã hội. Thời gian đã đủ dài để ai cũng thấy rằng bạo lực hay căm thù chỉ làm đổ vỡ thêm những gì vốn đã hoang tàn, rách nát.

Đã lâu lắm, lão Thủ trưởng vẫn từng gậm nhấm những ý nghĩ dằn vặt này. Nhưng chưa bao giờ lão có cơ hội để bứt phá cái định kiến vốn đã in hằn trong tâm khảm của lão. Như một giọt nước nhỏ vào một cái ly đã tràn đầy, cuộc gặp gỡ ngắn ngủi giữa lão và người tù đã khiến lão thừa đủ năng lực để giải phóng chính mình.

Đêm hôm ấy, ông Định thong thả ra đường cái để đón xe trở về Sài Gòn.

Và sáng hôm sau, đúng Mồng Một Tết, tại cái đồn công an nhỏ bé ấy, viên Thủ trưởng đã gieo một cơn phẫn nộ sấm sét lên đầu đám nhân viên thuộc cấp của mình về tội nhậu nhẹt say sưa, đã làm sổng mất người tù cuối năm. Một kẻ có nợ máu. Một tên tù tối nguy hiểm.

NHẬT TIẾN

Santa Ana tháng 1-1983





                    1




Nhà văn Nguyên Ngọc:

những suy nghĩ và hành động trong

cao trào văn nghệ phản kháng

Nhật-Tiến

Nhà văn Nguyên Ngọc (tên thật là Nguyễn văn Báu), sinh năm 1932 tại Quảng Nam. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ông gia nhập quân đội năm 1950. Tốt nghiệp trường Lục quân Khu 5, tham gia chiến trường một thời gian rồi trở thành phóng viên báo Quân Đội Nhân Dân, khu 5. Tác phẩm đầu tay “Đất nước đứng lên “ xuất bản năm 1956 viết về cuộc chiến đấu của một thanh niên thuộc bộ lạc Bahnar tên là Núp và dân làng Kông Hoa, được trao giải nhất về tiểu thuyết thuộc giải Văn Học 1954-1955 của Hội Văn Nghệ Việt Nam (miền Bắc). Sau đó in tiếp những tác phẩm như: Mạch Nước Ngầm, Rẻo Cao, Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc, Đất Quảng. Năm 1962, là chủ tịch Chi Hội Văn Nghệ Giải Phóng miền Nam Trung Bộ và phụ trách tờ báo Văn Nghệ Quân Giải Phóng Khu 5, sáng tác với những bút hiệu khác như Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Kim.

Sau 1975, ông ra Hà nội, công tác ở tạp chí Văn Nghệ Quân Đội, rồi phụ trách Ban Thường Vụ Hội Nhà Văn V.N trong cương vị Bí thư Đảng Đoàn. Nhìn lại quá trình sáng tác của Nguyên Ngọc từ 1956 đến l975, Nguyễn văn Long trong Tự Điển Văn Học V.N. đã nêu nhận định :

“Sự quan tâm hàng đầu đến những vấn đề có ý nghĩa trọng đại lịch sử của dân tộc và cách mạng cùng với niềm say mê những tính cách anh hùng khiến cho tác phẩm của Nguyên Ngọc mang tính chất hùng tráng lại đậm nét trữ tình và chất lý tưởng .”

Sau năm 1975, trong sự tan rã của chế độ VNCH miền Nam, và trước những vấn đề nẩy sinh trong cuộc thống nhất đất nước do sự hòa nhập ồ ạt của dân chúng hai miền Nam Bắc sau hơn một phần tư thế kỷ cách biệt vì chia cắt, người cầm bút nói chung đã phải đối diện với những thực tế ngày càng gay gắt. Vấn đề khả năng quản lý và lãnh đạo của các cán bộ miền Bắc trong sinh hoạt xã hội miền Nam. Vấn đề cải tạo Công Thương Nghiệp Tư Bản Tư doanh. Vấn đề tù nhân Cải tạo với sự dính líu liên hệ gia đình của nhân dân cả hai miền. Vấn đề thất bại thảm thương của chiến dịch vận động đi Kinh tế mới (lý thuyết thì rất hay ho nhưng thực tế là cả một sự đầy đọa quần chúng trong tinh thần vô trách nhiệm). Vấn đề thuyền nhân ồ ạt ra đi. Vấn đề hủ hóa của những con người đã từng đóng góp tích cực cho cách mạng. Và đời sống xã hội ngày càng đi xuống về cả mặt vật chất lần tinh thần. Đó là những lý do mà sau 1975, giới cầm bút đã không đưa ra được những tác phẩm có giá trị tiêu biểu, tương xứng với “thành quả vĩ đại” mà chế độ miền Bắc đã đạt được sau cuộc chiến thắng mùa xuân 1975.

Rõ ràng đã có một sự trăn trở trong tâm thức người cầm bút khi họ nhìn ra xã hội chung quanh, với đầy rẫy những gai nhọn của đời sống thực tế hằng ngày. Và đó hẳn cũng là lý do mà Đảng Đoàn Hội Nhà Văn Việt Nam đã phải tổ chức hội nghị một số đảng viên trong Hội để bàn về “Sáng tác văn học” vào tháng 6-1979 để bước đầu trao đổi ý kiến trước khi đem ra thảo luận rộng rãi trước toàn thể hội viên.

Nhân danh Bí thư Đảng đoàn, nhà văn Nguyên Ngọc đã đọc một bản “Đề cương đề dẫn thảo luận ở Hội Nghị Đảng Viên bàn về sáng tác văn học”.

Nếu trước đây, lao mình vào cuộc chiến với “Sự quan tâm hàng đầu” những vấn đề “có ý nghĩa lịch sử dân tộc và cách mạng” và với niềm “say mê những tính cách anh hùng”, Nguyên Ngọc đã viết như một sự đóng góp hăng hái cho cuộc chiến đấu mà ông nghĩ là thần thánh, viết như một tuyên dương cho những cá nhân xả thân vì lý tưởng anh hùng cách mạng, thì nay trong bản Đề dẫn kể trên, nhà văn đã có dịp thẩm định lại quá trình sinh hoạt văn học của giới cầm bút với cái nhìn thâm trầm hơn, sâu xa hơn và thoát ly được cái tình cảm bồng bột, say mê vì lý tưởng hơn. Ông nhận định rằng:

“Trong văn học, lồ lộ khá rõ là số phận chung của cả dân tộc, cả đất nước, nhưng còn số phận riêng của từng người, từng thành viên trong đội ngũ lớn đó thì còn quá sơ lược, giản đơn. Mặt yêu nước nổi bật lên và đây là chỗ mạnh của văn học ta thời kỳ này như đã nói ở trên nhưng mặt đấu tranh xã hội thì không rõ bằng. Tính thơ lý tưởng của cuộc chiến đấu được biểu hiện khá mạnh nhưng còn tính sần sùi, phức tạp của đời sống thì yếu hơn. “

Tính sần sùi, phức tạp của đời sống ấy là gì, nếu không là tính cách trở lại với con người đích thực cùng với những nỗi khốn cùng mà con người phải chịu đựng trong chiến tranh.

Thân phận con người như thế, trong một thời gian dài bị khỏa lấp đi vì những nhu cầu của chiến tranh, nhưng khi hòa bình trở lại, nó đã trở thành mối day dứt của những người cầm bút có lương tri khi một mặt phải trực diện với những thân phận đó hiện diện đầy rẫy trong xã hội trước mắt, và một mặt khác viết lách vẫn phải nằm trong sự chi phối của tính Đảng, tính cách mạng, để chỉ có thể in ấn được những gì có tính cách “phải đạo”.

Đó là lý do mà Nguyên Ngọc đã phải nêu lên trong bản đề dẫn:

“Chính trong thời điểm này, các lực lượng văn học của ta trước nay đã hình thành được một thế bám sâu khá đẹp trên các địa bàn, ở các mũi nhọn của cuộc sống nay hầu hết đều bị bật ra khỏi các vị trí của mình. Mất liên hệ với đời sống chúng ta bỗng bối rối mất phương hướng “, và rằng : “Phải chăng lúc này có hiện tượng không ít phổ biến là người viết văn cứ viết mà không thật tin ở chính điều mình viết ra . “Người là muối mà chính người lại không mặn thì biết lấy gì để muốí người. “ Văn học nói theo một cách nào đấy là lòng tin. Không có lòng tin lớn thì không bao giờ có thể có văn học lớn. “ (Bản đề dẫn, tháng 6-1979)

Bước sang lãnh vực lý luận, phê bình văn học, một hình thức công an văn hóa nhằm ngăn chặn và triệt tiêu ảnh hưởng của những tác phẩm đi ra ngoài lề lối văn chương “phải đạo”, cũng trong bản đề dẫn nói trên, nhà văn Nguyên Ngọc nhận định:

“Có lẽ điều đáng lo hơn cả trong tình hình công tác lý luận, phê bình văn học thô thiển kéo dài, là ở chỗ nó đã tạo nên có thể nói là những định kiến xã hội đơn giản, dung tục đối với văn học, xói mòn năng lực thẩm mỹ của người đọc, mặt khác thấm cả vào chính người cầm bút, xói mòn ý chí sáng tạo, dũng khí sáng tạo nghệ thuật và ý thức trách nhiệm xã hội đứng đắn của nhà văn, tạo nên sự cản trở vừa ở ngoài họ, quanh họ và ở chính họ. “

Trên cương vi một bí thư Đảng đoàn, và với sự mẫn cảm về tình trạng sinh hoạt văn học tồi tệ của một người cầm bút có lương tri, vào thời điểm đó (tháng 6-1979), Nguyên Ngọc tuy mong muốn đi tìm một lối thoát cho sự sáng tạo của người cầm bút, nhưng vì ông vẫn còn tin tưởng ở đường lối lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nên phương hướng giải quyết vấn đề của ông vẫn không ngoài sự trông cậy vào sự chỉ đạo của giai cấp lãnh đạo. Ông nhận định :

“Một nguyên nhân khác nữa đã hạn chế những thành tựu của văn học ta vừa qua là ở sự chỉ đạo cụ thể đốí với sáng tác. Nói chung vừa qua, trong chỉ đạo sáng tác chúng ta còn dừng lại ở chỉ đạo đề tài, chưa đi sâu vào chỉ đạo chủ đề hoặc có thì cũng còn khá chung chung. Chỉ đạo đề tài là rất quan trọng. Buông lỏng chỉ đạo đề tài sẽ để dẫn đến phủ nhận chức năng xã hội của văn học. Đánh đồng tất cả đề tài tức là phủ nhận sự cần thiết văn học phải luôn luôn hướng vào những mũi nhọn nhất của đời sống và như vậy cũng không thể nhận ra tính đúng đắn sâu sắc của những chủ đề lớn, những nội dung lớn của đời sống. Nhất là khi trong hiện thực diễn ra những biến động sâu, mạnh, phức tạp, thì việc chỉ đạo chủ đề càng có ý nghĩa quyết định “ (Đề dẫn, tháng 6,1979)

Đúng là lề lối suy nghĩ của Bí thư Đảng đoàn của một hội nhà văn trong sinh hoạt của một xã hội đã gần một phần tư thế kỷ luôn luôn chịu đựng sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền, phủ nhận khả năng suy nghĩ và cảm hứng tự do sáng tạo của người cầm bút.

Tuy nhiên ngần ấy năm trời trôi qua, từ 1979 đến 1987, hẳn thời gian đã đủ chín mùi để nhà văn Nguyên Ngọc ngày càng cảm thấy khả năng của giới lãnh đạo văn nghệ không phải là vô hạn, và nhất là sự rung cảm nghệ thuật của họ lại càng không phải là sự rung cảm nghệ thuật của người cầm bút chân chính.

Do đó, con người văn nghệ của Nguyên Ngọc hẳn đã đấu tranh kịch liệt với con người Bí Thư Đảng Đoàn, và kết quả là nhà văn Nguyên Ngọc đã nhẩy vô nhập cuộc với phong trào văn nghệ phản kháng tuy trễ tràng hơn một năm sau so với những báo khác, nhưng lại là sự đóng góp tích cực nhất, tiêu biểu nhất, dọn đường để cho nhiều nhà văn phản kháng có cơ hội đưa ra ánh sáng những tác phẩm của mình.

Nhận công tác Tổng Biên Tập báo Văn Nghệ, cơ quan ngôn luận chính thức của Hội Nhà Văn V.N. từ tháng 6, 1987, nhà văn Nguyên Ngọc phải lèo lái tờ báo ngay đúng thời điểm phong trào văn nghệ đổi mới đang lên cao với những đồng nghiệp nhập cuộc sớm sủa khác như tờ Tiền Phong, Lao Động, Phụ Nữ, Tuần Tin Tức ở miền Bắc, hay những tờ Đại Đoàn Kết, Sài Gòn Giải Phóng, Tuổi Trẻ, Sông Hương, Lang Bian,.., ở miền Nam. Tuy trễ hơn các đồng nghiệp khác hơn một năm sau, nhưng với sự lèo lái của người Tổng Biên Tập Nguyên Ngọc, tờ Văn Nghệ đã mau chóng trở thành ngọn cờ đầu đăng tải những truyện ngắn, những bài ký có nội dung phản kháng sâu xa và mạnh mẽ, gây được sự hưởng ứng hết sức sâu rộng và có tiếng vang rộng rãi cả trong nước lẫn ngoài nước. Sau đây là phần nhận định của nhà văn Mai văn Tạo trong việc đánh giá sự đóng góp của tờ Văn Nghệ trong phong trào văn chương đổi mới:

“Tờ Văn Nghệ xông thẳng vào những vấn đề vô cùng bức xúc của con người và xã hội, phanh phui, phê phán và lên án những hành vi xấu xa tội lỗi xúc phạm đến đời sống và con người. Khoảng cách giữa đời sống và thơ văn trên trang báo dần dần thu ngắn lại. Những bất công xã hội, bọn cường hào mới, kẻ lợi dụng chức quyền vơ vét của công ức hiếp nhân dân được nhìều ngòi bút có lòng còn dũng khí vạch mặt và tố giác gắt gao, nghiêm khắc. Cái đêm hôm ấy đêm gì, Vua lốp, Tiếng hú con tàu, Tướng về hưu, Công lý chẳng quên ai... tưởng chừng không bao giờ được ra mắt người đời, thì nhiều tháng qua đã phơi bầy trên những trang Văn Nghệ. Chưa bao giờ báo Văn Nghệ hội tụ được đông đảo người sáng tác trên khắp mọi miền đất nước như thời gian qua. Và chính vì thế, độc giả từ Bắc chí Nam đã đón nhận Văn Nghệ như người bạn trung thực, đồng cảm cảnh ngộ oan khuất của mình. Chưa bao giờ Văn nghệ được coi là tờ báo của mọi người như những tháng gần đây.

(Các nhà văn nói về vụ “báo Văn Nghệ” -

Đất Việt, Canada, tháng 2-1989)

Tuy không đưa ra những tác phẩm trực tiếp đóng góp vào phong trào văn nghệ đổi mới, nhưng ở cương vị Tổng Biên tập của tờ Văn Nghệ, nhà văn Nguyên Ngọc quả đã có công rất lớn trong nhiệm vụ làm đòn bẩy cho những tác phẩm đổi mới có cơ hội bùng lên. Chính vì sự đóng góp lớn lao này mà Nguyên Ngọc bị cất chức một cách mờ ám vào ngày 2-12-1988. Phóng -viên của tờ Tuổi Trẻ ở Hà Nội ngày 4-12-88 đã có dịp gặp nhà văn và nêu câu hỏi:

- Lúc này anh đã thôi là Tổng Biên Tập báo Văn Nghệ?

Trả lời:

- Chính tôi cũng không xác định được lúc này tôi là gì. Về công việc, tôi không còn là Tổng Biên Tập báo Văn Nghệ nữa. Cách đây 40 giờ, trong buổi họp đột xuất của toà soạn báo Văn Nghệ do ban Thư Ký Hội Nhà Văn triệu tập, đồng chí Chính Hữu, Phó Tổng thư ký Hội Nhà Văn Việt Nam đã đọc quyết định cho tôi “thôi giữ chức” Tổng Biên Tập báo Văn Nghệ để nhận công tác khác, và cho biết quyết định ấy có hiệu lực ngay sau khi đọc, tức là khoảng 18 giờ ngày thứ sáu 2 tháng 12-1988. Kể từ sáng hôm qua, mồng 3 tháng 12, đồng chí Hoàng Minh Châu, phó Tổng Biên Tập thứ nhất được chỉ định điều hành tờ báo. Nhưng cho tới lúc này, 40 giờ sau khi nghe đọc quyết định, tôi vẫn chưa có trong tay cái văn bản pháp lý mà tôi có trách nhiệm thi hành.

Có lẽ chẳng bao giờ Nguyên Ngọc có được cái văn bản pháp lý ấy. Bởi vì chiều 15 tháng 4 - 1989, trong dịp đến Huế hai ngày, nhà văn Nguyên Ngọc đã được Hội Văn học Nghệ thuật Bình Trị Thiên, ngoài sự tham dự của các hội viên còn có các cán bộ giảng dạy đại học, và sinh viên, các thầy cô giáo dạy văn và học sinh, các sĩ quan hưu trí của Câu lạc Bộ Phú Xuân, các phóng viên đài và báo tiếp đón trọng thể và nồng nhiệt. Trong cuộc gặp gỡ này, nhà văn Nguyên Ngọc đã thổ lộ:

- Tôi chấp hành quyết định của Ban Thư Ký để các anh ấy khỏi nghi tôi muốn bám lấy cái ghế này. Nhưng các anh ấy còn nợ tôi một cái quyết định hợp thức của Ban Tuyên Huấn Trung Ương và Bộ Thông Tin và lý do tại sao đình chỉ công tác Tổng Biên Tập của tôi. Từ đó đến nay, họ vẫn im lặng.

Cũng trong dịp này, nhân có người đề cập đến sự phân hoá trong toà soạn báo Văn Nghệ về thái độ và sự ra đi của nhà văn Nguyên Ngọc, Nguyên Ngọc đã bùi ngùi kết luận:

- Đọc Pasternak tôi thấy bi kịch Zhivago vẫn là của một người đứng ngoài, đứng trên cả nước Nga mà đau. Còn bi kịch của tôi: một người trong cuộc, đảng viên, cầm súng, nhiệt thành xây dựng chủ nghĩa Xã Hội mấy mươi năm. Thế mà tại sao Tình yêu của chính mình lại bị giày đạp đến như vậy?

Câu hỏi tự đặt ra như vậy, có lẽ không phải vì chính Nguyên Ngọc không tìm thấy câu trả lời mà ông đã nêu ra như một sự thú nhận. Phải chăng người Đảng viên, người cầm súng, người nhiệt thành với chủ nghĩa xã hội mấy mươi năm, nay trước thực trạng bi thảm của quê hương, đất nước, bỗng vụt nhận ra rằng Đảng ấy, chủ nghĩa ấy, đã chẳng phải là những giải pháp lý tưởng đem lại cho con người nguồn hạnh phúc và đời sống ấm no đúng như sự mơ ước của nhiều người.

Nhìn ra được sự thực đó, sau bao nhiêu năm đóng góp với lòng nhiệt tình và đầy hào khí, quả là một bi kịch không chỉ của riêng nhà văn Nguyên Ngọc mà hẳn còn là của nhiều đảng viên và các tầng lớp cán bộ khác.

Phải chăng, chính điều này đã tạo nên một loại tâm thức mới trong hàng ngũ trí thức và văn nghệ sĩ ở quê nhà vốn đã quá chán chường, mệt mỏi với những sự giả trá, khuôn phép một chiều thường vẫn là cái khung ngục tù giam hãm tư tưởng tự do và cảm hứng sáng tạo của người cầm bút. Dựa vào biện pháp cởi mở của nhà nước như một cơ hội cánh cửa ngục tù vừa mới hé ra, văn nghệ sĩ ở trong nước đã mau chóng tìm được lối thoát cho con đường sáng tác hiện đang bế tắc của mình: tự giải phóng ra khỏi khuôn phép văn chương tô hồng hay văn chương phải đạo, trực diện với đời sống của quần chúng để lôi ra ánh sáng cái thực tế thảm thương đã từng bị chính giới cầm bút che đậy, giấu giếm bằng cách tô son vẽ phấn bưng bít từ hàng chục năm qua, và hơn tất cả, đó là sự tìm lại được cái giá trị đích thực, cái nhân cách đích thực, cái dũng cảm đích thực mà văn nghệ sĩ đã từng bị tước đoạt hay vì hèn nhát mà tự mình tước đoạt trong sinh hoạt sáng tác nhiều năm trước đây.

Giới cầm bút trong cao trào văn nghệ phản kháng ở quê nhà, chỉ trong thời gian vỏn vẹn không đầy 3 năm (1987 đến 1989) đã mau chóng lấy lại được lòng tin cậy của người đọc, và thậm chí đã trở thành ngọn đuốc sáng rỡ soi rọi tới được những hoàn cảnh tối tăm, cơ cực của quần chúng, đã trở thành cái phao của quần chúng trong khi họ đang chết đuối giữa sức ép của dòng đời đầy rẫy bất công, thối nát và áp bức.

Hầu hết những tác phẩm quan trọng trong cao trào văn nghệ phản kháng đều đã xuất hiện trên tờ Văn Nghệ do nhà văn Nguyên Ngọc chủ trương. Chỉ riêng một sự kiện Hội Nhà Báo Việt Nam ra quyết định khen thưởng ba phóng sự đăng trên báo Văn nghệ (Gồm: Lời khai của bị can của Trần Huy Quang, Tiếng Hú của con tầu của Nguyễn thị Vân Anh, Anh hùng khi đã sa cơ của Hoàng Minh Tường) đã đủ chứng minh sự đóng góp lớn lao của tờ Văn Nghệ trong cao trào này. Và thật là điều dễ hiểu khi người ta thấy mọi giới, bao gồm cả nhà văn, nhà báo và độc giả quần chúng đều tỏ ra vô cùng phẫn nộ khi được tin tờ Văn Nghệ gặp khó khăn (tháng 9-1988, Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam ra nghị quyết lên án tờ Văn Nghệ là có những lệch lạc nghiêm trọng, và tháng 12-1988, Ban Thư ký của Hội này cách chức Tổng Biên Tập Nguyên Ngọc và thuyên chuyển công tác).

Ngay từ giữa tháng 9-1988, gần một trăm nhà sáng tác trẻ đã hội họp ở Hà Nội để phản đối nghị quyết lên án tờ Văn Nghệ. Sau đó là 12 nhà văn ở thành phố Hồ Chí Minh, các nhà văn, nhà báo ở Lâm Đồng, Phú Khánh, Nghĩa Bình, tờ Sông Hương ở Huế, và đặc biệt là Hội Nghị hội Nhà Báo Việt Nam lần thứ 5 tại Hà Nội họp từ 28-11, đến 1-12-1988, tất cả đều có ý hướng dứt khoát ủng hộ tờ Văn Nghệ đồng thời phản đối việc làm của Ban Chấp hành Hội Nhà văn. Đặc biệt, nhà văn Bùi Minh Quốc, trưởng phân Hội Văn nghệ Lâm Đồng đã vận động lấy được hơn 100 chữ ký của các nhà văn ủng hộ Nguyên Ngọc. Sau đây là một vài ý kiến phát biểu trong vụ Nguyên Ngọc bị cách chức :

- Nhà văn Mai Văn Tạo: Biết tin báo Văn Nghệ “lâm nạn”, Tổng Biên tập bị “hành”, công chúng miền Nam, độc giả thành phố Hồ Chí Minh, tỏ vẻ bất bình, lo ngại như thể bạn mình gặp cảnh khốn nguy. Nhiều người gặp tôi, họ lo lắng hỏi “Văn Nghệ thế nào rồi? Sao kỳ vậy?”. Những người ấy không chỉ là cán bộ, công nhân viên, người có học vấn cao, mà cả những ông thợ cắt tóc , các bác đạp xích lô... từng yêu mến tờ báo. Tuần báo Văn nghệ từ cuối năm 87 đến nay không còn là tờ báo riêng của giới phong lưu và những nhà học giả. Nó còn là món ăn bổ ích và thú vị cho các loại độc giả phía Nam này. Lẽ nào Ban thư ký Hội Nhà văn không thấy ra điều đó?

- Nhà văn Nguyễn Quang Sáng: Qua việc này, tôi thấy so với các ngành nghề khác thì anh nhà văn, nhà báo nói riêng và văn nghệ sĩ nói chung, đối với những người đang thực sự làm việc thì bị cách chức quá dễ dàng. Từ đó mà nghĩ đến thân phận của giới này, nói rõ hơn là đối với những người thực sự làm việc của giới văn nghệ sĩ.

- Nhà thơ Diệp Minh Tuyền : Tổng Biên Tập đổi mới này mất đi, sẽ có Tổng biên tập đổi mới khác xuất hiện hoặc thay thế.

**

Dư luận phản đối ồn ào và mạnh mẽ như vậy, nhưng việc cách chức Tổng biên tập của Nguyên Ngọc vẫn được thi hành. Sự kiện này đã cho ta thấy 2 điều:

- Một là: Giới lãnh đạo đã thực sự run sợ trước cao trào đổi mới, trong đó ngày càng lôi cuốn được nhiều cây bút có giá trị với những tác phẩm có giá trị, được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng độc giả.

- Hai là: Biện pháp cứng dắn áp dụng với Nguyên Ngọc đã mở ra một cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai phe trong giới cầm bút: phe bảo thủ, tiếp tục chấp nhận đường lối lãnh đạo văn nghệ do Đảng đề ra và phe đổi mới, đòi hỏi người cầm bút phải có tự do sáng tạo.

Tại Đại Hội Nhà Văn Việt Nam họp từ 23 đến 31-10-1988 tại Hà Nội, cuộc đấu tranh giữa hai phe đã diễn ra rất gay gắt và độc giả có cơ hội được biết đến qua các bài tường thuật của báo chí, đài phát thanh. Bản tin tức tổng hợp từ tin tức các báo, đài, và tự thuật của các nhà văn Thu Bồn, Nguyễn Đắc Xuân, Phan Vũ ngày 9-12-89 tại Câu lạc bộ những người kháng chiến cũ đã viết : “Suốt thời gian đại hội, đã diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai lực lượng nhà văn: bảo thủ và tiến bộ, và sự phản đối mạnh mẽ có hiệu quả của lực lượng nhà văn tiến bộ đối với mọi sự áp đặt phản dân chủ, thậm chí cả sự chụp mũ .”

Nhìn chung kết quả của Đại Hội, phe bảo thủ đã thất bại nhiều điều:

1/ Lập sẵn một danh sách Ban Chấp Hành gồm 30 người định vận động thông qua nhưng bị bác bỏ.

2/ Dự định không để Đại Hội bầu chức Tổng Thư Ký mà để cho Ban chấp hành tự bầu ra. Kết quả, đại hội cũng bác bỏ và chức vụ này cũng do Đại Hội bầu trực tiếp.

3/ Ba nhân vật bị phe bảo thủ dưới sự chỉ đạo ở trên mong muốn loại ra (Nguyễn Quang Sáng, Xuân Cang, Nguyên Ngọc) nhưng đã đắc cử với số phiếu cao nhất.

4/ Ba nhân vật được phe bảo thủ ủng hộ và sự chỉ đạo ở trên cố ý đưa vào ban chấp hành đều bị rớt đài (Anh Đức, Trần Bạch Đằng, Bằng Việt).

Trong khi đó, phe tiến bộ ngoài việc ngăn chặn những mưu đồ đen tối trong đại hội, còn nêu lên được những tiếng nói dõng dạc, thể hiện quyết tâm đi tới của những người cầm bút can đảm:

1/ Một nữ thi sĩ trẻ ở Huế yêu cầu Đại Hội làm sáng tỏ vụ nhà văn Bùi Minh Quốc, trưởng phân hội Văn Nghệ Lâm Đồng bị khai trừ khỏi đảng vì “tội” đã vận động lấy hơn 100 chữ ký của các nhà văn để ủng hộ Nguyên Ngọc.

2/ Một nhà văn trẻ yêu cầu Trần Trọng Tân, trưởng Ban Văn Hoá - Tư Tưởng Trung ương Đảng phải kiểm thảo vì đã để xẩy ra những vụ đàn áp như ở trên cùng các vụ khác nữa nhưng làm ngơ.

3/ Các nhà văn Thu Bồn, Bửu Tiến, Bùi Minh Quốc, và nhất là Dương Thu Hương đã đọc những bài tham luận nẩy lửa, được đại hội đánh giá là “sâu sắc nhiệt huyết và cảm động”

4/ Tạp chí Sông Hương (Huế) bị kết 8 tội và bị đóng cửa, qua Đại Hội, đã kể như không có tội nào và đang làm thủ tục tái xuất bản.

51 Nhà văn Nguyên Ngọc bị cách chức, nay trở thành một trong ba nhà văn tiến bộ được đắc cử cao phiếu nhất và ở vào vị trí trực tiếp lãnh đạo của Hội Nhà Văn Việt Nam.

Tuy nhiên, Bản Tin Tức dù lạc quan đến đâu, cũng vẫn phải kết luận:

“Lực lượng nhà văn đổi mới, tiến bộ đã thắng lợi bước đầu. Cuộc đấu tranh cho đổi mới còn đang tiếp tục tiến lên trên con đường đầy chông gai “

Con đường chông gai ấy, dĩ nhiên có nhiều trở lực xuất phát từ giới lãnh đạo bảo thủ, trì trệ, chỉ nhìn thấy quyền lực mà không thấy sự khát vọng lớn lao của tuyệt đại đa số quần chúng, nhưng trở lực trước hết phải kể đến chính cá nhân của mỗi con người trong giới cầm bút. Họ phải biết cảm thông sâu sắc với quần chúng, phải biết đứng về phía quần chúng để tự lột xác chính mình. Trong thời gian gần đây, đời sống quanh ta đã có biết bao nhiêu là đổi thay mãnh liệt. Người cầm bút phải tự bước ra khỏi cái ốc đảo của mỗi người để hoà nhập vào đời sống đang chuyển mình. Bởi chỉ ở vị trí mới đó, người cầm bút mới có thể hoàn thành được chức năng của mình. Phải chăng, cũng chính vì chia xẻ với nhận thức này, mà trong “ Cuộc trò chuyện cuối năm với Quốc Dũng và Bế Kiến Quốc” được đăng tải trên tờ Văn Nghệ (Tổng biên tập hiện thời là Hữu Thỉnh) số Tết Canh Ngọ ra ngày 13-1-1990, nhà văn Nguyên Ngọc đã thổ lộ:

“Những năm gần đây, tôi thấy viết càng khó hơn. Lần này thì có lẽ không phải chỉ vì “tính trời”; tôi thấy cần tìm cho mình một tiếng nói khác, một ngôn ngữ nghệ thuật khác. Quanh tôi, và trong tôi đã có biết bao thay đổi không nhỏ, không giản đơn. Phải viết khác. Mà đối với người cầm bút đã có nghề đôi chút, thì có lẽ không có gì khó hơn là viết được khác đi. Đó là “thay máu” như anh Nguyễn Minh Châu từng nói.”

Quả là quanh con người và trong con người của mỗi nhà văn đã có biết bao nhiêu thay đổi không nhỏ, không đơn giản. Khát vọng về một đời sống tốt đẹp hơn, về một sinh hoạt xã hội có đầy đủ tự do dân chủ đã như một cao trào không thể ngăn cản được của con người đang chuẩn bị bước vào một thế kỷ mới. Nhà văn Việt Nam, hay giới cầm bút nói chung, dù ở bất cứ nơi nào trên mọi phần đất thế giới không thể không nhìn thấy khuynh hướng đó và không thể không “thay máu” để chia xẻ nhịp tim đập chan hoà niềm tin mới về một vận hội mới của tương lai dân tộc. Niềm tin đó, không chỉ là mối ấp ủ riêng tư của Nguyên Ngọc hay những nhà văn, nhà thơ trong phong trào văn chương đổi mới ở quê nhà, mà hẳn còn là những ước mơ của toàn thể người Việt Nam vẫn từng thiết tha đến tiền đồ của dân tộc.

Santa Ana, tháng 4 năm 1990.

NHẬT TIẾN

(TRĂM HOA VẪN NỞ TRÊN QUÊ HƯƠNG,

trang118-126,

nxb LÊ TRẦN, California- 1990)
-----------------------------------------------------------
thư ngỏ gởi văn nghệ sĩ trong phong trào văn nghệ phản kháng tại quê nhà


(Trong “Trăm Hoa vẫn Nở Trên Quê Hương” – Trang 795)

Thân gửi các anh chị:

Chúng tôi, một số anh chị em hằng thao thức đến vận mệnh đất nước, hội họp nhau qua chương trình Hội Thoại Tự Do, nhằm mục đích nghiên cứu tìm hiểu những vấn đề then chốt nóng bỏng của quê hương qua những chương sách vừa trình bày ở trên, đã cố gắng giới thiệu với độc giả, nhất là độc giả ở hải ngoại, một cao trào văn nghệ mà chúng tôi gọi là Cao trào Văn nghệ Phản kháng.

Một số nhận định của chúng tôi đã được nêu lên, một vài vị trong các anh chị đã được đề cập đến, kèm theo những văn liệu mà chúng tôi coi là tiêu biểu. Dĩ nhiên, cao trào văn nghệ phản kháng ở quê nhà không chỉ vỏn vẹn có thế.

Vốn tích lũy âm ỉ từ nhiều năm, có cơ hội bộc phát từ những năm cuối của thập niên 80, đặc biệt là hai năm 1987, 1988, chỉ riêng với một số tài liệu hiếm hoi mà chúng tôi tìm được, chúng tôi cũng đã nhìn thấy tính chất đa dạng và phong phú của một dòng văn chương trung thực, nói lên được thực trạng đau xót của quê hương và cuộc sống cay cực buồn tủi của đa số quần chúng.

Nếu quan niệm rằng tác phẩm nghệ thuật là thông điệp người sáng tạo gửi đến cho người thưởng ngoạn, thì chúng tôi, ở cương vị những độc giả của các anh chị, chúng tôi đã nhận được từ phía các anh chị rất nhiều thông điệp, có thể là những băn khoăn về đời sống, những thôi thúc trách nhiệm của người cầm bút, những ray rứt của lương tâm, những bàng hoàng vì ảo tưởng, có thể là những cay đắng hay phẫn nộ về những kinh nghiệm sống các anh chị đã từng trải qua.

Nhưng ngoài những trăn trở đớn đau bàng bạc trên trang giấy, thước phim, dòng nhạc, lời kịch… Chúng tôi còn nhận ra những ưu tư, những khát vọng, những đòi hỏi, những tuyên ngôn đấu tranh cho quyền làm người, đấu tranh cho tự do sáng tạo nhằm phục vụ cho những giá trị chân chính của con người và của dân tộc. Đã đành những ràng buộc của đời sống không cho phép các anh chị được nói hết khát vọng của mình, hoặc tác phẩm của các anh chị chưa được phép phổ biến trọn vẹn và trung thực như các anh chị đã can đảm viết ra, nhưng chúng tôi cũng hiểu được phần nào tâm nguyện của các anh chị. Đó là khát vọng được sống chân thực trong một đất nước thực sự tự do, thực sự dân chủ, thực sự phồn vinh, khát vọng chính đáng và đơn giản đó, trớ trêu thay, không phải lúc nào cũng được nhà cầm quyền trân trọng lắng nghe. Nhiều văn nghệ sĩ trí thức chân chính trên thế giới đã bị đàn áp, tù đầy vì tư tưởng nhân bản của mình. Sakharov ở Liên Sô đã phải chịu đựng biết bao nhiêu lời phỉ báng xuyên tạc, biết bao nhiêu năm bị quản thúc cô lập cuối cùng mới được công nhận là “lương tâm của thời đại, đất nước”. Ngay trên quê hương chúng ta, nhóm Nhân văn Giai phẩm đã bị truy chụp biết bao nhiêu tội chỉ vì muốn:

Yêu ai cứ bảo rằng yêu

Ghét ai cứ bảo rằng ghét

Dù ai ngon ngọt nuông chiều

Cũng không nói yêu thành ghét

Dù ai cầm dao dọa giết

Cũng không nói ghét thành yêu…

(Thơ Phùng Quán)

Đó là chưa kể đến trường hợp những văn nghệ sĩ chỉ vì muốn nói lên khát vọng chân thực của mọi người mà hiện đang bị giam cầm như Nguyễn Chí Thiện, Doãn Quốc Sỹ, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát.. v.v…

Các anh các chị có thể khác chúng tôi về quá khứ, đứng khác phía với chúng tôi trong cuộc chiến tranh kéo dài đằng đẵng hơn ba mươi năm, nhưng qua tác phẩm của các anh chị, chúng tôi mừng rỡ được thấy rằng dù ở đâu, lúc nào, cũng có những văn nghệ sĩ trí thức can đảm nói lên tiếng nói của lương tâm, không hổ thẹn với lòng tin cậy của quần chúng. Trước đây, chúng ta đã nhìn nhau xa lạ. Chúng ta đã ngó nhau hận thù. Biến cố lịch sử tháng 4 năm 1975 tự nhiên đẩy giạt chúng ta ra xa nhau thêm, khoảng cách giữa những kẻ chiến thắng và kẻ chiến bại. Một bên lớn tiếng kết tội! Một bên nhẫn nhục chịu đựng. Hoặc nếu có ai may mắn không phải trực diện với cảnh truy chụp tàn nhẫn đó thì cũng đành nhắm mắt quay đi, chứ không có ý kiến gì khác về con đường đã vạch ra của bạo lực. Để được yên thân, nhiều người trong chúng ta đã cam chịu nhận đóng những vai trò hèn mọn của một vở kịch lớn đã diễn ra trên đất nước. Chúng ta đã nói những điều không muốn nói. Chúng ta đã giấu kín một cách tủi hổ, những ý nghĩ, tình cảm, tư tưởng chân thật.

Mười lăm năm ròng đã trôi qua kể từ cái mốc lịch sử tháng 4 năm l975. Thời gian đã đủ dài để cho mọi xáo trộn bèo bọt của đời sống lắng xuống.

Dù ở trên phần đất nào, trong hay ngoài quê hương, dù định kiến chính trị khác biệt như thế nào, thì qua lời viết của các anh chị, chúng tôi nhận thấy chúng ta vẫn còn nhiều điểm tương đồng. Chúng ta đã cùng mang chung những nỗi đớn đau khi nhìn thấy quê hương điêu tàn, đồng bào lầm than khổ cực. Chúng ta đã có chung một niềm mơ ước về một tương lai đẹp đẽ của đất nước, ở đó giặc dốt, giặc nghèo, giặc ngu muội bị đẩy lui và mỗi người Việt Nam có được một đời sống đáng sống.

Vì ở xa cách quê hương cả một đại dương, không có cơ hội hít thở trực tiếp bầu không khí khắc nghiệt ở quê nhà, nên chúng tôi chỉ có thể chia xẻ trong muôn một những nỗi nhọc nhằn, những cơn trăn trở thao thức, những khát khao được hiện thành lời, được viết thành chữ của các anh chị. Chúng tôi ý thức rất rõ rằng để làm được những việc đó, các anh các chị đã phải sẵn sàng trả giá cho những sự thực cần phải viết ra. Chúng tôi hiểu rằng sự lên tiếng bằng cách này hay cách khác của các anh thị, đều xuất phát từ những rung động tận cùng của trái tim những con người đã kinh qua những cay đắng khổ nhục. Bằng ngòi bút và lương tâm của mình, các anh chị đã cất lên tiếng nói của nhiều người, đã cảnh cáo chế độ trước hố thẳm tăm tối mà dân tộc chúng ta sắp sa vào.

Được may mắn sống ở một nơi có quyền tự do phát biểu những gì mình nghĩ, chúng tôi thông cảm những băn khoăn do dự và những nỗi đe dọa chờn vờn các anh chị đã trải qua.

Chúng tôi không có quyền đòi hỏi gì ở các anh chị, vì biết rằng quyết định im lặng hay lên tiếng là tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của các anh chị, tùy thuộc vào lương tâm của chính mình hơn là chờ đợi những lời khen chê bên ngoài. Chúng tôi cảm phục lòng can đảm của các anh chị và không mong ước gì hơn là được thấy các anh chị càng ngày càng có nhiều người biểu đồng tình, để sự thật được phục hồi, nhân phẩm được tôn trọng. Độc Lập, Tự Do không còn là cái chiêu bài của quyền lực, và Hạnh Phúc là mơ ước gần gũi có thể với tới được của mọi người Việt Nam chúng ta.

Hải ngoại, ngày 14-7-1990

Nhóm Chủ Biên

 




----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------




Nguyên Ngọc




Nguồn: Wikipedia

Bước tới: menu, tìm kiếm

Nguyên Ngọc (1932-) là bút danh của một nhà văn, nhà báo, biên tập, dịch giả, nhà nghiên cứu văn hóa, giáo dục nổi tiếng Việt Nam. Ông còn được xem là một nhà văn quân đội, gắn bó mật thiết với chiến trường Tây Nguyên, từng được phong hàm Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Mục lục


Thân thế


Ông tên thật là Nguyễn Văn Báu, sinh ngày 5 tháng 9 năm 1932 quê ở xã Bình Triều huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Năm 1950, khi đang học trung học chuyên khoa (nay là trung học phổ thông), ông gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam, chủ yếu hoạt động ở Tây Nguyên – chiến trường chính của Liên khu V bấy giờ. Sau một thời gian ở đơn vị chiến đấu, ông chuyển sang làm phóng viên báo Quân đội nhân dân Liên khu V và lấy bút danh Nguyên Ngọc.

Văn nghiệp


Sau Hiệp định Genève, ông tập kết ra Bắc và viết tiểu thuyết Đất nước đứng lên, kể về cuộc kháng chiến chống Pháp của người Ba Na, tiêu biểu là anh hùng Núp và dân làng Kông-Hoa, dựa trên câu chuyện có thật của anh hùng Đinh Núp. Tác phẩm khi xuất bản được nhiều người yêu thích và hâm mộ. Sau này cuốn truyện được dựng thành phim.

Năm 1962 ông trở lại miền Nam, lấy bí danh Nguyễn Trung Thành, hoạt động ở khu V, là Chủ tịch chi hội Văn nghệ giải phóng miền Trung Trung Bộ, phụ trách Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng của quân khu V. Thời gian này ông sáng tác truyện Rừng xà nu.

Sau chiến tranh, ông có thời gian làm Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập báo Văn nghệ. Trong thời kỳ Đổi mới và phong trào Cởi Mở, ông đã có những đổi mới quan trọng về nội dung tư tưởng của tờ báo và được coi là người có công phát hiện, nâng đỡ nhiều nhà văn tên tuổi sau này như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư, Phạm Thị Hoài... Ông cũng dành nhiều tình cảm trân trọng đối với các nhà văn khác như Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải.

Tuy nhiên, khoảng đầu thập niên 1990, báo Văn nghệ một số lãnh đạo đảng Cộng sản chính thức phê phán là "chệch hướng" [cần dẫn nguồn]. Sau đó, Nguyên Ngọc đã từ chức Tổng biên tập và nghỉ hưu. Người kế nhiệm ông là nhà báo Hữu Thỉnh.

Hoạt động xã hội


Sau thời kỳ làm báo, ông tham gia tích cực trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc và chấn hưng giáo dục Việt Nam. Ông đã dịch một số tác phẩm lý luận văn học như Độ không của lối viết (Rolland Barthes), Nghệ thuật tiểu thuyết (Milan Kundera), tác phẩm của Jean-Paul Sartre, Jacques Dournes...

Được xem là một chuyên gia về Tây Nguyên, trong buổi hội thảo vào tháng 4 năm 2009 về vấn đề khai thác bauxite ở Việt Nam, ông cho biết ý kiến chưa đồng tình với chính sách của chính phủ. [1]

Ông cũng từng tham gia phong trào quần chúng biểu tình phản đối việc gây hấn, xâm lược của Trung Quốc ở Biển Đông năm 2011 trong bối cảnh có sự ngăn cấm. Ngày 22 tháng 8 năm 2011, Đài truyền hình Hà Nội có làm một chương trình về sự việc này, trong đó có đoạn phát thanh viên nói "một số phần tử phản động tham gia biểu tình", đồng thời khung hình đang quay cảnh Nguyên Ngọc và 2 trí thức khác là giáo sư Nguyễn Huệ Chi, tiến sĩ Nguyễn Văn Khải. Sự việc này làm ông bất bình và đã gửi thư phản kháng lên Bí thư Thành ủy Hà Nội.

Gần đây, ông đã xin rút tên khỏi danh sách đề cử Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2011, một giải thưởng cao quý của Việt Nam, một động thái được nhiều người cho rằng nhằm phản đối quy trình bầu chọn bất hợp lý của hội đồng giải thưởng.

Những tác phẩm chính


  • Đất nước đứng lên
  • Rẻo cao
  • Đường chúng ta đi
  • Đất Quảng
  • Rừng xà nu
  • Có một đường mòn trên biển Đông
  • Cát cháy
  • Tản mạn nhớ và quên, Nhà xuất bản Văn Nghệ
  • Nghĩ dọc đường, Nhà xuất bản Văn Nghệ
  • Lắng nghe cuộc sống, Nhà xuất bản Văn Nghệ
  • Bằng đôi chân trần, Nhà xuất bản Văn Nghệ

Chú thích


  1. ^ BBC phỏng vấn Nguyên Ngọc về bauxite .

Liên kết ngoài



 

No comments:

Post a Comment

Thanks for your Comment

Featured Post

Bản Tin cuối ngày-16/12/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link