Từ
Đinh Công Tráng đến Trần Lục
Đinh Viết
Bảo và Nguyễn Ngọc Quỳ
Trong
khoảng hơn 10 năm gần đây, một số trí thức Công giáo Việt Nam, kể cả các linh
mục, đã có những bài viết ”nghiên cứu lịch sử” với luận điệu phỉ báng hai
phong trào Văn Thân và Cần Vương. Hai phong trào nầy (từ hiệp ước Nhâm Tuất
1862 đến cuối thế kỷ thứ 19) vốn là hai lực lượng tập trung các sĩ phu
yêu nước, đứng lên lãnh đạo nông dân để chống lại quân xâm lăng Pháp và tay
sai bản xứ của chúng, trong đó có thành phần giáo dân Việt Nam. Một trong những lãnh tụ
kiệt xuất của phong trào nầy là anh hùng Đinh Công Tráng, và một trong những
tay sai Công giáo bản xứ năng nổ nhất là linh mục Trần Lục (tức Cụ Sáu).
Dưới
đây hai bài viết về hai nhân vật lịch sư Việt Nam đã có thời chạm trán nhau
trên chiến trường để cùng nhau phân định rõ ràng ai là người anh hùng vì nước bỏ mình, ai là người
theo giặc bán nước.
ĐINH CÔNG
TRÁNG VỚI QUÊ HƯƠNG
VÀ ĐẤT NƯỚC
Đinh Viết
Bảo
Đinh
Công Tráng sinh ngày 14-1-1842 (Nhâm Dần) tại thôn Nham Chàng, xã Thanh Tân,
huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Thân phụ là Đinh Văn Thành - một danh y nổi
tiếng tâm phúc nhân từ. Thuở nhỏ theo học cụ Hoàng giáp Phạm Văn Nghị đậu đến
Tam trường. Chán cảnh quan trường, ông theo cha làm thầy thuốc. Ông giỏi môn
ngoại khoa lại tinh thông nhâm cầm độn đoán.
Thấy
nghề thầy thuốc không chữa nổi cái ung nhọt của xã hội, ông lại bỏ nghề thầy
thuốc làm lý trưởng rồi cai tổng với ước mong có một vị trí nhất định trong xã
hội để chống lại bọn cường hào ác bá, quan lại tham nhũng, bảo vệ dân làng.
Thời
kỳ này ông tự cúng mấy ngàn quan tiền để tu tạo đình chùa, xây dựng văn chỉ, mở
mang đạo học, mở chợ Chàng để giao lưu buôn bán và hiến 8 mẫu ruộng cho làng
cày cấy dùng vào việc chung.
Điều đặc biệt đã trở thành giai thoại là ông đã tố cáo tên Bang
Diệu, người thôn Yên Phú, xã Thanh Hương về tội lợi dụng chức quyền đánh dân
trái phép, trốn lậu thuế nhà nước, cướp đoạt ruộng đất, chứa chấp giáo sĩ ngoại
bang, chia rẽ giáo lương, mưu đồ bán nước.
Diệu nhiều tiền đút lót quan trên lại có thế Tây nên cuộc tranh
tụng kéo dài nhiều năm từ huyện đến tỉnh. Cuối cùng ông đã dùng kế ”ve sầu
thoát xác” tức là giả chết để lừa đối thủ mới thắng kiện. Diệu bị bộ Hình xử
phạt ”Trượng nhất bách đồ tam thiên lý” (tức là đánh trăm gậy, đày ba ngàn dặm)
và trả ruộng cho làng. Ông đem chia số ruộng đất giành được theo suất đinh. Vụ
kiện đã làm rung động cả huyện. Từ đó bọn cường hào ác bá càng nể sợ, bớt nhũng
nhiễu dân.
Từ
khi vào cung theo kiện, ông biết rằng nhất định giặc Pháp sẽ xâm lược quê
hương, nên ngay từ bấy giờ ông đã lập đội tuần phu mạnh, luyện tập võ nghệ,
nghiên cứu binh thư, chuẩn bị diệt thù. Vì vậy chỉ sau 10 ngày giặc chiếm quê
hương lần thứ nhất (1873) thì ông lập tức kêu gọi văn thân, chiêu mộ nghĩa quân
dựng cờ khởi nghĩa. Được các văn thân trong huyện hưởng ứng, ông dùng tiền
riêng mua sắm vũ khí, cho đắp lũy bùn rơm quanh các lũy tre làng đồng chiêm,
biến thành chiến lũy đánh giặc. Ông thắng nhiều trận ở Chàng, Bưởi, Tàng, Sở
Kiện rồi tiến tới Phủ Bo (Ý Yên), chợ Dần (Vụ Bản) và Phủ Lý. Lúc này ông được
vua Tự Đức phong là ”Hiệp quản”.
Nhưng
năm 1874 nhà Nguyễn lại ký hiệp ước với giặc, thực chất là hiệp ước đầu hàng.
Ông trả lại chức tước triều đình rồi đi các nơi tìm người nghĩa khí chống giặc.
Ông lên Sơn Tây được Hoàng Kế Viêm phong là lãnh binh và nhận lệnh đi Bảo Hà
vời quân Cờ Đen về phối hợp chống Pháp. Ông đánh giặc ở sông Thao (Phú Thọ)
cùng với Nguyễn Quang Bích, Bồ Tòng Giáp, rồi về giữ thành Sơn Tây, đánh giặc ở
Hà Đông, ngọai thành Hà Nội. Ông đã phối hợp với quân Cờ Đen mai phục ở Cầu
Giấy diệt 111 tên giặc trong đó có đại tá Henri Rivière.
Sau
đó, ông về gây dựng lại phong trào ở Hà Nam, Nam Định. Nghĩa quân hoạt động
mạnh ở Lý Nhân, Vụ Bản, Bình Lục và tham gia giữ thành Nam Định cùng Lê Văn
Điềm. Đến lúc này, hầu hết các tỉnh miền Bắc bị giặc chiếm, ông trở về củng cố
Thanh Liêm. Được nhân dân ủng hộ, nghĩa quân có tới 5,000 người. Ông tổ chức
quy củ, thanh thế mạnh, đánh thắng nhiều trận. Phủ soái Pháp quyết định phải
tảo thanh sông Đáy, tiêu diệt nghĩa quân. Cuộc chiến đấu diễn ra khốc liệt. Ông
dùng mưu kế, thắng nhiều trận lớn ở Chàng, Thong, Bưởi, ... Nhưng cuối cùng
phải bật khỏi quê hương. Không chịu thất bại, Ông xuống Ý Yên rồi vào Thư Điền
(Ninh Binh) xây dựng lực lượng chiến đấu. Ở đây ông được quan Điện tiền Tôn
Thất Thuyết thay đức vua Hàm Nghi phong là Bình Tây Đại tướng quân.
Từ
năm 1883 đến 1885, phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa lên mạnh. Tôn Thất Thuyết
có ý định rước vua Hàm Nghi về đây để lãnh đạo kháng chiến trong cả nước. Trước
khi đi Trung Quốc cầu cứu nhà Thanh, ông đã gặp Đinh Công Tráng bàn kế sách cứu
nước rồi gửi thư cho Trần Xuân Soạn vời ông vào Thanh Hóa làm chủ soái cứ địa
Ba Đình.
Đây là những anh
hùng áo vải của Dân Tộc Việt Nam đã bị đội quân con chiên của Linh mục Trần Lục
tiếp sức cho giặc Pháp phá vỡ Chiến Lũy Ba Đình, các vị ấy đã bị chúng bắt và
đóng gông.Nhìn kỹ vào những đôi mắt của các nghĩa quân, mặc dù đã sa cơ vào tay
giặc, chúng ta thấy họ có lẽ vẫn đang còn lườm lườm vào hình dạng cụ sáu Trần
Lục (và bọn giặc Pháp) với nỗi uất hận, căm hờn vì bọn Việt gian hơn là quân
giặc: vì quân giặc thì tất nhiên đã hẳn có câu trả lời. Còn những kẻ Việt gian
đâm trực diện vào bụng đồng bào, vào lòng đất mẹ của mình (VN) là điều không
thể nào hiểu nổi.
Cứ
địa do Đinh Công Tráng trực tiếp chỉ huy, xây dựng bằng rơm bùi nhồi vào rọ đất
can thành nhanh chóng và bí mật. Đây là một kiểu thành lũy độc đáo, từ xưa chưa
ai làm. Nghĩa quân có 300 người và 4 khẩu thần công. Giặc tập trung hai trung
đoàn thủy quân lục chiến gồm 3,520 lính Âu trong đó có 75 sĩ quan do 2 trung tá
thủy quân, 1 trung tá pháo binh chỉ huy. Về sau chúng điều tên đại tá Brixô
trực tiếp chỉ huy. Về vũ khí giặc có 4 tàu chiến, 25 đại bác, còn lại là súng
máy, súng trường, sau thêm 2 tàu chở dầu. Tổng đốc Nguyễn Thiện Thuật điều 4
súng thần công, trên 1,000 lính khố xanh. Cố Sáu điều từ Phát Diệm vào trên
1,000 giáo dũng và 5,000 dân phu. Cuối chiến dịch hắn điều thêm 3 tàu thuyền
lớn và hàng trăm thuyền nhỏ cho quan thầy.
Giặc
mở ba đợt tấn công nhưng đều thất bại nặng nề. Cuối cùng giặc thực hiện kiểu đánh
tàn bạo của Napoléon ở Toulon: Hỏa công, diệt viện, công thành. Suốt hai ngày
đêm giặc trút liên tục vào căn cứ địa ngót hai vạn qủa đạn đại bác rồi phun dầu
đốt thành. Nhưng thành bằng rơm bùn rọ đất của Đinh Công Tráng vẫn đứng vững.
Xác giặc ngổn ngang, máu loang đỏ nước. 280 lính Âu và nhiều sĩ quan Pháp bỏ
mạng, chưa kể lính triều đình và giáo dũng.
Ba Đình bị ô nhiễm nặng. Đinh Công Tráng dùng thế trận ”Hỏa
dậy long trầm” rút khỏi cứ địa an toàn. Ông rút lên Cự Bảo, Hồ Sen. Giặc liên
tiếp truy kích. Ông rút sang Thượng Lào rồi về Nông Cống. Sau đó ông tìm vào
Nghệ An xây dựng căn cứ lâu dài, nhưng bị giặc đón đánh và đã anh dũng hy sinh
đêm 5-10-1887 tại làng Trung Yên, Đô Lương, Nghệ An. Tướng Pháp Mason đánh giá
Đinh Công Tráng là ”người có trật tự, trọng kỷ luật, cương trực, hay nghiêm trị
những thủ hạ quấy nhiễu dân; có chí nhẫn nại, biết mình biết người, không bao
giờ hành binh cẩu thả, giỏi lập thế trận” (Từ điển nhân vật lịch sử
Việt Nam, tr. 157).
Sách
Dieu et Sésar của Giáo sư Linh mục Trần Tam Tĩnh viết về vai trò của thừa sai
Puginier và Linh mục Trần Lục tức Cụ Sáu như sau:
"Cho tới khi chết ngày 25 tháng 4/1892, giám mục
Puginier đã hoạt động không ngưng nghỉ ngày nào để củng cố địa vị của nước Pháp
tại xứ ông đã nhận là quốc gia mới. Người ta còn giữ được mấy chục bản lời ghi
chú và những tin tức tình báo có mang chữ ký của ông trong những Văn Khố của Bộ
Thuộc Địa. Một phần nhờ vào các tin tức tình báo của ông (giám mục Puginier) mà
quân Pháp có thể dẹp tan quân đội kháng chiến của Việt Nam. Trung tâm kháng
chiến khốc liệt nhất là ở Ba Đình, Thanh Hóa, dưới sự chỉ huy của Đinh Công
Tráng. Đó là một làng được tăng cường bởi một vòng đai lũy tre, những ụ kháng
chiến, những hầm trú ẩn, và một hệ thống hầm giao thông được xếp đặt một cách tinh
vi. Để "bình định" làng này, quân đội Pháp đã kéo tới 2,250 binh sĩ
với 25 khẩu đại bác, 4 tàu chiến dưới sự chỉ huy của đại tá Metzinger. Cuộc tấn
công của Pháp ngày 18 tháng 12/1886 bị đẩy lui. Quân Pháp bao vây để tìm kiếm
một chiến thuật mới. Sung sướng thay cho họ, một sĩ quan trẻ, đại úy Joffre
(sau này trở thành thống chế nổi tiếng của Pháp trong đệ nhất Thế Chiến), đã
nghĩ đến việc cầu sự trợ giúp của Trần Lục, cha xứ Phát Diệm và là Phó Tướng
đặc trách bình định các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tịnh. Trần Lục, được giám
mục Puginier ban phước lành, mang 5000 giáo dân Gia Tô đến giúp quân Pháp. Và
Ba Đình bị thất thủ."
*********
TẢN MẠN
CHUNG QUANH CUỐN
“LINH MỤC
TRẦN LỤC”
Nguyễn Ngọc
Quỳ
Lời của một lũ chó phản quốc:
Linh mục Trần Lục (tức Cụ Sáu), người theo quân xâm lăng
Pháp tiêu diệt chiến khu Ba Đình của anh hùng Đinh Công Tráng, nhưng mỉa mai
thay lại là "danh nhân anh tài không những của Giáo hội Công giáo mà còn
của dân tộc Việt Nam chúng ta" (LM Trần Quí Thiện), "danh nhân không
những trong nước Việt Nam mà còn cả ngoài nước" (Đức Ông Trần văn Khả)
,"đức độ và tài ba", "LM Trần Lục là một vĩ nhân của lịch sử
hiện đại" (ông Sơn Diệm Vũ NgọcÁnh), "gương chung cổ cho người cả nước
đời đời soi chung" (ông Vũ Huy Bá).
--oOo--
Trong
buổi hầu chuyện duy nhất với Bác Hoàng Xuân Hãn lúc tôi vừa mới chân ướt chân
ráo đến Paris, Bác có cho biết lý do Bác luôn luôn nặng lòng với quê hương là
vì Bác nghiên cứu Sử. Càng biết nhiều về những biến cố đã xảy ra trên quê hương,
và càng biết rõ dân tộc ta đã đối trị với những biến cố đó như thế nào, Bác lại
càng thấy gắn bó thiết tha với con người và đất nước Việt Nam. Bác còn dặn thêm
là phải đan bện hiểu biết Sử học với hiểu biết Văn hóa và Địa lý để tạo thành
thế chân vạc Văn-Sử-Ðịa thì kiến thức mới vững vàng và tấm lòng mới sắt son.
Tôi luôn luôn ghi nhớ lời căn dặn đó của Bác trong quá trình nghiên cứu và viết
lách nghiệp dư của mình.
Lời
căn dặn nầy lại càng thúc bách hơn vào tháng Mười năm nay, khi một người bạn
gửi tặng cuốn "Linh Mục Trần Lục – Thực Chất Con Người và Sự Nghiệp"
do hai ông Bùi Kha và Trần Chung Ngọc viết, tạp chí Giao Điểm xuất bản. Nội
dung cuốn sách không có gì mới mẻ đối với chúng tôi, những người quan tâm đến
lãnh vực nghiên cứu Sử Việt Nam, nhất là từ lúc văn khố Pháp ở Aix-en-Provence
công khai hóa các sử liệu cho dân chúng tự do tham khảo. Chuyện ông cha Trần Lục
nầy, ai đọc Sử kỹ càng mà chẳng biết. Ngay từ lúc còn học Chu Văn An ở Sài Gòn
trước 1975, "Trần Lục" đã là một đề tài thảo luận sôi nổi (và suýt đi
đến đấm đá) giữa đám học sinh chúng tôi và những người bạn học sinh Công Giáo ở
trường … Trần Lục. Chúng tôi, lúc đó, có rất ít sử liệu và không trả lời được
một luận cứ chẳng dính líu gì đến chủ đề thảo luận, nhưng họ cũng cứ dùng để
phản bác: "Nếu đã gọi Linh Mục là người theo Tây phản quốc thì tại sao
Chính phủ, bộ Quốc gia Giáo dục, và toàn thể trí thức Việt Nam không ai phản
đối việc đặt tên ngôi trường Trần Lục của chúng tôi. Dễ cả nước mù hết hay sao
?".
Phải
sau 1975, ra đến nước ngoài và được tự do tiếp cận với nhiều nguồn thông tin
gốc, tôi mới trả lời được câu hỏi "cả nước có mù hay không" đó. Và
buồn cho nền giáo dục miền Nam, nơi tôi đã thâu nhận kiến thức Trung học, năm
phút ! Buồn cho một thủ đô miền Nam, vừa có hai tên đường Phan Đình Phùng và
Đinh Công Tráng, lại
vừa có tên trường của chính kẻ đã đắc lực góp công giúp Tây tiêu diệt hai vị
anh hùng chống xâm lăng nầy: Trần Lục!
Từ
chuyện cũ của Miền Nam đó, bây giờ chuyện hải ngoại cũng lại giống y chang, nổi
cộm lên ray rứt cả trong đầu lẫn trong tim.
Một người đã
hướng dẫn và cung cấp cho quân xâm lược 150 tay súng Công giáo để đánh chiếm
thành lũy Ninh Bình của nước ta, một người đã huy động 5.000 giáo dân Việt Nam
giúp Tây tiêu diệt chiến khu Ba Đình của anh hùng Đinh Công Tráng, một người đã
từng bị lãnh tụ chống xâm lăng Phan Đình Phùng đè ra hỏi tội và đánh đòn công
khai, một người đã từng được quân xâm lăng Pháp tưởng thưởng công lao bằng hai
Bắc Đẩu Bội Tinh, một người như thế mà lại được cộng đồng chức sắc và trí thức Công
giáo hải ngoại, cho đến giờ nầy, vẫn còn ồn ào "nâng" lên thành anh
tài của Việt Nam và vĩ nhân của thế giới, thì làm sao lý giải được hiện tượng
chua xót và … quái đản nầy?
Trước
hết điểm mặt xem ai nâng Trần Lục lên: Hội Truyền thống Giáo phận Phát Diệm,
Đức ông Trần Ngọc Thụ (Rome), các LM Nguyễn Thái Bình, Trần Phúc Vị, Trần Phúc
Nhân (ba vị nầy từ Việt Nam qua), LM Nguyễn Gia Đệ (Canada), LM Trần Quý Thiện,
hai Đức ông, 3 Linh Mục, cùng với ông Lê Hữu Mục và 5 trí thức giáo sư Công
giáo (đồng tác giả trong một cuốn sách dày 640 trang để vinh danh và ca tụng LM
Trần Lục) , ông Vũ Quang Ninh và ông Sơn Diệm Vũ Ngọc Ánh, hai nhân sĩ Công
giáo tại Mỹ, …như thế cũng tạm đủ để kết luận tính đại diện cho quan điểm Sử
học và Văn hóa của toàn bộ Giáo hội Công giáo Việt Nam về con người Trần Lục
rồi. Vả lại, cho đến giờ nầy, không thấy một cuốn sách nào của người Công giáo
viết "khác", lại càng chẳng thấy một người Công giáo Việt Nam nào lên
tiếng "phản đối" các vị nầy, kể cả những chuyên viên viết lách Công giáo
lúc nào cũng sẳn sàng đòi "dạy Sử" cho cả nước như các ông "tiến
sĩ" Cao Thế Dung, ông Tú Gàn thẩm phán Nguyễn Cần và ông cựu Nghị sĩ đao
to búa lớn Nguyễn văn Chức.
Bây
giờ hãy xem họ nâng ông Cha Trần Lục nầy lên đến độ cao nào: "danh nhân
anh tài không những của Giáo hội Công giáo mà còn của dân tộc Việt Nam chúng
ta" (LM Trần Quí Thiện), "danh nhân không những trong nước Việt Nam
mà còn cả ngoài nước" " (Đức Ông Trần văn Khả) ", "đức độ
và tài ba", "LM Trần Lục là một vĩ nhân của lịch sử hiện đại"
(ông Sơn Diệm Vũ NgọcÁnh), "gương chung cổ cho người cả nước đời đời soi
chung" (ông Vũ Huy Bá), …và nhiều lời tâng bốc mà chính những anh hùng
liệt nữ nước ta như các bà Trưng bà Triệu, và các vị Trần Hưng Đạo, Lê Lợi,
Quang Trung, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học cũng không sánh bằng.
Nhưng
Cụ Sáu Trần Lục ơi ! "Danh" gì cũng không thay được cái danh dâng
người và súng cho quân xâm lược, "Đức" gì cũng không thay được cái
đức bị cụ Phan đánh cho ba roi, "Tài" gì cũng không thay được cái tài
huy động Giáo dân tiêu diệt chiến lũy của nghĩa quân Ba Đình, "Gương"
gì cũng không thay được cái gương cúi đầu nhận Bắc Đẩu Bội Tinh của giặc.
Thế
mà nào là Đức ông , nào là Linh Mục, nào là Giáo dân trí thức cứ đội Cụ Sáu lên
đến chín tầng mây. Quái đản thật ! Cụ làm vĩ nhân của Công giáo, nhất là Công
giáo Việt Nam, thì đúngquá rồi, nhưng họ còn muốn Cụ làm vĩ nhân của cả dân tộc
Việt Nam và cả nhân loại nữa thì Cụ có chịu không ?!
Tôi
bèn kết hợp người "nâng", cách "nâng", và đối tượng được
"nâng" lại với nhau trong một phương trình, và giật mình tìm ra được
đáp án cho hiện tượng quái đản nói trên: Cứ người Công giáo làm thì Công giáo
Việt Nam phải nhắm mắt mà khen. Bất chấp chuyện làm có xấu mấy chăng nữa ! Họ
không lý đến sự thật, và cũng chẳng cần đắn đo xem có xúc phạm đến dân tộc hay
không. Tình cảm tôn giáo của người Công giáo Việt Nam mạnh hơn liên đới của họ
với đất nước Việt Nam, và áp đảo hẵn một chút lương thiện trí thức nào đó còn
sót lại của tinh thần đại học mà họ đã tiếp thu. Họ chỉ có một tiêu chuẩn để
đánh giá: Có lợi hay có hại cho Công giáo ?Cho nên, để có lợi cho Công giáo, họ
đã lạy Trần Lục thì làm sao mà thờ Đinh Công Tráng và Phan Đình Phùng được, vì
có điều nầy thì không thể có điều kia !
Đáp
án nầy không chỉ giải thích riêng "vụ" Trần Lục, mà còn làm sáng tỏ
thêm ứng xử văn hóa và đánh giá lịch sử (lúc đầu có vẽ khó hiểu) của họ qua
những trường hợp rõ ràng không chối cải được khi họ chạy tội cho những đồng đạo
Pétrus Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Bá Tòng, Lê Hữu Từ, Nguyễn Trường Tộ, Alexandre de
Rhodes, … hay khi họ phản ứng hằn học với các phong trào yêu nước chống xâm
lăng của Văn Thân, Cần Vương, và các vua chúa triều Nguyễn. Điều thê thảm và
bất hạnh cho chính họ (và một phần rất nhỏ cho dân tộc Việt Nam) là ứng xử tâm
lý đó đã trở thành vận động có tính quy luật trong tâm thức tôn giáo của người
Công giáo Việt Nam. Họ muốn thành thật cưỡng chống cũng không được! Ta muốn hết
sức giúp họ giải hoặcthì bị họ xem như kẻ thù!
Hãy
lấy vụ ông Ngô Đình Diệm như một trường hợp cụ thể và điển hình để khảo sát:
"Chuyện" chỉ mới xảy ra chưa đến 40 năm, tài liệu khả tín và nhân
chứng sống còn đó, đầy đủ và rõ ràng. Chỉ riêng ở Pháp (là quốc gia dính dự ít
đến biến cố nầy), tài liệu gốc và tác phẩm Sử có đăng ký tại Thư viện trong
vùng Paris mà thôi cũng đã gần 200 tài liệu. Từ mười năm nay tôi đã để tâm đọc
hết và thấy tuyệt đại đa số đều đi đến một kết luận rằng đó là một chế độ thất
bại về mặt quản trị quốc gia và tồi tệ về mặt đạo đức luân lý, chỉ trừ một số
rất ít sách tìm cách chống đỡ, bào chữa, lại còn vinh danh chế độ nầy ! Tác giả
số sách rất ít đó, dĩ nhiên, là Linh mục và giáo dân (Pháp và Việt). Vì ông
Diệm là Công giáo, nên Linh mục và giáo dân (và chỉ họ mà thôi) cứ bò dài ra mà
tung hô. Rất đơn giản !
Ở Mỹ, thì sự
tương phản đó còn đậm nét hơn. Cho nên tôi vẫn thắc mắc tự hỏi không biết các
"bộ óc chiến lược" của người Công giáo ở đâu mà không thấy rằng càng
ngụy biện bào chữa thì tội bán nước của Giáo hội càng bị phát hiện nhiều thêm,
càng tô son trét phấn cho cái gọi là "tinh thần Ngô Đình Diệm" thì
chân tướng phi dân tộc của tinh thần đó càng bị phát lộ. Và kéo theo nó, như vụ
Trần Lục, những phản bác giúp cả nước thấy rõ thêm lịch sử hình thành đen tối
của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Đúng là cây muốn lặng mà gió chẳng
chịu ngừng !
Do
đó mà câu hỏi vẫn còn nguyên vẹn, và câu trả lời vẫn là có cái gì không ổn
trong tư duy và tình cảm của người Công giáo Việt Nam. Tại sao chỉ người Công
giáo lại có loại ứng xử quái đản rất đậm nét, đều khắp và có tính quy luật như
thế ? Và tại sao khi thêm thuộc tính "Việt Nam" vào đặc tính
"Công giáo"của họ, thì cường độ đậm nét, đều khắp và có tính quy luật
nầy lại gia tăng lên gấp bội ?
Vì
vậy mà những nóc nhà thờ bắt chước một cách thô kệch dáng uốn cong của kiến
trúc mái chùa, những buổi lễ đạo có áo thụng xanh khăn chít đỏ màu mè cho ra vẽ
dân tộc … mà người Công giáo Việt Nam bày đặt dàn dựng, thực chất chỉ là lớp
phấn son kệch cởm nhằm tự dối mình và đánh lừa người.
Tại vì bên dưới dáng mái cong và bên trong lớp
áo thụng đó mà vẫn còn giới chức sắc và lớp trí thức lạy thờ và vinh danh những
loại Việt gian như Trần Lục, thì căn tính nô lệ ngoại bang và truyền thống theo
đạo bán nước của Giáo Hội làm sao gột bỏ được.
Con
đường trở về với dân tộc thật là dễ dàng mà cũng thật lắm chông gai ! Dễ vì trẽ
mục đồng lên năm ê a mấy câu hát ca dao của thôn dã Việt Nam cũng làm được,
nhưng khó vì đã đội năm ba cái mũ Hồng Y của Vatican, mang trong người hai ba
cái bằng thần học Tây phương, thì muôn đời cũng không mở mắt được.
Cho
nên Bác Hãn ơi, hiểu Sử đã thật là khó. Nhưng ứng xử theo những gì mình đã học,
thì đối với một số người Việt Nam mất gốc xa nguồn lại có truyền thống làm tay
sai cho giặc, thật không phải dễ thưa Bác.
N.N.Q.
Paris
11-1999
Đây là ý kiến của VL?
ReplyDeleteĐây là 2 bài báo rõ ràng . Linda hỏi vậy hong hiểu.
Delete