Ông Hòang Tùng, nguyên Tổng Biên
Tập báo Nhân Dân (1954-1982), vừa qua đời tại Hà Nội, ngày 19 tháng 6 năm
2010. Trên một số diễn đàn mạng đã đăng lại bài viết “Những kỉ niệm về Bác Hồ”.
Trong bài viết này ông đã nhắc đến việc xử bắn bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị
Năm. Người viết có may mắn tìm được một tài liệu về vụ xử bắn này để viết
bài “Vai trò của Hồ
Chí Minh trong Cải cách ruộng đất” đăng trên một số diễn
đàn vài năm về trước (2007). Bài viết này có vài hiệu đính xin được phổ
biến lại để bạn đọc xa gần nắm rõ hơn về vụ án này.
Cuộc Cải cách ruộng đất (CCRĐ)
tại miền Bắc Việt Nam là sự kiện có một không hai trong lịch sử Việt Nam .
Sự kiện này đã dẫn đến việc tháng 9 năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Lao động phải ra các quyết định sau: ngưng chức
Tổng Bí thư của Trường Chinh, khai trừ Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương khỏi
Bộ Chính trị và loại Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương.
Sau
nhiều năm bị che đậy, các tài liệu, các bài viết, các hồi ký, các tác phẩm
văn học… được phổ biến trong thời gian gần đây giúp chúng ta biết thêm sự
thật về cuộc cải cách ruộng đất này.
Tuy vậy trong năm mười năm qua
vai trò của Hồ Chí Minh trong CCRĐ vẫn được đặt ra với nhiều câu hỏi. Có
thật ông chỉ theo lệnh của Stalin và Mao Trạch Đông?
Có thật ông chỉ là
thiểu số không đủ quyền lực để ảnh hưởng đến các cố vấn Trung Quốc?
Có phải
ông chỉ muốn tiến hành giảm tô?
Có phải ông đã khóc khi biết được các tội
ác do CCRĐ gây ra?…
Các câu hỏi này càng lúc lại càng trở nên cấp thiết khi
Đảng Cộng sản (ĐCS) không ngừng tạo những huyền thoại về Hồ Chí Minh.
Vừa
rồi Bộ Chính trị lại ban hành Chỉ Thị số 06-CT/TW “yêu cầu toàn dân học tập để nhận
thức về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của lý tưởng và tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh”.
Những công việc này chỉ làm xa dần con người
thực của ông.
Những tài liệu cho thấy Hồ Chí
Minh đã hiểu rất rõ nguyện vọng “người cày có ruộng” của nông dân Việt Nam
.
Khi còn ở Pháp ông có viết một số bài lên án việc chiếm hữu đất đai của
thực dân Pháp.
Trong thời gian hoạt động tại Trung Hoa, ông tiếp nhận và để
tâm nghiên cứu cách mạng thổ địa tại đây.
Nó vừa là một phương tiện đấu
tranh giai cấp, vừa để xây dựng chuyên chế vô sản. Trong một lá thư gởi các
lãnh đạo Quốc tế Nông dân đề ngày 8/2/1928, ông viết: “Tôi tranh thủ thời gian viết
‘những ký ức của tôi’ về phong trào nông dân, chủ yếu là phong trào Hải Lục
Phong, nơi có các xô-viết nông dân. Người ‘anh hùng’ trong ‘những ký ức của
tôi’ chính là đồng chí Bành Bái, cựu Dân uỷ nông nghiệp của Xô-viết Quảng
Châu và hiện là lãnh tụ của nông dân cách mạng.” (Hồ Chí Minh
Toàn tập, tập 2 trang 265).
Năm 1953 tại Hội nghị nông hội và dân vận toàn
quốc, ông lại nhắc đến: “… đồng chí Bành Bái ở Trung Quốc, gia đình đồng
chí là đại địa chủ, đại phong kiến, nhưng đồng chí ấy đã tổ chức và lãnh
đạo nông dân đấu tranh rất quyết liệt chống địa chủ phong kiến” (Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 2 trang 357).
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam
được thành lập. Cương lĩnh của đảng này là lấy việc chống đế quốc, chống
phong kiến và địa chủ, giành ruộng đất về cho nông dân làm sách lược hàng
đầu.
Sách lược 2 của ĐCS ghi rõ: “Đảng
phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vững vào hạng dân cày
nghèo, phải hết sức lãnh đạo cho dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh
trúc bọn đại địa chủ và phong kiến” (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập
2 trang 297).
Chương trình hành động thì hướng đến việc: “Đảng tập hợp đa số quần chúng
nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến”
(Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 299).
Các văn kiện thành lập ĐCSVN đều
do Hồ Chí Minh, đại diện Quốc tế Cộng sản, soạn ra.
Ít tháng sau, ĐCS đã sách động
nông dân nổi dậy ở nhiều nơi, đặc biệt là ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Khẩu hiệu
“trí – phú – địa – hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” được dùng làm tiêu đề cho
cuộc đấu tranh mới – đấu tranh triệt tiêu giai cấp địa chủ và phong kiến.
Cuộc nổi dậy đã bị Pháp đàn áp dã man. Từ đó, chia rẽ giữa các các tầng lớp
nông dân ngày một trầm trọng hơn.
Năm 1945, khi nắm được chính
quyền, một mặt Hồ Chí Minh và ĐCS phải lo đối đầu với Pháp, mặt khác vì đa
số các đảng viên và cán bộ đều xuất thân từ các gia đình địa chủ hay phú
nông, việc phát động cách mạng thổ địa đã không thể tiến hành ngay.
Mãi đến
năm 1949, khi ĐCS Trung Hoa đã chiếm gần xong lục địa, cửa hậu cần mới đang
được khai thông. Việt Minh bắt đầu nhận được những viện trợ từ Quốc tế Cộng
sản, nhất là từ ĐCS Trung Hoa.
Chiến trường Việt Nam ngày một thuận lợi hơn
cho lực lượng Việt Minh. Khi ấy Hồ Chí Minh và ĐCS mới nghĩ đến việc tiến
hành CCRĐ, mở đầu bằng việc giảm tô cho nông dân. Ngày 14/7/1949, Hồ Chí
Minh ký Sắc lệnh 78
SL quy định chủ đất phải giảm địa tô 25 phần trăm so với mức trước năm
1945.
Ngày 25/1/1953, tại Hội nghị lần
thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động, Hồ Chí Minh chủ toạ, đọc
báo cáo đề ra nhiệm vụ phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện
giảm tức, đấu tranh chống giai cấp địa chủ phong kiến, tiến đến CCRĐ.
Ngay sau đó, ngày 5/2/1953, tại
Hội nghị nông hội và dân vận toàn quốc, Hồ Chí Minh đã vấn an các đảng viên
và cán bộ tham dự như sau: “Địa
chủ cũng có đôi người làm cách mạng, nước ta như các nước khác, ta cũng có
vài đồng chí, đại địa chủ mà làm cách mạng, hồi bí mật có bao nhiêu tiền
của giúp cho Đảng hết, cam tâm chịu tù đày.
Họ tuy là người trong giai cấp
địa chủ nhưng lập trường và tư tưởng đã đứng về phe vô sản, là người của
giai cấp công nhân” (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 357).
Ngày 12/4/1953 Hồ Chí Minh ban
hành Sắc lệnh số 150 SL về Cải cách ruộng đất, tịch thu ruộng đất của thực
dân Pháp và địa chủ phản động chia lại cho nông dân nghèo.
Ngày 14/11/1953, Hội nghị lần
thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương và Hội nghị toàn quốc của Đảng Lao động đã
quyết định tiến hành CCRĐ.
Trong báo cáo trước Quốc hội
khoá I kỳ họp lần thứ ba, ông Hồ đã phát biểu “Phương châm của cải cách ruộng đất là: phóng tay
phát động quần chúng nông dân” (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6
trang 509).
Ông Nguyễn Văn Trấn, nguyên Đại biểu Quốc hội khoá I, đại diện
Sài Gòn Chợ Lớn, giải thích “phóng tay” nghiã là “cứ việc làm mạnh thả cửa”
(Nguyễn Văn Trấn, trang 266).
Ông Nguyễn Minh Cần giải thích “là làm hết sức mãnh liệt, thẳng
tay, không khoan nhượng, không thương xót, cho dù quá trớn, quá tả cũng
không đáng sợ”. Ông còn cho biết: “Ông Hồ đã dùng hình ảnh dễ
hiểu: khi uốn thanh tre cong cho nó thẳng ra, phải uốn quá đi một tí và giữ
lâu lâu, rồi thả tay ra thì nó mới thẳng được”. Ông Nguyễn Văn Trấn than
rằng “Trời ơi! Đảng của
tôi đã nghe lời người ngoài, kéo khúc cây cong quá trớn. Nó bật lại giết
chết bao nhiêu vạn sinh linh.” (Nguyễn Văn Trấn, trang 266).
Cũng trong báo cáo trước Quốc
hội này, Hồ Chí Minh đã ra chỉ tiêu: “Giai
cấp địa chủ phong kiến không đầy 5 phần trăm dân số, mà chúng và thực dân
chiếm hết 7 phần 10 ruộng đất…” (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6
trang 509). Chính chỉ tiêu này đã: “…
giết chết bao nhiêu vạn sinh linh”. (Nguyễn Văn Trấn, trang
266).
Trong thời gian tiến hành giảm
tô tiến đến CCRĐ, sáu xã tại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên đã được chọn làm
thí điểm. Người đầu tiên bị mang ra xử bắn là bà Nguyễn Thị Năm. Bà còn
được gọi là bà Cát Hanh Long (xem Nguyễn Minh Cần). Bà là người đã che giấu
và nuôi dưỡng các lãnh đạo cộng sản như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm
Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Lê Giản… trong thời gian ĐCS còn hoạt
động bí mật.
Trong “Tuần lễ vàng” bà đã đóng góp cho Việt Minh 100 lạng
vàng. Hai con trai bà, ông Nguyễn Công và ông Nguyễn Hanh đều theo Việt
Minh từ trước 1945. Khi CCRĐ được phát động, ông Nguyễn Công đang làm chính
uỷ trung đoàn và ông Nguyễn Hanh là đại đội phó bộ đội thông tin.
Trong Hồi ký Làm người rất khó, làm người xã
hội chủ nghĩa khó hơn, nguyên Phó thủ tướng CHXHCN Việt Nam,
ông Đoàn Duy Thành cho biết việc bà Năm bị bắn đã làm xôn xao dư luận.
Ông
cho rằng việc làm này có 3 điều làm sai chính sách là: (1) Địa chủ kháng
chiến được chiếu cố; (2) Địa chủ kiêm công thương được chiếu cố; (3) Địa
chủ hiến ruộng được chiếu cố. Và một điều sai đạo lý là “… bắn một địa chủ là nữ, không
phải là cường hào gian ác sẽ trái đạo lý thông thường của người Việt Nam
“.
Ông viết tiếp: “Sau
này khi sửa sai CCRĐ xong, tôi được nghe nhiều cán bộ cao cấp nói lại: ‘Khi
chuẩn bị bắn Nguyễn Thị Năm, Bác Hồ đã can thiệp và nói đại ý: ‘Chẳng lẽ
CCRĐ không tìm được một tên địa chủ, cường hào gian ác là nam giới mà mở
đầu đã phải bắn một phụ nữ địa chủ hay sao?’ Nhưng cán bộ thừa hành báo cáo
là đã hỏi cố vấn Trung Quốc và được trả lời là: ‘Hổ đực hay hổ cái, đều ăn
thịt người cả!’. Thế là đem hành hình Nguyễn Thị Năm!”
Trong hồi ký Những kỷ niệm về
Bác Hồ, nguyên Tổng biên tập báo Nhân Dân, ông Hoàng Tùng cho biết: “Chọn
địa chủ Nguyễn Thị Năm để làm trước là do có người mách cho cố vấn Trung
Quốc. Họp Bộ Chính trị Bác nói: ‘Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi,
nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào một người
đàn bà, mà người ấy lại cũng giúp đỡ cho cách mạng, người Pháp nói không
nên đánh vào đàn bà, dù chỉ là đánh bằng một cành hoa.’ Sau cố vấn Trung
Quốc là Lê Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: ‘Tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho
là không phải.’ Và họ cứ thế làm”.
Trong hồi ký Mặt thật, nguyên
Phó tổng biên tập báo Nhân Dân, nhà báo Thành Tín (Bùi Tín) đã kể rằng theo
lập luận của đội CCRĐ thì “Việc
con mụ Năm đã làm chỉ là giả dối nhằm chui sâu, leo cao vào hàng ngũ cách
mạng để phá hoại.
Bản chất của giai cấp địa chủ là rất ngoan cố xảo quyệt
và tàn bạo, chúng không từ thủ đoạn nào để chống phá cách mạng. Nông dân
phải luôn luôn sáng suốt dù chúng giở thủ đoạn nào.” Thành Tín
cũng viết “Ông Hoàng
Quốc Việt kể lại rằng hồi ấy ông chạy về Hà Nội, báo cáo việc hệ trọng này
với ông Hồ Chí Minh.
Ông Hồ chăm chú nghe rồi phát biểu: ‘Không ổn! Không
thể mở đầu chiến dịch bằng cách nổ súng vào một phụ nữ, và lại là một người
từng nuôi cán bộ cộng sản và mẹ một chính uỷ trung đoàn Quân đội Nhân dân
đang tại chức.’
Ông hẹn sẽ can thiệp, sẽ nói với Trường Chinh về chuyện hệ
trọng và cấp bách này”. Thành Tín viết tiếp: “Thế nhưng không có gì động
theo hướng đó cả! Bởi vì người ta mượn cớ đã quá chậm.
Các phóng viên báo
chí, các nhà văn hạ phóng tham gia cải cách đã viết sẵn bài tố cáo, lên án,
kết tội bà Năm rồi”.
Qua Thành Tín ta cũng biết được
suy nghĩ của Hoàng Quốc Việt: “Đến
Bác Hồ biết là không đúng cũng không dám nói với họ… ‘Họ’ là các ông con
trời đặc phái viên của Mao”. Thành Tín nhận xét: “Trước hết Hồ Chí Minh có
lỗi lớn.
Thà rằng không biết gì về chuyện này; và dù không biết, là chủ
tịch nước, chủ tịch Đảng ông cũng phải chịu phần trách nhiệm. Huống hồ gì
ông đã biết rõ cụ thể, ông nhận định là bà Năm bị xử trí oan, thế mà ông
giữ im lặng, ông không can thiệp. Đây là thái độ vô trách nhiệm.
Ông không
can thiệp thì ai có thể can thiệp? Ông để mặc cho nước ông bị một số kẻ
nước ngoài (cố vấn Tàu) lũng đoạn, lộng hành. Trên thực tế ông đã từ nhiệm
vị trí trách nhiệm của mình”.
Trong hồi ký Giọt nước trong
biển cả, ông Hoàng Văn Hoan đã cho rằng Ủy ban CCRĐ “… tự cho phép các đội CCRĐ được
bắn vào địa chủ gian ác để nâng cao khí thế nông dân. Việc bắn địa chủ mở
đầu từ Thái Nguyên, sau lan tràn đi nhiều nơi, coi là một phương pháp tốt,
để nâng cao uy thế của nông dân.” Ông nêu ra điều 36 của luật
CCRĐ quy định: “Đối với kẻ phạm pháp thì xét xử theo pháp luật, nghiêm cấm
việc bắt bớ và giết chóc trái phép, đánh đập hoặc dùng mọi thứ nhục hình
khác”. Ông cũng đã viết: “Tham
dự xong Hội nghị Trung ương về CCRĐ, tôi lại trở ra Bắc Kinh. Thủ tướng Chu
Ân Lai được biết tin và rất quan tâm về vấn đề sai lầm trong CCRĐ, khi gặp
tôi liền hỏi: Việc sai lầm trong CCRĐ có liên quan gì đến các đồng chí cố
vấn Trung Quốc hay không?
Tôi trả lời: Kinh nghiệm CCRĐ của Trung Quốc là
rất tốt. Ủy ban CCRĐ ở Việt Nam phạm sai lầm, như coi thành phần địa chủ
lên quá nhiều, đánh vào thành phần phú nông và trung nông, đánh vào những
người chỉ có một ít ruộng đất nhưng nguồn thu nhập chính là những nghề
nghiệp khác, đánh vào những địa chủ kháng chiến, địa chủ có công với cách
mạng, đặt biệt là đánh tràn lan vào các cơ sở Đảng, thì đó là sai lầm của
Ủy ban CCRĐ Việt Nam, chứ không phải là sai lầm của các cố vấn Trung Quốc”.
Ông Nguyễn Minh Cần, nguyên Phó
chủ tịch Hà Nội, đã hết sức ưu tư về việc “những người lãnh đạo cộng sản trong Bộ Chính trị và
đứng đầu chính phủ đã từng được bà che giấu, nuôi ăn, tặng vàng, nay đang
làm Chủ tịch nước, Tổng Bí thư, Ủy viên ban chấp hành, Thủ tướng, Phó Thủ
tướng đã lạnh lùng chuẩn y một bản án tử hình như vậy! Phát súng đầu tiên
của CCRĐ nổ vào đầu của một người phụ nữ yêu nước đã từng giúp đỡ cho những
người cộng sản! Phát súng đó tự nó đã nói lên nhiều điều về các lãnh tụ
cộng sản! Nó báo trước những tai hoạ khôn lường cho toàn dân tộc!”.
Nhà văn Vũ Thư Hiên nhận xét một
cách dứt khoát: “Câu
chuyện về Hồ Chí Minh trong thâm tâm chống lại chủ trương Cải cách ruộng
đất, bực bội vì việc mở màn bằng việc bắn một người đàn bà, như một số
người bào chữa cho ông là một chuyện tầm phào. Một lệnh ông Hồ ban ra không
phải là chỉ cứu được bà Nguyễn Thị Năm, nó còn cứu hằng ngàn người bị giết
oan trong cả Cải cách ruộng đất lẫn Chỉnh đốn tổ chức do Lê Văn Lương song
song tiến hành. Ông không cứu ai cho tới khi những sai lầm tích tụ lại
thành cái nhọt bọc. Lúc cái nhọt bọc vỡ ra ông mới tỉnh cơn mê. Nhưng đã
muộn” .
Vũ Thư Hiên còn cho biết ông Vũ
Đình Huỳnh, nguyên thư ký riêng của Hồ Chí Minh, đã nói thẳng với ông Hồ: “Máu đồng bào, đồng chí đã đổ mà
Bác vẫn còn ngồi yên được à? Chúng ta tuy không có học, chúng ta dốt, chúng
ta phải vừa làm vừa học xây dựng chính quyền, vì dốt nát chúng ta mắc mọi
sai lầm, nhưng chúng ta không có quyền để tay chúng ta nhuốm máu đồng bào
đồng chí”. Cũng qua Vũ Thư Hiên ta biết được ông Vũ Đình Huỳnh đã “… khẳng
định người chịu trách nhiệm chính là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải là
Trường Chinh. Trường Chinh chỉ là con dê tế thần cho ông Hồ”.
Điểm qua những hồi ký, suy nghĩ,
ưu tư kể trên, ta thấy được vụ án Nguyễn Thị Năm nói riêng và CCRĐ nói
chung còn rất nhiều uẩn khúc. Những uẩn khúc này không phải chỉ liên quan
đến các nạn nhân hay gia đình nạn nhân CCRĐ.
Nó còn in đậm nét trong tâm
trí của những người đã một thời tin vào chủ nghĩa cộng sản, vào lý tưởng
cộng sản, vào sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và ĐCS, trong đó có người từng
trực tiếp tham gia CCRĐ. Những uẩn khúc này cần phải được làm sáng tỏ.
Trong tập tài liệu Phát động
quần chúng và tăng gia sản xuất của tác giả C.B. do báo Nhân Dân xuất bản
năm 1955, trang 27 và 28, có bài “Địa chủ ác ghê”. Bài viết này đã được
đăng trên báo Nhân Dân ngày 21 tháng 7 năm 1953 và phổ biến lại trong tập
liệu này. Đúng như nhà báo Thành Tín cho biết, “các phóng viên báo chí các
nhà văn hạ phóng tham gia cải cách đã viết sẵn bài tố cáo, lên án, kết tội
bà Năm rồi”. Nhân tiện người viết xin được đăng toàn bài để bạn đọc có thể
cùng suy ngẫm:
Địa chủ ác ghê
Thánh hiền dạy rằng: “Vi phú bất
nhân”. Ai cũng biết rằng địa chủ thì ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lãi
nặng, chây lười thuế khoá – thế thôi. Nào ngờ có bọn địa chủ giết người
không nháy mắt. Đây là một thí dụ:
Mụ địa chủ Cát-hanh-Long cùng
hai đứa con và mấy tên lâu la đã:
Giết chết 14 nông dân.
Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân, nay còn tàn tật.
Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người – năm 1944, chúng đưa 37 gia đình về
đồn điền phá rừng khai ruộng cho chúng.
Chúng bắt làm nhiều và cho ăn đói.
Ít tháng sau, vì cực khổ quá, 32 gia đình đã chết hết, không còn một người.
Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân – Năm 1945, chúng đưa 65 nông dân bị nạn
đói ở Thái Bình về làm đồn điền. Cũng vì chúng cho ăn đói bắt làm nhiều. Ít
hôm sau, hơn 30 người đã chết ở xóm Chùa Hang.
Năm 1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi. Chúng bắt các em ở dưới
hầm, cho ăn đói mặc rách, bắt làm quá sức lại đánh đập không ngớt. Chỉ mấy
tháng, 15 em đã bỏ mạng.
Thế là ba mẹ con địa chủ Cát-hanh-Long, đã trực tiếp, gián tiếp giết ngót
260 đồng bào!
Còn những cảnh chúng tra tấn
nông dân thiếu tô thiếu nợ, thì tàn nhẫn không kém gì thực dân Pháp.
Thí
dụ:
Trời rét, chúng bắt nông dân cởi
trần, rồi dội nước lạnh vào người. Hoặc bắt đội thùng nước lạnh có lỗ
thủng, nước rỏ từng giọt vào đầu, vào vai, đau buốt tận óc tận ruột.
Chúng trói chặt nông dân, treo lên xà nhà, kéo lên kéo xuống.
Chúng đóng gióng trâu vào mồm nông dân, làm cho gẫy răng hộc máu. Bơm nước
vào bụng, rồi giẫm lên bụng cho hộc nước ra.
Chúng đổ nước cà, nước mắm vào mũi nông dân, làm cho nôn sặc lên.
Chúng lấy nến đốt vào mình nông dân, làm cho cháy da bỏng thịt.
Đó là chưa kể tội phản cách mạng của chúng. Trước kia mẹ con chúng đã thông
đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ.
Sau Cách mạng tháng Tám, chúng đã
thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng chiến.
Trong cuộc phát động quần chúng, đồng bào địa phương đã đưa đủ chứng cớ rõ
ràng ra tố cáo. Mẹ con Cát-hanh-Long không thể chối cãi, đã thú nhận thật
cả những tội ác hại nước hại dân. Thật là:
Viết không hết tội, dù chẻ hết
tre rừng,
Rửa không sạch ác, dù tát cạn nước bể!
(21-7-1953)
Vì bài báo gọi bà Nguyễn Thị Năm
là Cát-hanh-Long nên người viết theo đó mà gọi. Có người còn gọi bà là bà
Cát Thanh Long hay bà Cát Thành Long, không biết danh hiệu nào là đúng?
Nhà báo Thành tín cũng viết: “Một số nông dân chất phác ngây
thơ, kể rằng bà Năm rất tốt, nhân từ, hay đi chùa, làm việc thiện, có nhiều
cán bộ chiến sĩ là con nuôi của bà, bà có công với kháng chiến, nên xếp là
địa chủ kháng chiến”. Nhóm từ “mấy tên lâu la” được dùng trong
bài báo nêu trên có lẽ để kết tội các nông dân hiền hoà, chất phác đã không
chịu đấu tố bà Năm và hai người con của bà.
Báo Nhân Dân là cơ quan tuyên truyền của
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, bài báo phải được duyệt xét kỹ của Trung
ương Đảng trước khi cho phổ biến. Khi đọc bài báo này, người viết cảm nhận
một điều là bố cục, hình thức và văn phong của bài viết rất tương tự với
bản “Tuyên ngôn Độc lập” do Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình ngày
2/9/1945, phần lên án thực dân Pháp.
Tập tài liệu Phát động quần
chúng và tăng gia sản xuất ghi rõ tên tác giả các bài viết trong đó là C.B.
– đây là một trong những bút hiệu của Hồ Chí Minh. Chỉ riêng trong tập 6
(từ 1-1951 đến 7-1954) của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập do nhà xuất bản Sự
Thật Hà Nội in năm 1989, người viết đã đếm được tất cả 15 bài viết của Hồ
Chí Minh ký tên là C.B.
Không thấy bài viết này được
nhắc đến trong bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập. Tuy nhiên trong Hồ Chí Minh
biên niên tiểu sử tập 5 trang 418 ghi rõ: “Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: Địa chủ phản động ác ghê, ký bút danh Đ. X. đăng trên báo Cứu Quốc,
số 2459 (ngày 2/11/1953), tố cáo tội ác của một số địa chủ phản động đã cấu
kết với thực dân và bù nhìn để phản dân, phản nước, mưu phá hoại chính sách
ruộng đất của Chính phủ.
Chúng là bọn ‘mặt người dạ thú’ và tội ác của
chúng là ‘tuyệt vô nhân đạo’.” Có thể bài viết của ông Hồ trên báo Nhân Dân
đã được đăng lại trên báo Cứu Quốc với một bút hiệu khác.
Khi đọc bản thảo bài viết này,
ông Nguyễn Minh Cần nhớ lại năm 1953 ông đã được đọc bài “Địa chủ ác ghê”
từ nội san Cải cách ruộng đất được phổ biến trong nội bộ Đảng Lao động và
các cán bộ CCRĐ.
Ông Hoàng Văn Chí có viết trong
khoá chỉnh huấn trung ương nhằm đả thông tư tưởng đảng viên và cán bộ làm
công tác CCRĐ, Hồ Chí Minh đã ví von:
“đế quốc là con hổ mà địa chủ là bụi rậm để cho hổ núp. Vì vậy muốn đuổi hổ
phải phá cho kỳ hết bụi rậm.” (Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến
cộng sản, Chương 12, trang 90).
Khác với các vụ xử tử trong CCRĐ
sau này, Hoàng Tùng xác nhận Bộ Chính trị đã họp và quyết định về vụ xử bắn
bà Năm. Ông Nguyễn Minh Cần nói rõ hơn: “bà
đã bị quy là địa chủ cường hà ác bá, bị đoàn CCRĐ xử án tử hình, Ủy ban
CCRĐ Trung ương duyệt y và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam
chuẩn y”. Theo người viết, ít nhất có 7 lý do để bà Năm được
chọn làm thí điểm đầu tiên cho cuộc phóng tay phát động quần chúng CCRĐ:
- Thứ nhất, phương châm chính
trong CCRĐ là “thà giết lầm 10 người vô tội, còn hơn để thoát một kẻ thù”.
CCRĐ là một cuộc đấu tranh giai cấp giữa bần cố nông và địa chủ (nông dân
có ruộng). Do đó địa chủ không thể được lọt lưới, được bỏ sót. Bà Năm lại
có đến 2,789 mẫu đất (Thanh Cần, trang 3), là một đại địa chủ.
- Thứ nhì, phát súng đầu tiên bắn vào một phụ nữ để xác định CCRĐ là một
cuộc đấu tranh giai cấp và trong đấu tranh giai cấp không phân biệt địa chủ
phong kiến là phụ nữ hay đàn ông, già hay trẻ…
- Thứ ba, như Hồ Chí Minh thường tuyên bố “toàn dân kháng chiến”, địa chủ
đã chấp nhận ở lại vùng kháng chiến, đương nhiên là chấp nhận theo, đóng
góp, tham gia kháng chiến.
Xử bắn bà, và những địa chủ trong vùng kháng
chiến, là để phủ nhận công lao đóng góp của thành phần này. Nay đã có Quốc
tế Cộng sản, có giai cấp công nông, khẩu hiệu “toàn dân kháng chiến” không
còn cần thiết nữa.
- Thứ tư, bắn bà Năm là dấu hiệu cho phép trừng phạt tất cả những người có
ruộng đất, có tài sản, có ảnh hưởng kinh tế chính trị trong và ngoài Đảng
Lao động Việt Nam. Theo ông Đoàn Duy Thành, bà Năm là địa chủ đã hiến ruộng
cho chính quyền kháng chiến.
- Thứ năm, ảnh hưởng kinh tế và chính trị của bà, và của các địa chủ khác,
cần phải được thủ tiêu để mở đường xây dựng chế độ chuyên chế toàn trị.
- Thứ sáu, xử bắn bà Năm, và giai cấp địa chủ, là nhằm sách động nông dân
thực thi sách lược “chia để trị”.
- Thứ bẩy, xử bắn bà Năm và tiêu diệt giai cấp địa chủ là nhằm nâng cao
quyền lực của Hồ Chí Minh và ĐCS. Nguyễn Văn Trấn đã viết: “Các đoàn CCRĐ đã rút kinh nghiệm
về cách đem phạm nhân đi bắn, và đã cho lệnh bắn sau lưng kẻ thọ hình. Vì
kinh nghiệm cho thấy, đem trói nó vào nọc trụ để bắn thì nó sẽ la to Hồ Chí
Minh muôn năm, Đảng Lao động muôn năm” (Nguyễn Văn Trấn, trang
270). Vũ Thư Hiên cũng nhắc đến việc có người đã tự tử để lại bức thư tuyệt
mệnh: “Oan cho tôi lắm,
cụ Hồ ơi.
Tôi trung thành với cụ với Đảng. Tôi không phản bội, Hồ Chí Minh
muôn năm!” (Vũ Thư Hiên, chương 1).
Chính vì những lý do trên mà Hồ
Chí Minh mới đích thân viết bài trên báo Nhân Dân đấu tố bà Năm.
Trong một lá thư, đề ngày
18/8/1956, gởi đến “đồng bào nông thôn” nhân dịp CCRĐ căn bản đã hoàn thành,
Hồ Chí Minh xác định CCRĐ là “một thắng lợi vô cùng to lớn” và “có thắng
lợi này là nhờ Đảng và Chính phủ ta có chính sách đúng đắn”.
Ông viết tiếp:
“Cải cách ruộng đất là một cuộc đấu tranh giai cấp chống phong kiến, một
cuộc cách mạng long trời lở đất, quyết liệt gay go.
Lại vì kẻ địch phá hoại
điên cuồng; vì một số cán bộ ta chưa nắm vững chính sách, chưa thực đi đúng
đường lối quần chúng; vì sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ có
chỗ thiếu cụ thể, thiếu kiểm tra đôn đốc, cho nên khi CCRĐ đã xảy ra những
khuyết điểm sai lầm” (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7, trang 507). Riêng việc
“kẻ địch phá hoại điên cuồng” đã được ông giải thích như sau: “Như con giun không biết nhảy, khi
ta giẫm lên nó, nó cũng giãy trước khi chết. Giai cấp địa chủ cũng thế.”
(Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7, trang 358).
Vài năm sau, nhân kỷ niệm 30 năm
ngày thành lập ĐCSVN, 6/1/1960, Hồ Chí Minh lại gắn liền cuộc kháng chiến
chống Pháp và cuộc CCRĐ, ông tuyên bố: “Buổi
đầu kháng chiến, Đảng vẫn tiếp tục thực hiện chính sách giảm tô, giảm tức.
Nhưng đến lúc kháng chiến đã phát triển mạnh, cần phải bồi dưỡng hơn nữa
lực lượng nhân dân, chủ yếu là nông dân thì Đảng đã cương quyết phát động
quần chúng cải cách ruộng đất hoàn thành thực hiện người cày có ruộng. Nhờ
chính sách đúng đắn này, lực lượng kháng chiến ngày càng mạnh thêm và đã
liên tục thu được nhiều thắng lợi” (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập
8, trang 596).
Hồ Chí Minh đã hiểu rõ nguyện
vọng của dân tộc là độc lập, tự do, dân chủ, hạnh phúc, của người nông dân
là người cày có ruộng … Trong điều 12, Hiến pháp 1946, còn được gọi là
“Hiến pháp Cụ Hồ” vì ông là trưởng ban soạn thảo Hiến pháp, đã xác định:
“Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm”. CCRĐ chẳng những
vi hiến, nó còn là một tội ác với số nạn nhân chưa thể hay không bao giờ có
thể tính được.
Hồ Chí Minh đã lợi dụng các khao khát, các ước vọng của
người dân để xây dựng quyền lực cho ông và cho ĐCS Việt Nam.
CCRĐ không phải chỉ tàn sát
những thường dân vô tội. Nó còn phá hoại những truyền thống tốt đẹp, phá
hoại đạo lý luân thường, phá hoại tâm linh văn hoá của dân tộc Việt Nam
(xin xem Nguyễn Minh Cần). Quả lời ông Vũ Đình Huỳnh “…
khẳng định người chịu trách
nhiệm chính là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải là Trường Chinh. Trường
Chinh chỉ là con dê tế thần cho ông Hồ” là hoàn toàn chính xác.
Bài viết này mong làm sáng tỏ,
làm minh bạch một phần của quá khứ, không phải để gợi lại hận thù, mà để
xây dựng con đường đi tới tránh xa những tội ác mà người đi trước như Hồ
Chí Minh đã mắc phải.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
5/7/2010
Tài liệu tham khảo
C.B., Phát động quần chúng và
tăng gia sản xuất, Báo Nhân Dân, 1955
Đoàn Duy Thành, Làm người rất khó, làm người xã hội chủ nghĩa khó hơn
Hoàng Tùng, Những kỷ niệm về Bác Hồ, Điện thơ Câu lạc bộ Dân Chủ
Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, Bản dịch của Mạc Định,
Nhà xuất
bản Chân Trời Mới, Sài Gòn, 1964
Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả
Thanh Cần, Tội ác bóc lột địa tô của giai cấp địa chủ,
Nhà xuất bản Sự
Thật, 1955
Thành Tín, Mặt thật
Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc hội, Văn Nghệ California, USA, 1997
Nguyễn Minh Cần, Xin đừng quên tội ác! … Nửa thế kỷ trước, CẢI CÁCH RUỘNG
ĐẤT TẠI MIỀN BẮC1949-1956, tập 2, Khối 8406 Tự do Dân chủ cho Việt Nam,
trang 67-86.
Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày
Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê Nin và Tư
tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 1995
Hồ Chí Minh Toàn tập, Viện Mác Lê Nin, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1989
Phụ lục
Ảnh chụp bài viết “Địa chủ ác ghê” từ nguồn: C.B., Phát động quần chúng và
tăng gia sản xuất, báo Nhân Dân, 1955
|
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment