Sunday, December 23, 2012

Tổ quốc nào? Lá Cờ nào?


                          Tổ quốc nào? Lá Cờ nào?

                                               Nguyễn Hội

 

Gần đây có nhiều tranh cãi về lá Cờ Tổ quốc. Người viết xin được góp ý từ đúc kết một số tài liệu thu nhận được.  Đầu tiên chúng ta cùng nhau giải thích ý nghĩa của Tổ quốc, sau đó đến phần so sánh những khác biệt giữa Tổ quốc XHCN, Tổ quốc Việt Nam cùng lá Cờ tiêu biểu. 

 

Định nghĩa Tổ quốc

 

Tổ có nghĩa là Tổ tiên Quốc là Đất nước. Tổ quốc có nghĩa là Đất nước của Tổ tiên  truyền lại. Tổ quốc tiếng Anh là Fatherland, tiếng Đức là Vaterland, dịch ngyên văn ra tiếng Việt là Đất nước của Cha. http://vi.wiktionary.org/ giải thíchTổ quốc là „
Đất nước, được bao đời trước xây dựng và để lại, trong quan hệ với những người dân có tình cảm gắn bó với nó.“.

Tình cảm với Tổ quốc  xuất phát từ mối liên hệ chủng tộc, họ hàng, bạn bè, láng giềng, người quen cùng kỷ niệm gắn bó.. Tình cảm với Tổ quốc, thường được gọi là tình yêu nước hay lòng ái quốc do đó không thể thiếu được ở một con người.

Nó chẳng khác gì tình yêu cha mẹ, con, cháu, anh chị em, tình yêu lứa đôi, tình yêu vợ chồng, tình bè bạn.

 

Cụm từ „Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa“ được xuất hiện sau khi Đảng Cộng sản giành được chính quyền. Tổ quốc này được Trung tướng GS, TS Nguyễn Tiến Bình giải thích như sau „Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười đã dẫn đến sự ra đời của Tổ quốc XHCN – một Tổ quốc kiểu mới trong lịch sử nhân loại được đặc trưng bởi chế độ xã hội XHCN, trong đó giai cấp công nhân và nhân dân lao động làm chủ xã hội đồng thời làm chủ Tổ quốc.[1]

 

Tổ quốc Xã Hội Chủ Nghĩa

 

Người Cộng sản chủ trương „muốn xây dựng Chủ nghĩa Xã hội phải có con người Xã hội chủ nghĩa“  nên họ đã khởi đầu công cuộc xây dựng con người XHCN tại miền Bắc bằng cuộc cải cách ruộng đất nhằm sự phá hủy mối quan hệ giữa con người với nhau trong xã hội Việt Nam đã được gầy dựng và duy trì qua nhiều đời bởi gia đình, gia tộc, bè bạn, láng giềng, xã hôi.
 
Họ khuyến khích Cha, Mẹ, con cái, họ hàng, láng giềng, bè bạn tố cáo lẫn nhau với chính quyền và trước công chúng. Tổng bí thư Đảng Cộng sản thời bấy giờ là Trường Chinh (Đặng Xuân Khu) đã nêu gương đi đầu qua cuộc đấu tố chính Cha Mẹ ruột của mình tại Nam Định.
 
Nền đạo đức mới, đạo đức giai cấp vô sản trên căn bản chủ nghĩa Marx, Lênin được đặt trên nền tảng bạo lực qui định lại mối quan hệ con người trong xã hội:

Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ

Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,

Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng

Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin…bất diệt.[2]

 

Xuân Diệu có lời lẽ nhẹ nhàng hơn nhưng cũng không kém tính sát máu:

 Địa hào đối lập ra tro

Lưng chừng phản động đến giờ tan xương

Thắp đuốc cho sáng khắp đường,

Thắp đưốc cho sáng đình làng đêm nay.

 Lôi cổ bọn nó ra đây

Bắt quỳ gục xuống, đọa đày chết thôi.[3]

 

Lời thơ Xuân Diệu đã bị nền văn hoá XHCN thay đổi hoàn toàn, còn đâu những vần thơ mà lứa tuổi „tập tành yêu“ bắt buộc phải thuộc làu và cho đến nay vẫn không thể nào quên được: 

Bữa nay lạnh mặt trời đi ngủ sớm,

Anh nhớ em, em hỡi ! Anh nhớ em .

Không gì buồn bằng những buổi chiều êm,

Mà ánh sáng đều hòa cùng bóng tối 2  …

 

Giám Mục phó giáo phận Hà Nội, Lê Đắc Trọng đã mô tả cuộc đấu tố trong thời kỳ cải cách ruộng đất tại miền Bắc trong tập hồi ký của Ngài như sau:

 

“… Vào phòng họp, đội dõng dạc tuyên bố: ‘Bà con nông dân đề cao cảnh giác, vì địch nó ngồi ở đằng sau ta…’.  Người ngồi sau run sợ…! Một lúc nữa, đội lại nói: ‘Bà con cảnh giác, địch nó ngồi ngay trước mặt ta‘. Ngồi trước ngồi sau đều là địch cả. Không còn biết chọn chỗ nào nên ngồi?  Sợ sệt và sợ sệt…!

Ai nấy ngồi yên chỗ, bắt đầu cuộc ‘đấu tố’. Tố cáo tội ác giai cấp bóc lột, đấu tranh đánh đổ giai cấp bóc lột đó. Mọi người bắt đầu cuộc kể khổ, để tố cáo tội ác của bọn địa chủ cường hào ác bá. Những tội ác được bịa đặt ra nhiều hơn và nặng nề hơn sự thật.

… Người nông dân thật thà chất phác, mấy ai nghĩ ra được cách tố cáo, tất cả đã được dậy bảo, được Đội ‘mớm’ cho trước…

Thế rồi đấu, đấu tranh với địa chủ, thì phải có khí thế, chưa quen thì phải tập. Chưa có ai xuất hiện để mà đấu, thì có thể dùng cái cột nhà thay thế. Bà con và nhất là các phụ nữ.

Giơ tay xỉa xói vào cái cột nhà: ‘Mày đã cướp của tao, mày đã đốt nhà tao, mày đã đánh đập tao thật tàn bạo, tao khó nhọc làm giầu cho mày, mà mày cho tao ăn đói ăn khát…. Tất cả phải được nhuần nhuyễn, từ cử chỉ đến lời nói, để khi gặp ‘người thật’ không ngượng ngùng ái ngại.

Đến nỗi mà một người phụ nữ đứng tuổi, rất thương người cha già chị săn sóc hằng ngày. Chị nói với bố: ‘Ông có biết tôi là ai không?’. Người cha ngậm ngùi nhìn đứa con dứt ruột của mình và nói:: ‘Thưa bà, con là người đẻ ra bà ạ’.
 
Lời thưa não nùng thảm thương, nhưng phải hỏi cái sức ma quỉ nào đó đã thúc đẩy người con chất vấn người bố như thế? Cứ đó mà luận ra những người khởi xướng!” [4]

 

Không chỉ người lớn bị „mớm“ cách xử thế mới của nền đạo lý XHCN mà ngay cả con trẻ chưa tập nói cũng được  bị ép buộc phương cách giáo dục lạ lùng ngoại lai kiểu mới:

 

Sta-lin ! Sta-lin !

Yêu biết mấy, nghe con tập nói

Tiếng đầu lòng con gọi Sta-lin ![5]

 

Các nhà giáo dục cho rằng kiến thức và kinh nghiệm thu thập trong thời niên thiếu là nền tảng cho sự phát triển của một con người. Vì tuổi niên thiếu  là lứa tuổi con người chập chững bước vào ngưỡng cửa cuộc đời, hồn nhiên, mang và xây đắp  nhiều mộng ước cho cuộc sống mai sau.
 
Những ước mơ này sẽ là hành trang mang vào đời và niềm hạnh phúc nhất của đời người là thực hiện được những ước mơ được vun đắp từ thời niên thiếu. Dưới chế độ XHCN người thiếu niên được giáo dục mơ ước bạo lực, chiến tranh và căm thù:

 

Tuổi mười bốn những ước ao

Buổi đầu cầm súng biết bao là mừng

Mẹ ơi súng đẹp quá chừng4

 

Yêu thương là nền tảng hun đúc lên con người. Là trẻ con, các cháu được nuôi dưỡng bằng tình yêu thương của cha me, ông bà, anh chị, bè bạn. Qua thời niên thiếu, thanh niên, thanh nữ bước vào tình yêu đôi lứa rồi tiến đến tình yêu hôn nhân. Nhưng nền đạo lý XHCN buộc con người phải thay đổi định giá của tình yêu: 

 

Ông Sta-lin ơi ! Ông Sta-lin ơi !

Hỡi ơi Ông mất ! Đất trời có không ?

Thương cha thương mẹ thương chồng

Thương mình thương một thương Ông thương mười.4

 

XHCN không chỉ làm  thay đổi mối quan hệ giữa người với người trong xã hội mà còn phá hủy đi các di tích lịch sử của Tổ tiên bao đời để lại. GS Nguyễn Huệ Chi đã cho biết trong cuộc phỏng vấn của bà Thụy Khuê như sau:  

 

„Trong mấy chục năm đi điền dã để làm bộ Thơ văn Lý-Trần, chúng tôi đã thấy không biết bao nhiêu di tích bị phá một cách vô tội vạ, mà cái người chủ trương tàn phá, phải nói, hoặc là, biểu hiện của một thứ cực đoan không thể chấp nhận được; hoặc nữa là, có một sự thù hằn gì ghê gớm đối với lịch sử, hay cũng có thể là một tâm lý hách dịch đối với lịch sử.
 
 Cho nên họ đã đập phá tàn bạo, chẳng hạn như di tích nơi vua Trần Nhân Tông tịch ở am Ngọa Vân phía Tây núi Yên Tử (một ông vua anh hùng khoáng đạt như thế có tội tình gì để họ phá cho tan tành? Hay vì đã không "cực quyền" như họ?).
 
 Lại chẳng hạn như việc phá đình phá chùa trong chủ trương "hợp tự" năm 1948, đã làm mất đi bao nhiêu di tích văn hóa quý giá có từ lâu đời ở Nghệ-Tĩnh (cứ đối chiếu với cuốn sách Le vieux An-Tĩnh của một người Pháp tên là Le Breton ghi chép và chụp lại những di tích của xứ Nghệ trong những năm 30 thì biết rõ ngày nay cái nào mất cái nào còn hoặc hình thù của chúng đã bị biến dạng đến thế nào).
 
 Ấy thế mà việc đó lại được lặp lại với quy mô rộng rãi hơn rất nhiều ở hầu khắp miền Bắc trong những năm 60 thế kỷ XX.
 
Tôi còn nhớ là vào ngày 9 tháng 5 năm 1966, tôi đến thăm cụ Lê Thước, một học giả nổi tiếng sống ở gần chợ Hôm, thì gặp lúc nghệ sĩ nhiếp ảnh Nguyễn Bá Khoản cũng đến và ông ấy đã trình bày với cụ việc một ngôi đền thờ nữ tướng của Hai Bà Trưng ở Mai Động (tức là sát ngay Hà Nội, bây giờ đã thuộc về nội thành) đã bị Đảng bộ địa phương chỉ đạo đem hoành phi câu đối và cỗ kiệu ra đóng bàn ghế và xe phân cho hợp tác xã.
 
Ông Nguyễn Bá Khoản đã chụp trộm được mấy tấm ảnh và suýt nữa thì bị dân quân tự vệ bắt và tịch thu máy ảnh. Khi ông ấy đã chạy thoát rồi vẫn còn nghe vẳng đến lời ông Bí thư Đảng ủy: "Hãy bắt gông nó lại, tội vạ gì tôi chịu hết".
 
Ông Nguyễn Bá Khoản đã kể lại với tất cả cái thảng thốt và cái bất bình của mình. Tối hôm ấy, tôi có ghi vào nhật ký như sau: "Có thể có một thứ duy vật cuồng tín hoành hành trên đất nước ta đến thế hay sao?"[6] 

 

Đề cương văn hoá do chính TBT Đảng Trường Chinh biên soạn năm 1943 xác định những sự kiện xảy ra được nêu trên đây thuộc về chính sách của Đảng, nhằm dẫn nhập một nền văn hoá mới vào Việt Nam „nền văn hóa mà cuộc cách mạng văn hóa Đông-dương phải thực hiện sẽ là văn hóa xã hội chủ nghĩa.“.

 Để sự việc dẫn nhập văn hoá XHCN  được thành công, bước đầu tiên là phải xoá bỏ những tư tưởng đã ăn sâu và đã trở thành đạo lý của xã hội Việt Nam:

a) Tranh đấu về học thuyết, tư tưởng (đánh tan những quan niệm sai lầm của triết học Âu, á, có ít nhiều ảnh hưởng tai hại ở ta: triết học Khổng, Mạnh, Đềcác (Descartes), Bécsông (Bergson), Cǎng (Kant), Nítsơ (Niesche), v.v. ; làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng.

b) Tranh đấu về tông phái vǎn nghệ (chống chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa tượng trưng, v.v.) làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng.[7]

 

 

Lá cờ biểu tượng cho Tổ quốc XHCN và ý nghĩa

 

Biểu tượng cho Tổ quốc XHCN là lá cờ đỏ sao vàng. Lá cờ này ban đầu là hiệu kỳ của Việt Nam Độc lập Đồng minh, sau này trở thành quốc kỳ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và CHXHCN Việt Nam.
 
 Theo Tướng Võ Nguyên Giáp, hiệu kỳ này do Hồ Chí Minh mang về từ nước ngoài và được chính thức treo lần đầu tiên vào ngày "19/5/1941, lá cờ được treo giữa hang Pắc Bó, khai mạc Hội nghị thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội“ 8

 

Trong cuộc họp Quốc hội khóa I, các đại biểu của Việt quốc và Việt cách tỏ ý muốn thay đổi lá cờ Đỏ sao vàng vì lá cờ này mang sắc thái cờ Đảng cộng sản quốc tế chứ không mang tính chất Quốc gia Việt Nam thì ông Hồ Chí Minh nói: "Lá cờ đỏ sao vàng đã thấm máu đồng bào ta trong Nam Kỳ khởi nghĩa 1940.
 
Chính lá cờ này đã cùng phái đoàn Chính phủ đi từ châu Á sang châu Âu, từ châu Âu về châu Á; cờ đã có mặt trên khắp đất nước Việt Nam. Vậy thì trừ 25 triệu đồng bào, còn không ai có quyền thay đổi quốc kỳ và quốc ca".[8]

 

Ý nghĩa của lá Cờ Đỏ Sao Vàng được giải thích trên Wikipedia như sau:

„nền đỏ tượng trưng cho cách mạng, màu vàng là màu truyền thống tượng trưng cho dân tộc Việt Nam, và năm cánh sao tượng trưng cho năm tầng lớp sĩ,nông, công, thương, binh cùng đoàn kết.
 
Tuy nhiên, cũng có ý kiến khác cho rằng màu đỏ nền cờ tượng trưng dòng máu đỏ, màu vàng ngôi sao tượng trưng da vàng, và năm cánh tượng trưng cho sự đoàn kết các tầng lớp bao gồm sĩ, nông, công, thương,binh trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.“[9]

 

Trên thực tế, cờ các nước Cộng sản thường mầu đỏ và có sao vàng hoặc búa liềm. Wikipedia phân tích cờ các nước Cộng sàn trước kia và cho biết cờ các nước Cộng sản thường có những biểu tượng sau đây của lá cờ Liên Xô:

-       Nền cờ mang mầu đỏ

-       Ngôi sao vàng trên nền đỏ, hoặc ngược lại là ngôi sao đỏ

-       Búa và liềm

 

Lá cờ Liên sô (cho tới năm 1991) được trang tự điển các lá cờ giải thích như sau:

„Cây búa thể hiện cho công nhân (giai cấp vô sản), cái liềm thể hiện cho nông dân, ngôi sao cho sự thống nhất của mọi người dân của tất cả các quốc gia trên năm lục địa cùng đeo đuổi chủ nghĩa cộng sản.

Tất cả các lá cờ đỏ cộng sản trên thế giới có nguồn gốc từ lá cờ đỏ được sử dụng trong cuộc Cách mạng Pháp năm 1789 và Công xã Paris 1870/1871. Nguồn gốc chính là từ những lá cờ máu của tòa án máu thời trung cổ.“[10]

 

Cờ Liên sô

 

Cờ quyết thắng của Hồng quân Liên sô (Nguồn: Wikipedia)

 

Tổ quốc Việt Nam

 

Theo các nhà khảo cổ, trên mảnh đất Việt Nam loài người đã sinh sống từ thời đồ đá cũ, tức là hàng vạn năm trước công nguyên. Chính quyền đầu tiên được hình thành  tại Việt Nam vào các thời kỳ Hồng Bàng  (2879 TCN), nghĩa là trước đây gần 5000 năm.

 Ngay từ buổi đầu lập Quốc, xã hội Việt Nam được gầy dựng trên căn bản làng xã. Gia đình, gia tộc là đơn vị căn bản có trách nhiệm rèn luyện, giáo dục thành viên của xã hội, luôn đóng vai trò quan trong trong cơ cấu làng xã, cơ cấu xã hội.
 
Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình cũng như trong làng xã được qui định và luôn được duy trì tốt đẹp:

 

„Cả trong ngoài cùng là đàn cháu,

Xem như con yêu dấu chẳng sai,

Đồng quà, tấm bánh hôm mai,

Chớ điều dằn vật, chớ lời gieo đanh.

Từ họ mạc, láng giềng, hàng xóm,

Cũng ở cho trong ấm ngoài êm,

Tiếng chào, tiếng hỏi cho mềm,

Chẳng khinh ai cũng chẳng hiềm oán ai.”9

 

Người Việt Nam luôn hiếu hoà nhưng lại rất kiên cường, không chịu khuất phục kẻ thù cho dù chúng rất lớn mạnh và hung tàn. Tính chất này đã được lịch sử chứng minh qua Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Hội Nghị Diên Hồng, Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Huệ, Lê Lợi vv…
 
Mỗi lần đánh đuổi được giặc, Tổ tiên chúng ta đều cho Sứ thần sang triều cống Bắc triều nhằm bày tỏ thiện chí hiếu hoà. Nền văn hoá Dân tộc Việt Nam là một nền văn hoá thuần lương,  hướng thiện, dựa hoàn toàn trên nền tảng Nhân Nghĩa.
 
 Một nền văn hoá dậy con người biết yêu thương con người, nhận biết được điều phải, điều trái và luôn hành động vì lẽ phải, hành động vì con người và cho con người:

 

“Lấy điều ăn ở dạy con,

Dẫu mà gặp tiết nước non chuyền vần.

Ở cho có đức có nhân,

Mới mong đời trị được ăn lộc trời.


Thương người như thể thương thân,

Ở lòng nhân nghĩa cho đầy mới khôn.”[11]

 

Nhân Nghĩa không những chỉ để dậy con cháu, cư xử trong đời sống xã hội, Tổ tiên chúng ta còn khuyên dậy là dùng Nhân Nghĩa để chinh phục hung tàn và thay thế cho bạo cường nhằm giúp đỡ những kẻ gian ác tìm về được nẻo chính:

 

“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo.”[12]

 

Yêu thương không chỉ được dậy dỗ khi con trẻ đã lớn mà ngay khi chúng còn nằm trong nôi. Do đó người Việt Nam rất gắn bó với gia đình, gia tộc. Từ tình yêu căn bản này người dân nước Việt được hun đúc và hành xử trên căn bản Nhân và Nghĩa:

À ...á…à… ơi !

Con cò đi đón cơn mưa

Tối tăm mù mịt ai đưa cò về

Cò về thăm quán thăm quê

Thăm cha thăm mẹ, cò về thăm em.

À…á…à…ơi!

 

Lá cờ tiêu biểu cho Tổ quốc Việt Nam

 

Tự điển Wikipedia giải thích ý nghĩa của lá Cờ trong các triều đại Hoàng Đế Việt Nam như sau:

 

Tại Việt Nam trước đây các nhà cầm quyền đã có các hiệu kỳ thường mang màu phù hợp với "mạng" theo ngũ hành : người mạngkim thì cờ màu trắng, người mạng mộc mang màu xanh, mạng thủy thì màu đen, người mạng hỏa treo cờ màu đỏ, người mạng thổdùng cờ màu vàng.
 
Màu cờ của các triều đại thì được chọn theo thuyết của học phái Âm Dương Gia nhằm giúp triều đại hợp với một hành đang hưng vượng. Ngoài cờ của triều đại, các nhà vua đều có thể có lá cờ riêng, chỉ để biểu tượng cho hoàng gia.[13]

 

Đại Nam Quốc Sử diễn ca cho biết, trong thời Bắc thuộc Bà Triệu đã dùng cờ Vàng chống lại quân phương Bắc:

“Đầu voi phất ngọn cờ vàng,

Sơn thôn mấy cõi chiến trường xông pha.

Chông gai một cuộc quan hà ,

Dù khi chiến tử còn là hiển linh.[14]

 

Lịch sử Trung Quốc đã tìm mọi cách bôi nhọ Bà Triệu. Sách Giao Chỉ ghi:

“Trong núi ở quận Cửu Chân có người con gái họ Triệu, vú dài ba thước, không lấy chồng, họp đảng cướp bóc các quận, huyện, thường mặc áo ngắn màu vàng, chân đi giày mũi cong, ngồi đầu voi mà chiến đấu, sau chết làm thần” [15]

 

Từ khi giành được quyền tự chủ sau thời kỳ Bắc thuộc, các vương triều nhà Ngô, nhà Đinh, nhà Tiền Lê, nhà Lý, nhà Trần, nhà Hồ, nhà Hậu Lê đều dùng hiệu kỳ màu vàng. Vua Gia Long (1802-1820) cũng dùng màu vàng cho là cờ tiêu biểu của vương triều mình.[16]

 

Kết luận

 

Những điều nêu trên cho thấy tính chất của Tổ Quốc Việt Nam và của Tổ quốc Xã hội Chủ nghĩa hoàn toàn khác biệt. Tổ quốc Việt Nam được gầy dựng trên nền tảng đạo lý của Tổ tiên chúng ta là Nhân Nghĩa.
 
Tổ quốc XHCN được xây dựng bằng chủ Nghĩa Marx-Lênin, mang tính chất đấu tranh sát máu và vô thần. Tiêu biểu cho Tổ quốc XHCN Việt Nam là cờ Đỏ Sao Vàng. Tiêu biểu cho Tổ quốc Việt Nam là Cờ nền Vàng. Lá cờ nền Vàng của Dân tộc Việt Nam thay đổi qua nhiều thời kỳ.
 
 Năm 1948 vị Vua cuối cùng của Việt Nam là Bảo Đại (lúc đó là Quốc trưởng) cho thiết lập lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ vừa mang tính chất cổ truyền của bao thời đại để lại là nền Vàng, sọc Đỏ, vừa mang tính chất thực tại là nước Việt Nam bị thực dân phân chia ra làm ba miền để chúng dễ cai trị.

 

Lá cờ Vàng do đó không phải tiêu biểu riêng cho Viêt Nam Cộng Hoà (VNCH) mà chính là di sản của Tiền nhân chúng ta để lại mà mọi con dân Việt phải có trách nhiệm yêu mến và bảo vệ.

 

Cờ Vàng còn thì còn Dân Tộc Việt! Đó là lý do tại sao nhà cầm quyền tay sai Tàu hiện nay tìm mọi cách tiêu diệt lá Cờ Vàng.

 

Có thể trong quá khứ có nhiều con dân nước Việt vì lý do này hay lý do khác chống lại chính phủ  Viêt Nam Cộng Hoà. Chống lại chính phủ VNCH không đồng nghĩa là chống lại lá Cờ Vàng. Hành động chống lại di sản của Tiền Nhân chúng ta đã bao đời đổ máu đánh đuổi ngoại xâm, trong đó có giặc Tàu tức là chống lại Dân Tộc Việt Nam.

 

Nguyễn Hội

Tháng 12 năm 2012

 









[1] Nguyễn Tiến Bình: Cách mạng Tháng Mười và một số vấn đề chiến lược bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,  http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=18587&print=true

[2] Trên mạng Internet cho là thơ của Tố Hữu.

[3] Thơ Xuân Diệu

[4] Giám mục Ngô Đắc Trọng: Chứng từ của một Giám mục, trang 381-382

[5] Thơ Tố Hữu

[6] Thụy Khuê trò chuyện với giáo sư Nguyễn Huệ Chi vào tháng 7 năm 2005: Về tình trạng nghiên cứu văn học tại miền Bắc những năm 60

[7] Trường Chinh: Đề Cương về Văn hóa Việt-nam (1943)

[8] Theo Wikipedia

[9] Theo Wikipedia


[11] Nguyễn Trãi: Gia Huấn Ca

[12] Nguyễn Trãi: Bình Ngô Đại Cáo


[14] Đại Nam Quốc Sử diễn ca



 


ĐIẾC KHÔNG SỢ SÚNG!

Phải nói ông Khach Quan Tran nầy là dân “điếc không sợ súng”, nói bừa, nói lấyđược, bất chấp sự thật và lẽ phải.

SỰ THẬT lá cờ ĐỎ là cờ NÔ LỆ cho bọn CỘNG SẢN Quốc tế. Đây là bằng chứng :

1.- Lá cờ Đỏ rập khuôn cờ Nga và Tàu.

2.- Trong khi 2 quan thầy Nga và Tàu tranh chấp nhau, CS Hànội chạy theo làm NÔ LỆ cho Nga, bị Tàu “dạy cho một bài học”năm 1979.

3.- Thế nhưng, năm 1990 toàn khối CS Liên xô sụp đổ. CS Hànội bị mồ côi…lại phải quay ra gục mặt cúi đầu lạy lục Trung Cộng để xin trở lại làm tên NÔ LỆ hèn hạ ! Bị bọn Tàu làm nhục không cho phái đoàn triều kiến CS Hànội đi bằng máy bay… mà phải đáp xe lửa tới Bắc Kinh !

Nhục ôi là nhục ! Chỉ có bọn NÔ LỆ mới chịu nhục như thế !

4.- Nếu lá cờ Đỏ có chánh nghĩa sao lại cắt đất dâng biển cho Tàu ? Đó là BẢN CHẤT NÔ LỆ của tập đoàn CS Hànội.

5.- Theo tin tiết lộ, Việt Cộng và Trung Cộng đã có thoả thuận ngầm từng bước thống nhứt hai nước làm một… Nhưng vì muốn che mắt nhân dân trong nước và che mắt quốc tế, CS Hànội cố ý cắt đất và biển cho Tàu, để Tàu đưa Quân tới chiếmđóng, đề phòng nhân dân trong nước nổi dậy… Đồng thời để cho TC có thể ra tay cứu VN nếu có quốc gia nào can thiệp !

Đúng quá rồi chứ còn gì nữa ???

Đã là NÔ LỆ thì làm gì có ĐỘC LẬP và CHÁNH NGHĨA chứ !?(Sic !)

GÓP GIÓ

  
-----------------------------
 


From: Khach-Quan Tran <
: Sunday, December 23, 2012 2:13 AM
Subject: LÁ CỜ : CHÍNH NGHĨA

CHÍNH NGHĨA CỦA MỘT LÁ CỜ !
 
 Tại sao người viết nói rằng lá Cờ vàng ba sọc đỏ xuất hiện năm 1948 chứ không phải 1954 khi đất nước bị chia hai ?
 

(Trích lý lẽ bảo vệ chính nghĩa một lá cờ, “sử gia” Trần Gia Phụng, Toronto 04-04-2009)

 
Nói như thế, “sử gia” Trần đã tính đến sự thực này chưa cho sự xuất hiện và tồn tại của lá cờ vàng 3 sọc đỏ ? :  Ấy là, từ 1948 đến 1954,  cai trị Việt Nam VẪN LÀ THỰC DÂN PHÁP; do đó, lá cờ 3 sọc xuất hiện và tồn tại là do ý muốn của thực dân Pháp.
 

   Tính cho đến nay, tất cả các lý lẽ biện minh cho “chính nghĩa của lá cờ vàng 3 sọc đỏ” của những người tự nhận là “sử gia”, luật gia, tiến sĩ, nhà báo, nhà văn, nhà thơ, v.v… đều xoay quanh và chứa đựng những ý nghĩa chung như sau :

Ø  Cải biến từ lá cờ “Quẻ Ly”
       

Ø  Do thực dân Pháp ra lệnh thực hiện và chuẩn thuận cho sử dụng. Từ lúc đó, lá cờ đã được sử dụng qua nhiều “chính quyền quốc gia”.
 

Ø  Các sử liệu do chính những người biện minh cho lá cờ 3 sọc đều nói rằng, các “chính quyền quốc gia” đã thực hiện và sử dụng lá cờ vàng 3 sọc đỏ đều là những chính quyền bù nhìn, tay sai và nô lệ cho các đế quốc liên tiếp nhau Nhật, Pháp, Mỹ.
 

   Tất nhiên, các thế hệ con cháu mai sau của chúng ta sẽ rất khôn và sẽ dễ dàng biết hết những sự thực bẽ bàng trên đây . Bởi những lẽ đó,  cái nghĩa chính của lá cờ vàng 3 sọc đỏ ấy  là lá cờ của nô lệ và ô nhục.
 

(Chỉ có thể phản bác điều ô nhục này khi và chỉ khi nào chứng minh được rằng, các “chính quyền quốc gia” Bảo Đại, Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Xuân, Ngô Đình Diệm, v.v… là những chính quyền độc lập và không phải là bù nhìn tay sai của các đế quốc)
 

   Nên nhớ, các thế hệ con cháu mai sau của chúng ta sẽ rất khôn, sẽ biết hết sự thực và sẽ phán xét những kẻ đã và đang tiếp tục làm ô nhục Tổ Quốc.
 
   Khách Quan.
 

Đọc thêm tham khảo :        
 

 Wednesday, December 5, 2012 10:47 AM

From: "Khach-Quan Tran" <

 

“Nước Pháp đô hộ VN gần 100 năm. Cho tới năm 1948, người Pháp mới chịu trao trả độc lập cho VN tuy vẫn nằm trong khuôn khổ Liên Hiệp Pháp. Dù rằng đó là một nền độc lập giả tạo. Nhưng bề ngoài, Việt Nam đã là một nước độc lập thống nhứt 3 miền và có lá cờ riêng Vàng 3 Sọc Đỏ.
 
Lá cờ vàng 3 sọc đã được Hội Đồng Xét Duyệt tuyển chọn công khai qua một cuộc thi vẽ, được báo chí cả nước hưởng ứng nồng nhiệt. Và cuối cùng đã được Quốc Trưởng Bảo Đại chuẩn thuận. Như vậy là hoàn toàn hợp pháp.
 
Dù muốn hay không, lá cờ Vàng 3 sọc đỏ cũng vẫn là lá cờ độc lập đầu tiên của “Quốc Gia Việt Nam(État du Việt Nam). Vua Bảo Đại chuẩn thuận, không có nghĩa đó là lá cờ riêng của Vua Bảo Đại. ...
 

Tại sao 2 ông Long và Ngọc lại cho là lá cờ NÔ LỆ ?”

(Trích lý luận bảo vệ chính nghĩa của một lá cờ)

   Có lẽ, con cháu mai sau của chúng ta sẽ cười vỡ bụng về loại lý luận dởm đời này. Cười xong, có thể chúng sẽ “ĐM” cho đỡ tức vì tại sao cha ông của chúng lại có thể “xuẩn” đến như thế.
 

   Độc lập giả tạo mà cũng gọi là độc lập được à ? Giả là giả, thật là thật, có ngu hết cỡ mới coi giả là thật ! Louis Vuiton giả có 30 đô la mà đòi coi như Louis Vuiton thật 3,000 đô la ! Đồ …dởm !
       

   Hơn nữa, con cháu chúng ta sẽ rất khôn, sẽ biết rõ tụi thực dân Pháp còn đóng quân ở VN cho đến ít nhất là khi thua đậm ở Điện Biên Phủ năm 1954. Chúng sẽ hỏi, độc lập gì mà họng súng với lưỡi lê của ngoại nhân Pháp luôn kề cổ họng thì độc lập cái nỗi gì ?
 
Cái ông vua Bảo Đại có dám không tuân lệnh tụi thực dân Pháp không nếu không muốn bị bắt đi tù đày như các ông vua cố tổ Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân ?
 
Con cháu chúng ta sẽ biết chắc, cái ông vua Bảo Đại phải nhũn ra vâng dạ tụi thực dân. Như vậy, là nô lệ, là thuộc địa rõ như ban ngày, thế mà còn không biết, thảo nào mà các cụ chả để cho đất nước hết nô thuộc ngoại nhân này đến ngoại nhân khác.
 

   Lý luận như vậy, lá cờ của “giả độc lập” phải đúng là lá cờ của nô lệ chứ còn chạy đi đâu nữa.
 

   (Hãy lý luận kiểu khác đi; lý luận kiểu này lủng rồi, bể rồi; biết không !)
 
   Khách Quan.

 


=============================================
 
--- On Tue, 12/18/12, hung vu <

LÁ CỜ CHÍNH NGHĨA

» Tác giả: Trần Gia Phụng »
Dịch giả: » Thể lọai: Điểm nóng
» Số lần xem: 15533
 



 
         
 
 
 
1. Bài I
 
Lời người viết:  Sau khi bài “Mặt trời không bao giờ lặn bên trên lá Cờ vàng ba sọc đỏ” trên lá Cờ vàng ba sọc đỏ” được đăng trên báo và đưa lên web, có một độc giả tự xưng là du học sinh Việt Nam gởi e-mail cho người viết và đưa ra hai câu hỏi:
 
1) Tại sao người viết nói rằng lá Cờ vàng ba sọc đỏ xuất hiện năm 1948 chứ không phải 1954 khi đất nước bị chia hai?
 
2)...Nếu người viết bảo rằng lá Cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ chính nghĩa thì người viết giải thích như thế nào về biến cố 1975?
 
 
  Xin cảm ơn anh du học sinh đã đặt câu hỏi. Sau đây là bài trả lời câu hỏi thứ nhất. Tôi sẽ trả lời câu hỏi thứ hai trong số báo sau.
 
1.-   HOÀN CẢNH LỊCH SỬ
 
Năm 1945, sau thế chiến thứ hai, Hồ Chí Minh và mặt trận Việt Minh (VM), một tổ chức ngoại vi của đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD), nhanh tay chiếm được chính quyền.  Vua Bảo Đại (trị vì 1925-1945) quyết định thoái vị và trao quyền lại cho mặt trận VM.  Ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và ra mắt chính phủ lâm thời, chọn cờ của mặt trận VM là Cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ.
 
Không đầy mười ngày sau, trung ương đảng CSĐD họp tại Hà Nội ngày 11-9-1945 đưa ra chủ trương VM độc quyền cai trị đất nước. (Philippe Devillers, Histoire du Viet-Nam de 1940 à 1952, Paris: Éditions du Seuil, 1952, tr. 143.) [Về sau, đảng Cộng Sản Việt Nam tiếp tục việc nầy qua điều 4 hiến pháp năm 1992.] 
 
Để bảo đảm độc tôn quyền lực, về đối nội, VM thực hiện kế hoạch mà VM gọi là “giết tiềm lực” hay “tiêu diệt tiềm lực”, tức là tiêu diệt tất cả các đảng phái và tất cả các thành phần theo chủ nghĩa dân tộc, tất cả những người có khả năng nhưng không cộng tác với VM, có thể nguy hiểm cho VM hay trở thành đối thủ của VM trong tương lai.
 
Về đối ngoại, VM nhượng bộ các lực lượng nước ngoài để rảnh tay đối phó với các lực lượng đối kháng trong nước, nhằm duy trì việc độc quyền chính trị.  Khi Pháp gởi lực lượng, theo quân Anh tái chiếm miền Nam, rồi tiến ra Bắc nhằm thay thế quân Trung Hoa Quốc Dân Đảng, VM liên tục nhượng bộ. 
 
 Thấy VM yếu kém, ngày 18-12-1946, Pháp buộc VM phải giao quyền kiểm soát an ninh Hà Nội cho Pháp.  Hồ Chí Minh họp trung ương đảng CSĐD tại Vạn Phúc (Hà Nội) trong hai ngày 18 và 19-12-1946, quyết định bất ngờ tấn công Pháp tối 19-12-1946. (Một nhóm tác giả, Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Hà Nội: Nxb.
 
 Quân Đội Nhân Dân, 2004, tt. 503-504.)  Không thể để Pháp bắt và cũng không thể bỏ trốn nhục nhã, quyết định của hội nghị Vạn Phúc nhằm tạo cơ hội cho các nhà lãnh đạo VM và đảng CSĐD thoát thân ra khỏi Hà Nội một cách chính thức.  Thế là chiến tranh không tuyên chiến xảy ra.
 
Trong khi chiến tranh tiếp diễn, VM tiếp tục chủ trương “giết tiềm lực”.  Trong các năm 1945, 1946, 1947 trên toàn quốc, VM giết khoảng 100,000 người ở tất cả các cấp từ trung ương xuống tới địa phương làng xã.  Đứng đầu danh sách nầy là những nhân vật như Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Huỳnh Phú Sổ, Trương Tử Anh …
 
Vì bản năng sinh tồn, những người theo chủ nghĩa dân tộc không cộng sản phải trốn tránh, bỏ ra nước ngoài, hoặc phải đến sinh sống tại vùng do Pháp tái chiếm khi Pháp trở lại Đông Dương, hay chẳng đặng đừng cộng tác với Pháp để thành lập tổ chức hành chánh địa phương tạm thời do Pháp bảo trợ, chống lại VM.
 
Ở Nam Kỳ, chính phủ Cộng hòa Lâm thời Nam Kỳ được thành lập tháng 6-1946, đổi thành chính phủ Nam Kỳ tự trị tháng 2-1947.  Cũng trong tháng 2-1947, Pháp thành lập Hội đồng chấp chánh lâm thời Trung Kỳ tại Huế. 
 
 Ra tới Hà Nội, Pháp thành lập Uỷ ban Lâm thời Hành chánh và Xã hội, còn được gọi là Hội đồng An dân tháng 5-1947. Tháng 10-1947, ông Nguyễn Văn Xuân, thiếu tướng trong quân đội Pháp, đã từng được Hồ Chí Minh cử làm quốc vụ khanh trong chính phủ VNDCCH ngày 2-9-1945, đứng ra thành lập chính phủ lâm thời Nam Kỳ.
 
Việt Minh kết án chung tất cả các tổ chức nầy là Việt gian, tay sai thực dân Pháp.  Tuy nhiên nếu những người nầy không hợp tác với Pháp để chống VM cộng sản, bảo toàn sinh mạng của chính họ, thì không lẽ họ ngồi yên để chờ đợi VM tới bắt giết, như đã từng bắt giết Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi?
 
Nếu Nguyễn Văn Xuân, một tướng lãnh trong quân đội Pháp, là tay sai của thực dân Pháp, thì tại sao Hồ Chí Minh lại cử làm quốc vụ khanh trong chính phủ của Hồ Chí Minh?
 
2.-   CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ XUẤT HIỆN
 
Trong khi đó, trong một chuyến công du cho chính phủ VM qua Trung Hoa tháng 3-1946, theo lời cựu hoàng Bảo Đại, cố vấn chính phủ VM, ông bị phái đoàn VM bỏ rơi ở lại Côn Minh (Kunming) tháng 4-1946. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, California: Nxb.
 
Xuân Thu, 1990, tr. 242.)  Cựu hoàng tự ý thức rằng VM bỏ rơi ông có nghĩa là VM không còn cần đến ông nữa, nên cựu hoàng bắt đầu tách ra khỏi chính phủ VM, qua trú ngụ ở Hồng Kông.  
 
Các lãnh tụ trong các tổ chức hay đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc dần dần tập họp chung quanh cựu hoàng Bảo Đại, yêu cầu cựu hoàng ra cầm quyền trở lại, nhằm tranh đấu giành độc lập và thống nhất đất nước.
 
Về phía Pháp, sau một thời gian thương thuyết với VM nhưng thất bại, Pháp thay đổi chính sách từ tháng 9-1947, quay qua thương thuyết với cựu hoàng Bảo Đại để tìm một giải pháp mới.  
 
Cao uỷ Pháp tại Đông Dương là Émile Bollaert gặp cựu hoàng Bảo Đại trên một chiếc tàu thả neo ở vịnh Hạ Long ngày 6-12-1947.  
 
Hai bên đồng ký bản thông cáo chung theo đó Pháp hứa trao trả độc lập cho Việt Nam và ngược lại Việt Nam hứa sẽ cộng tác và ưu tiên sử dụng chuyên viên Pháp trong công cuộc kiến thiết đất nước.
 
Sau cuộc nói chuyện sơ khởi trên đây, Bảo Đại qua Pháp tiếp tục vận động.  Để tạo cơ chế hành chánh chung có thể nói chuyện với Pháp, khi trở về lại Hồng Kông, cựu hoàng uỷ cho Nguyễn Văn Xuân lập chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam.  Nguyễn Văn Xuân được Hội nghị các giới cầm quyền do Pháp bảo trợ và đại diện các đoàn thể, các đảng phái tại ba miền Bắc Trung, Nam Việt Nam, họp tại Sài Gòn ngày 20-5-1948, đồng ý ủng hộ làm thủ tướng. 
 
Ngày 1-6-1948 Nguyễn Văn Xuân chính thức công bố chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam gồm đầy đủ đại diện Bắc, Trung và Nam Việt Nam. 
 
 Hôm sau, 2-6-1948, thủ tướng Nguyễn Văn Xuân công bố “Pháp quy lâm thời” (Statut provisoire), quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ ở giữa, quốc ca là bài “Tiếng gọi sinh viên”, sau đổi là “Tiếng gọi thanh niên” của Lưu Hữu Phước.
 
Khi chuẩn bị lập chính phủ, Nguyễn Văn Xuân đã cho trưng cầu ý kiến về việc chọn quốc kỳ.  Lúc đó có năm lá cờ được đề nghị để chọn làm quốc kỳ, gồm có ba lá cờ do uỷ ban đại diện ba miền Bắc, Trung và Nam phần đưa ra, và hai lá cờ do đại diện Phật Giáo Hòa Hảo và đạo Cao Đài đề nghị.  Cuối cùng lá cờ do đại diện miền Nam đề nghị được chấp thuận vì có ý nghĩa nhất, lại không phức tạp, dễ thực hiện.
 
Quốc kỳ mới do thủ tướng Nguyễn Văn Xuân công bố hình chữ nhật, chiều cao bằng hai phần ba chiều ngang, nền vàng giống như cờ của Trần Trọng Kim, nhưng thay vì quẻ ly, nay đổi lại ba sọc đỏ bằng nhau, chạy dài theo chiều ngang của lá cờ. 
 
 Chiều cao chia thành 3 phần bằng nhau.  Ở phần giữa, ba sọc đỏ nằm xen kẻ với hai sọc vàng, tất cả năm sọc đều bằng nhau. 
 
Ngày 8-3-1949 cựu hoàng Bảo Đại ký với tổng thống Pháp là Vincent Auriol hiệp định Élysée, tại Paris, theo đó chính phủ Pháp chính thức giải kết hòa ước bảo hộ năm 1884, Việt Nam độc lập trong Liên Hiệp Pháp. 
 
 Sau những thủ tục pháp lý đưa Nam Kỳ, vốn là thuộc địa của Pháp, sáp nhập trở lại vào lãnh thổ Việt Nam, nghĩa là đất nước được thống nhất, Bảo Đại trở về Việt Nam lập chính thể Quốc Gia Việt Nam do ông làm quốc trưởng cuối tháng 4-1949.
 
Lúc đó, trên đất nước Việt Nam có hai chính phủ.  Chính phủ QGVN ở các thành phố và vùng nông thôn phụ cận.  Chính phủ VNDCCH ở núi cao, rừng sâu và bưng biền. 
 
 Khu vực cai trị của hai bên không có giới tuyến rõ rệt.  Hai chính phủ theo hai đường lối hoàn toàn đối kháng nhau. 
 
 Chính phủ QGVN chủ trương tự do dân chủ, đa đảng tuy có phần hạn chế vì chiến tranh, và dựa trên nền tảng văn hóa dân tộc.  Chính phủ VNDCCH chủ trương độc tài toàn trị, độc đảng và dựa trên nền văn hóa Mác-xít.  
 
Hai chính phủ được tượng trưng bằng hai lá cờ cũng đối nghịch nhau: Cờ vàng ba sọc đỏ và Cờ đỏ sao vàng.
 
Về phía QGVN, do đặc trính tự do dân chủ, nhiều chính phủ kế tiếp nhau cầm quyền.  Cuối cùng, năm 1954 quốc trưởng Bảo Đại cử Ngô Đình Diệm lập chính phủ.  Ngô Đình Diệm chính thức chấp chánh từ ngày 7-7-1954 (ngày Song thất).  Hai tuần sau, hiệp định Genève được ký kết ngày 20-7-1954, chia hai nước Việt Nam ở sông Bến Hải (vĩ tuyến 17), VNDCCH ở phía bắc và QGVN ở phía nam. 
 
Ông Diệm ổn định tình hình miền Nam, tổ chức trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955, thiết lập chế độ Việt Nam Cộng Hòa do ông làm tổng thống ngày 26-10-1955.  
 
Quốc hội lập hiến được bầu ngày 4-3-1956, bàn chuyện thay đổi quốc kỳ và quốc ca, nhưng chưa có mẫu vẽ quốc kỳ mới nào ưng ý hơn, nên ngày 31-7-1956, Quốc hội ra quyết nghị hoãn bàn, và vẫn giữ quốc kỳ như cũ.
 
  Sau đó Quốc hội mở cuộc thi vẽ quốc kỳ mới; có tất cả 350 mẫu cờ và 50 bài nhạc được đề nghị.  Ngày 17-10-1956, Quốc hội lập hiến một lần nữa ra tuyên bố không chọn được mẫu quốc kỳ và bài hát  nào hay đẹp và ý nghĩa hơn, nên quyết định giữ nguyên màu cờ và quốc ca cũ làm biểu tượng quốc gia.  
 
Lá Cờ vàng ba sọc đỏ được miền Nam sử dụng cho đến năm 1975, khi cộng sản Bắc Việt, với sự hậu thuẫn của Quốc tế cộng sản, cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam ngày 30-4. 
 
Như thế, lá Cờ vàng ba sọc đỏ đã xuất hiện từ năm 1948 trên toàn quốc, chứ không phải chỉ xuất hiện sau năm 1954, ở miền Nam Việt Nam sau khi đất nước bị chia hai.  
 
Lá Cờ vàng ba sọc đỏ hoàn toàn đối nghịch với lá Cờ đỏ sao vàng chẳng những về màu sắc, nhưng quan trọng nhất đối nghịch cả về ý nghĩa chính trị. 
 
 Một bên, Cờ vàng ba sọc đỏ tượng trưng cho tự do dân chủ và dân tộc; một bên, Cờ đỏ sao vàng tượng trưng cho độc tài, đảng trị và quốc tế cộng sản.
 
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 04-04-2009)
 
Tội ác cuả đảng cộng sản Việt Nam
 

No comments:

Post a Comment

Thanks for your Comment

Featured Post

Bản Tin buổi sáng-12/11/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link