On Wednesday, February 19, 2014 10:21 PM, Quocviet V <> wrote:
Than huu
SAIGON2016comeback
Kinh chuyen tiep
Vào ngày 19:32 Thứ Tư, 19 tháng 2 2014, Hai Chuyen Xe Thu <> đã
viết:
Lê Mai - Một ngày và 35 năm
Thứ Hai, ngày 17 tháng 2
năm 2014
|
Henry
Kissinger (hình: internet)
|
MỘT NGÀY đầu tháng 7 năm
1971, Henry Kissinger – bấy giờ là cố vấn an ninh quốc gia bên cạnh Tổng thống
Hoa Kỳ, bí mật đáp phi cơ đi Trung Quốc nhằm chuẩn bị cho việc khai thông quan
hệ Trung – Mỹ. Ngoại giao bóng bàn trước đó đã dẫn đến chuyến đi này của ông
ta. Tới Pakistan, để giữ bí mật, ông ta cáo bệnh, lui về nơi nghỉ của Tổng
thống Pakistan Yahya Khan rồi sau đó lên phi cơ bay thẳng tới Bắc Kinh.
Mối
quan hệ mang tính thù địch giữa TQ và Hoa Kỳ đã kéo dài trên 20 năm. Quân đội hai
nước đã từng đối đầu nhau tại chiến trường Triều Tiên đẫm máu. Thập kỷ sáu mươi,
với cuộc cách mạng văn hóa long trời lở đất làm đất nước TQ kiệt quệ; lại thêm
mâu thuẫn với Liên Xô và Hoa Kỳ, căng thẳng với Đài Loan, có thể nói vị thế của
TQ yếu đi trông thấy.
Chính
vì vậy, Mao Trạch Đông quyết định đột phá quan hệ với Hoa Kỳ.
Trở
ngại của quan hệ Trung – Mỹ chủ yếu ở hai điểm: Sự khác biệt về chế độ xã hội và vấn đề Đài Loan. So sánh lực lượng chính trị nội bộ TQ, thái độ
đối với vấn đề Đài Loan và mối quan hệ Trung – Xô sẽ quyết định chiều hướng
phát triển của mối quan hệ Trung – Mỹ. Nếu quan hệ Trung – Xô thêm căng thẳng
thì sẽ thúc đẩy quan hệ Trung – Mỹ xích lại gần nhau. Theo chiến lược ngoại giao truyền thống của TQ,
không thể cùng một lúc chống lại hai kẻ thù, chỉ nên có một kẻ thù.
Đầu
những năm 70, nguy cơ ở biên giới phía Bắc của TQ tăng lên. Mao chuyển chiến lược
chống cả hai siêu cường sang chống Liên Xô. So với Liên Xô, sự uy hiếp của nước
Mỹ bên kia bờ đại dương rõ ràng là nhỏ hơn rất nhiều. Với nhận định, “việc Đài Loan là việc nhỏ, việc thế
giới là lớn”, Mao quyết định bắt tay với Nixon.
Thế
là ngày 21.2.1972, Nixon thăm TQ và Thông cáo Thượng Hải nổi tiếng đã làm chấn động
toàn thế giới. Cả kẻ thù lẫn bạn bè của TQ đều lo lắng với nước cờ này của họ. Đặc biệt, Nam VN và Bắc VN đều bị ảnh hưởng trong
mối quan hệ với các nước lớn
– các đồng minh truyền thống của mình.
Song,
phải đến 7 năm sau đó, quan hệ Trung – Mỹ mới bình thường hóa.
Một
ngày đầu năm âm lịch (1.1.1979), Đặng Tiểu Bình quyết định sang thăm Mỹ. Ông ta
chọn ngày đó là có tính toán: Ngày đầu năm mới, mọi người đều mong đón điềm lành,
chọn ngày đó vượt đại dương sang “kết bạn” sẽ khiến người Mỹ cảm động. Vào hồi
4h30 ngày hôm sau, máy bay chở Đặng đáp xuống phi trường căn cứ không quân
Andres tại Washington. Lúc này, Thủ đô nước Mỹ tuyết rơi mù mịt, nhiệt độ xuống
thấp đến âm 38 độ. Phó Tổng thống Mỹ ra đón, Đặng lên xe Ca-đi-lắc màu đen chạy
về Nhà trắng. Tối hôm đó, ông ta đến ăn tối tại gia đình Brê-din-ski, cố vấn an
ninh quốc gia của Tổng thống Mỹ.
Hôm
sau, Tổng thống Cater trong lời chào mừng, nói: “Thưa ngài Phó thủ tướng, hôm qua
là đầu năm theo lịch cũ, là ngày Tết của các ngài…Tôi nghe nói, trong dịp đầu
năm này, mọi thần linh từ thiện của các ngài đều mở hết cửa. Đó là lúc dẹp bỏ
mọi xích mích trong gia đình, là lúc đi thăm bạn bè thân thích. Đối với hai nước
chúng ta, hôm nay là thời khắc đoàn tụ và bắt đầu một lịch trình mới. Hôm nay
là giờ khắc hòa giải, là giờ khắc mở lại cánh cửa từ lâu đã bị đóng kín”.
Chọn
ngày đầu năm để kết bạn với kẻ thù số 1, lại đoạn tuyệt với đồng minh thân cận
nhất, đó là trí tuệ truyền thống của TQ hay là thủ đoạn truyền thống của TQ? Từ
thù biến thành bạn và đảo ngược từ bạn thành thù, đó là trí tuệ truyền thống
của TQ hay là thủ đoạn truyền thống của TQ?
Đặng,
hiển nhiên, nhằm nhiều mục tiêu khi thăm Hoa Kỳ, thông báo với Hoa Kỳ cuộc xâm lược VN. Đánh một
trận với VN là vạch rõ ranh giới bạn – thù, rằng TQ không còn anh em, tình
nghĩa gì với VN nữa.
Có như vậy, mới giành được sự tin tưởng của Hoa Kỳ. TQ muốn thực hiện bốn hiện
đại hóa, phải nhờ vốn và kỹ thuật phương Tây mà Hoa Kỳ là cánh cửa nhất thiết
phải mở ra đầu tiên. TQ
sẵn sàng làm bất cứ điều gì, miễn là có lợi cho TQ. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây
chính là thủ đoạn truyền thống của TQ.
Đặng
liên tiếp tung ra các luận điệu thăm dò, chuẩn bị dư luận cho cuộc xâm lược VN.
Tại Ủy ban Ngoại giao Thượng viện Mỹ, Đặng nói: “Chúng tôi không thể cho phép Việt Nam gây rối
loạn khắp nơi, vì hòa bình và ổn định của thế giới, vì chính đất nước mình,
chúng tôi có khả năng không thể không làm những việc mà chúng tôi không muốn
làm”. Hội đàm với
Cater, Đặng lại nói: “Nhân
dân TQ kiên định đứng về phía Campuchia phản đối bọn xâm lược VN. TQ mãi mãi đứng
về phía các quốc gia, các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược, phản đối sự xâm lược,
nô dịch của chủ nghĩa bá quyền, vì lợi ích lâu dài của hòa bình và ổn định quốc
tế, chúng tôi sẽ kiên quyết thực hiện nghĩa vụ quốc tế của mình, thậm chí không
tiếc những hy sinh tất yếu”.
Tại
Tokyo, Đặng nói với Tanaka: “Không
trừng phạt kẻ xâm lược, sẽ tạo ra những nguy hiểm phản ứng dây chuyền”, “đang
suy tính, để trừng phạt dù có gặp những nguy hiểm nào đó cũng phải hành động”, “cần
thiết phải tiến hành chế tài đối với Việt Nam”, “đối phó với loại người như
thế, không có những bài học cần thiết thì e rằng các hình thức khác đều không
có hiệu quả”.
Có
thể thấy, thái độ nước lớn, chủ nghĩa sô vanh Đại hán tộc lại bắt đầu tác oai
tác quái.
Sau chuyến thăm Hoa Kỳ của Đặng, quyết định cuộc xâm lược VN vào ngày 17.2.1979
đã được lãnh đạo TQ thông qua.
Trong
thời khắc hỗn độn của những toan tính và âm mưu quỷ kế mà kết cục là dẫn đến chiến
tranh, ngày 17.2.1979 đã đi vào lịch sử quan hệ hai nước Việt – Trung như là một trong những sự kiện khó tin nhất, bi thảm
nhất và không thể dự đoán.
Ngày
đó, tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới phía Bắc. TQ bất ngờ tung ra 9 quân đoàn chủ lực, 32 sư
đoàn sư đoàn bộ binh độc lập, 6 trung đoàn xe tăng, nhiều sư đoàn, trung đoàn
pháo binh tấn công VN. Lực lượng được huy động trên 30 vạn lính, 550 xe tăng,
480 khẩu pháo, 1.260 súng cối và dàn hỏa tiễn. Hướng Lạng Sơn, Cao Bằng do Hứa
Thế Hữu – một tay tướng võ biền Thiếu lâm chỉ huy, hướng Lào Cai do Dương Đắc
Chí chỉ huy. (Tay này từng tham gia chiến trường Triều Tiên và sự thất bại của
TQ trong cuộc chiến biên giới Việt – Trung năm 1979 đã làm ông ta từ chối gặp
Võ Nguyên Giáp hơn 10 năm sau đó tại Bắc Kinh). Sự giả nhân giả nghĩa của TQ thật đáng phỉ nhổ.
Nhưng, làm sao dấu được: “Lính TQ không động đến một quả trứng gà trong ổ. Chỉ
có vạn con trẻ xứ này đổ máu trong nôi”.
Khói
lửa chiến tranh vừa mới chấm dứt, nay lại ập tới, từ phía Nam rồi phía Bắc. Những
người con trai và con gái VN, không tiếc tuổi xanh của mình, lại nhằm hướng
biên cương, ra đi.
Một ngày – chỉ cần một ngày, đã xé toang cái tấm
màn che “anh em, hữu nghị”. Một ngày đổi trắng thay đen trong chớp mắt. Một
ngày – hệ lụy của những âm mưu lâu dài và thâm độc đã bộc lộ rõ ràng. Một ngày
cái con khỉ Tôn Ngộ Không ấy muốn biến thành người, song biến gì thì biến, vẫn
còn cái đuôi không biến được – lòi đuôi. Rốt cuộc, Bạch cốt tinh vẫn hoàn Bạch
cốt tinh.
Biên
giới ! Hai tiếng ấy làm lòng ta quặn thắt
Vết thương nghìn năm. Chiến hào thứ nhất
Mây có biết biên thùy không, mây trắng tần ngần
Vết thương nghìn năm. Chiến hào thứ nhất
Mây có biết biên thùy không, mây trắng tần ngần
Một
ngày và 35 năm; 35 năm đang dồn lại một ngày – 17.2.1979. Hẳn rằng, dù vắng bóng
trên vô tuyến truyền hình, trên báo chí, trên biểu ngữ, nhưng linh hồn những
người lính nơi biên giới vẫn được sưởi ấm bởi hoa ban nở trắng núi rừng Tây
Bắc, hoa sim tím nỗi mong chờ, hoa lau trắng bạt ngàn bờ cõi và đọng mãi trong
lòng mỗi người dân nước Việt. 35 năm dài đằng đẵng với đêm đêm ở địa đầu Tổ
quốc sâu thăm thẳm. Hồn sông núi phiêu diêu cùng ngàn cây nội cỏ, hòa với tiếng
gươm khua, tiếng vó ngựa ngày xưa trên ải Chi Lăng hay tiếng quân reo trên sóng
Bạch Đằng.
Ở
đâu đong hạnh phúc chén đầy, đây chỉ chén vơi
Một hạt tấm con, no suốt một đời
Chút thương nhớ dắt bên mình cùng súng đạn
Vượt bể dữ tháng ngày bằng một lá thuyền thoi
Một hạt tấm con, no suốt một đời
Chút thương nhớ dắt bên mình cùng súng đạn
Vượt bể dữ tháng ngày bằng một lá thuyền thoi
Nhưng,
chiếc thuyền thoi ấy sẽ đưa chúng ta tới bến bờ độc lập, tự do, hạnh phúc.
Một
ngày, 35 năm và mãi mãi…
Ngô
Nhân Dụng - Ai
dạy ai một bài học?
Thứ
Tư, ngày 19 tháng 2 năm 2014
|
Hình:internet
|
Ông Lê Duẩn còn để lại một câu nói ngàn năm không
quên: “Chúng ta đánh miền Nam là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc.” Nói cách
khác, hàng triệu chiến binh và đồng bào đã chết cũng là chết cho Liên Xô, cho
Trung Quốc.
Bây giờ người Việt Nam đang tự hỏi: Còn những bộ đội đã chết trong trận chiến 17 Tháng Hai năm 1979 thì
họ đã chết cho ai? Phải đặt câu hỏi đó, vì đến ngày 17 Tháng Hai năm nay, đảng
Cộng sản Việt Nam đã cấm không cho dân Việt tổ chức tưởng niệm các tử sĩ trong
cuộc chiến tranh kéo dài một tháng đầu năm đó.
Buổi
lễ tưởng niệm ở Hà Nội đã bị công an phá rối bằng một trò nhơ bẩn: Tổ
chức nhẩy múa ngay tại lễ đài để chiếm chỗ! Ðúng là: Khiêu vũ trên xác chết!
Tại Sài Gòn, những người tổ chức lễ tưởng niệm đã lên án chính quyền cộng sản
vô ơn: “Những người Việt Nam vừa mới lẫm liệt ngã xuống cho sự sống còn của
đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Cha mẹ họ vẫn đang sống trong nỗi ngậm
ngùi thương nhớ con. Vợ con họ vẫn đang sống trong nỗi khắc khoải vì sự trống
vắng của họ. Nhưng từ sau cuộc gặp Thành Ðô của lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam
với lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Quốc, coi sự sống còn của đảng Cộng sản cần
thiết hơn sự sống còn của đất nước Việt Nam, cần thiết hơn sự sống còn của dân
tộc Việt Nam, đảng cộng sản Việt Nam đã biến kẻ thù cướp đất Việt Nam, giết dân
Việt Nam thành bạn vàng ý thức hệ.”
Tháng
trước, đảng Cộng sản Việt Nam đã ngăn cấm không cho dân được tưởng niệm các
chiến sĩ Hoàng Sa, Nguyễn Tấn Dũng còn lên giọng mạ lị các liệt sĩ
Hoàng Sa bỏ mình vì bảo vệ tổ quốc, dám nói rằng họ là những người “hèn nhát.”
Tháng này, đảng Cộng sản lại ngăn cấm các lễ tưởng niệm các tử sĩ trong cuộc
chiến 1979, mà đồng đội, cha mẹ, vợ con của họ nhiều người vẫn còn sống. Dân
Lạng Sơn không tưởng niệm, dân Cao Bằng cũng không. Ðảng
Cộng sản đã tìm cách xóa nhòa cả trí nhớ của những người dân biên giới về cái chết
thê thảm của cha anh họ.
Trong
tuần lễ trước đó 70 nhân sĩ từ cả Hà Nội lẫn Sài Gòn đã phổ biến một bức thư
lên án hành động Trung Quốc tấn công Việt Nam hồi năm 1979 là “hèn
hạ, đáng sỉ nhục. Bức thư tố cáo thái độ của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam
“cũng hèn hạ không kém, nếu không dám công khai và quyết liệt vạch trần tội ác
xâm lược của kẻ thù, càng phi lý hơn khi thỏa hiệp với luận điệu xảo trá về cái
gọi là “giữ gìn đại cục,” quay lại đàn áp nhân dân biểu tỏ lòng yêu nước lên án
giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc.”
Ông
Ðinh Hoàng Thắng, ở Việt Nam, nhận xét: Thật đau buồn nếu như ngày
mười bảy tháng hai (đã trở) thành làn ranh giữa một bên là những trái tim nguội
lạnh, với bên kia là bầu nhiệt huyết của triệu triệu con người chưa bao giờ từ
bỏ ý chí đòi lại bất cứ phần bờ cõi nào đang bị cưỡng chiếm.”
Ông Thắng đã nói thẳng đến lằn ranh giới đang hiện rõ ràng: Một
bên là “những trái tim nguội lạnh,” và bên
kia là những người Việt còn “bầu nhiệt huyết” của những người không chấp nhận
mất nước. Những người mang bầu nhiệt huyết chắc chắn sẽ không chịu nhục mãi
mãi. Trong lịch sử loài người, khi đói rét quá thì người ta hay nổi loạn để có
cơm ăn áo mặc. Nhưng các cuộc cách mạng thường xẩy ra khi người ta đã có cơm ăn
áo mặc rồi, nhưng không muốn phải chịu một nỗi nhục nhã tập thể.
Chính
vì lo lắng trước tương lai sụp đổ cho nên đảng Cộng sản Việt Nam đã mạnh tay
ngăn cấm những người muốn tưởng niệm các tử sĩ trong cuộc chiến Hoàng Sa 1974
và Chiến tranh Biên giới 1979. Năm 1979, Ðặng Tiểu Bình tuyên bố
tấn công sang nước ta để “dạy cho Việt Nam một bài học.” Thực ra đó là một bài
học dành cho Lê Duẩn và toàn thể đảng Cộng sản Việt Nam.
Phải đợi tới mười năm sau, đảng Cộng sản Việt Nam mới thấm thía bài học đó. Khi
“Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Liên Xô” của Lê Duẩn tan rã, Nguyễn Văn Linh và toàn
ban lãnh đạo đảng Cộng sản phải chịu nhục nhã sang yết kiến các lãnh tụ Trung
Cộng ở Thành Ðô xin cúi đầu quy thuận. Và kết quả là cho tới nay cả nước ta
đang bị đảng Cộng sản ép phải cúi đầu chịu mối nhục chung.
Còn
dân tộc Việt Nam, chắc chắn chúng ta không chấp nhận bài học năm 1979.
Mà đây không phải lần đầu tiên. Dân tộc Việt Nam từ hai ngàn năm trước đã từng
thấy “thiên triều” nhiều lần đem quân sang dạy cho một bài học. Mà bao giờ dân Việt cũng đáp lễ, dạy cho thiên
triều một bài học khác. Năm
938, Ngô Quyền đã dạy cho quân Nam Hán một bài học. Lý Thường Kiệt đã dạy cho vua
quan nhà Tống một bài học. Vua và dân nhà Trần ba lần dậy cho quân Nguyên ba
bài học. Năm 1428 Lê Lợi đã dạy cho Minh Thành Tổ một bài học. Lần sau cùng, năm
1789, Quang Trung dạy cho nhà Thanh một bài học nhớ đời.
Năm nay, đảng Cộng sản Việt Nam cho công an nhảy
múa trên xác chết ngăn không cho đồng bào ta tưởng niệm cuộc chiến 1979. Ðây là
“những trái tim nguội lạnh” muốn “dạy một bài học” cho những người Việt còn
“bầu nhiệt huyết.”
Ông
Ðinh Hoàng Thắng nhìn thấy có hàng “triệu triệu người” còn bầu nhiệt huyết. Có
thể tin rằng hàng triệu triệu con người mang bầu nhiệt huyết sẽ thay đổi thế
cân bằng. Vì con số hàng triệu đó sẽ tăng lên không ngừng.
Còn con số những trái tim nguội lạnh chắc chắn đang co lại, ngày càng
giảm đi. Ðã tới lúc chỉ còn một thiểu số tham ô cố bám lấy
Trung Cộng để giữ nguyên địa vị và quyền lợi của họ. Ðó là một dấu hiệu báo
trước hiện tượng “Ðảng tan rã.”
Vậy
những anh bộ đội, những người dân lành đã chết trong trận chiến 17 Tháng Hai
năm 1979 họ đã chết cho ai? Họ tưởng mình đang hy sinh cho tổ quốc,
nhưng kết quả chỉ là giúp cho
một lũ tham ô nắm đầu dân Việt, cho đến ngày hôm nay. Không những thế, đám lãnh
tụ đỏ “coi sự sống còn của đảng Cộng sản cần thiết hơn sự sống còn của đất nước
Việt Nam, cần thiết hơn sự sống còn của dân tộc Việt Nam,” nên họ còn ngăn cản
không cho con cháu, anh em của các nạn nhân và tử sĩ dù còn “ngậm ngùi thương
nhớ” cũng phải quên đi, không được tưởng nhớ đến cha anh mình nữa.
Sẽ tới lúc người dân Việt sẽ
dạy cho bọn này một bài học.
Ngô
Nhân Dụng - Ai dạy ai một bài học?
Thứ Tư, ngày 19 tháng 2 năm 2014
Ông Lê Duẩn còn để
lại một câu nói ngàn năm không quên: “Chúng ta đánh miền Nam là đánh cho Liên
Xô, cho Trung Quốc.” Nói cách khác, hàng triệu chiến binh và đồng bào đã chết
cũng là chết cho Liên Xô, cho Trung Quốc. Bây giờ người Việt Nam đang tự hỏi: Còn
những bộ đội đã chết trong trận chiến 17 Tháng Hai năm 1979 thì họ đã chết cho
ai? Phải đặt câu hỏi đó, vì đến ngày 17 Tháng Hai năm nay, đảng Cộng sản Việt
Nam đã cấm không cho dân Việt tổ chức tưởng niệm các tử sĩ trong cuộc chiến
tranh kéo dài một tháng đầu năm đó.
Buổi lễ tưởng niệm
ở Hà Nội đã bị công an phá rối bằng một trò nhơ bẩn: Tổ chức nhẩy múa ngay tại
lễ đài để chiếm chỗ! Ðúng là: Khiêu vũ trên xác chết! Tại Sài Gòn, những người
tổ chức lễ tưởng niệm đã lên án chính quyền cộng sản vô ơn: “Những người Việt Nam
vừa mới lẫm liệt ngã xuống cho sự sống còn của đất nước Việt Nam, dân tộc Việt
Nam. Cha mẹ họ vẫn đang sống trong nỗi ngậm ngùi thương nhớ con. Vợ con họ vẫn
đang sống trong nỗi khắc khoải vì sự trống vắng của họ. Nhưng từ sau cuộc gặp
Thành Ðô của lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam với lãnh đạo đảng Cộng sản Trung
Quốc, coi sự sống còn của đảng Cộng sản cần thiết hơn sự sống còn của đất nước Việt
Nam, cần thiết hơn sự sống còn của dân tộc Việt Nam, đảng cộng sản Việt Nam đã
biến kẻ thù cướp đất Việt Nam, giết dân Việt Nam thành bạn vàng ý thức hệ.”
Tháng trước, đảng
Cộng sản Việt Nam đã ngăn cấm không cho dân được tưởng niệm các chiến sĩ Hoàng
Sa, Nguyễn Tấn Dũng còn lên giọng mạ lị các liệt sĩ Hoàng Sa bỏ mình vì bảo vệ
tổ quốc, dám nói rằng họ là những người “hèn nhát.” Tháng này, đảng Cộng sản
lại ngăn cấm các lễ tưởng niệm các tử sĩ trong cuộc chiến 1979, mà đồng đội,
cha mẹ, vợ con của họ nhiều người vẫn còn sống. Dân Lạng Sơn không tưởng niệm,
dân Cao Bằng cũng không. Ðảng Cộng sản đã tìm cách xóa nhòa cả trí nhớ của
những người dân biên giới về cái chết thê thảm của cha anh họ.
Trong tuần lễ trước
đó 70 nhân sĩ từ cả Hà Nội lẫn Sài Gòn đã phổ biến một bức thư lên án hành động
Trung Quốc tấn công Việt Nam hồi năm 1979 là “hèn hạ, đáng sỉ nhục. Bức thư tố
cáo thái độ của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam “cũng hèn hạ không kém, nếu
không dám công khai và quyết liệt vạch trần tội ác xâm lược của kẻ thù, càng
phi lý hơn khi thỏa hiệp với luận điệu xảo trá về cái gọi là “giữ gìn đại cục,”
quay lại đàn áp nhân dân biểu tỏ lòng yêu nước lên án giặc ngoại xâm, bảo vệ
chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc.”
Ông Ðinh Hoàng
Thắng, ở Việt Nam, nhận xét: Thật đau buồn nếu như ngày mười bảy tháng hai (đã
trở) thành làn ranh giữa một bên là những trái tim nguội lạnh, với bên kia là
bầu nhiệt huyết của triệu triệu con người chưa bao giờ từ bỏ ý chí đòi lại bất
cứ phần bờ cõi nào đang bị cưỡng chiếm.” Ông Thắng đã nói thẳng đến lằn ranh
giới đang hiện rõ ràng: Một bên là “những trái tim nguội lạnh,” và bên kia là
những người Việt còn “bầu nhiệt huyết” của những người không chấp nhận mất
nước. Những người mang bầu nhiệt huyết chắc chắn sẽ không chịu nhục mãi mãi.
Trong lịch sử loài người, khi đói rét quá thì người ta hay nổi loạn để có cơm
ăn áo mặc. Nhưng các cuộc cách mạng thường xẩy ra khi người ta đã có cơm ăn áo
mặc rồi, nhưng không muốn phải chịu một nỗi nhục nhã tập thể.
Chính vì lo lắng
trước tương lai sụp đổ cho nên đảng Cộng sản Việt Nam đã mạnh tay ngăn cấm những
người muốn tưởng niệm các tử sĩ trong cuộc chiến Hoàng Sa 1974 và Chiến tranh
Biên giới 1979. Năm 1979, Ðặng Tiểu Bình tuyên bố tấn công sang nước ta để “dạy
cho Việt Nam một bài học.” Thực ra đó là một bài học dành cho Lê Duẩn và toàn
thể đảng Cộng sản Việt Nam. Phải đợi tới mười năm sau, đảng Cộng sản Việt Nam
mới thấm thía bài học đó. Khi “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Liên Xô” của Lê Duẩn
tan rã, Nguyễn Văn Linh và toàn ban lãnh đạo đảng Cộng sản phải chịu nhục nhã
sang yết kiến các lãnh tụ Trung Cộng ở Thành Ðô xin cúi đầu quy thuận. Và kết
quả là cho tới nay cả nước ta đang bị đảng Cộng sản ép phải cúi đầu chịu mối
nhục chung.
Còn dân tộc Việt
Nam, chắc chắn chúng ta không chấp nhận bài học năm 1979. Mà đây không phải lần
đầu tiên. Dân tộc Việt Nam từ hai ngàn năm trước đã từng thấy “thiên triều”
nhiều lần đem quân sang dạy cho một bài học. Mà bao giờ dân Việt cũng đáp lễ,
dạy cho thiên triều một bài học khác. Năm 938, Ngô Quyền đã dạy cho quân Nam
Hán một bài học. Lý Thường Kiệt đã dạy cho vua quan nhà Tống một bài học. Vua
và dân nhà Trần ba lần dậy cho quân Nguyên ba bài học. Năm 1428 Lê Lợi đã dạy
cho Minh Thành Tổ một bài học. Lần sau cùng, năm 1789, Quang Trung dạy cho nhà
Thanh một bài học nhớ đời.
Năm nay, đảng Cộng
sản Việt Nam cho công an nhảy múa trên xác chết ngăn không cho đồng bào ta
tưởng niệm cuộc chiến 1979. Ðây là “những trái tim nguội lạnh” muốn “dạy một
bài học” cho những người Việt còn “bầu nhiệt huyết.”
Ông Ðinh Hoàng
Thắng nhìn thấy có hàng “triệu triệu người” còn bầu nhiệt huyết. Có thể tin
rằng hàng triệu triệu con người mang bầu nhiệt huyết sẽ thay đổi thế cân bằng.
Vì con số hàng triệu đó sẽ tăng lên không ngừng. Còn con số những trái tim
nguội lạnh chắc chắn đang co lại, ngày càng giảm đi. Ðã tới lúc chỉ còn một
thiểu số tham ô cố bám lấy Trung Cộng để giữ nguyên địa vị và quyền lợi của họ.
Ðó là một dấu hiệu báo trước hiện tượng “Ðảng tan rã.”
Vậy những anh bộ
đội, những người dân lành đã chết trong trận chiến 17 Tháng Hai năm 1979 họ đã
chết cho ai? Họ tưởng mình đang hy sinh cho tổ quốc, nhưng kết quả chỉ là giúp
cho một lũ tham ô nắm đầu dân Việt, cho đến ngày hôm nay. Không những thế, đám
lãnh tụ đỏ “coi sự sống còn của đảng Cộng sản cần thiết hơn sự sống còn của đất
nước Việt Nam, cần thiết hơn sự sống còn của dân tộc Việt Nam,” nên họ còn ngăn
cản không cho con cháu, anh em của các nạn nhân và tử sĩ dù còn “ngậm ngùi
thương nhớ” cũng phải quên đi, không được tưởng nhớ đến cha anh mình nữa. Sẽ
tới lúc người dân Việt sẽ dạy cho bọn này một bài học.
On Friday, February 21, 2014 3:37 PM, tuyen do <> wrote:
hết Nông Đức Mạnh lại thằng
Sang
găp chủ Tàu Man
đầu cúi hàng !!!!!
???????
nhục nhã ! dân tộc Việt
Nam ơi !
NHỤC NHỤC
giáp mặt hàng quân khúm núm hầu
tên Nông Đức Mạnh của Hồ Râu
nạt dân hùng hổ ngổng cao cổ
sợ chệt lom khom cúi gục đầu
hiến ải Nam Quan cầy mả Tổ
dâng vùng Trường Đảo cống man Tầu
nhục ơi là nhục ! đồng bào hỡi
đuổi khỏi Sơn Hà giống bọ trâu
Tố Nguyên
---------
LẠI NHỤC NHỤC
hết Nông Đút Mạnh lại thằng Sang
Trương Tấn vững sao cúi gập hàng
gục mặt bởi chăng sợ quỷ sứ
ngả người hay khiếp bọn sài lang
không rồi khúm núm hầu bang cái
chắc hẳn van xin phục hổ mang
đảo đó đất này “con “ hiến cả
xin làm giun đất dũi trong hang
Tố Nguyên
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment