AI THẮNG AI TRONG CUỘC
HIẾN TRANH QUỐC- CỘNG TẠI VIỆT NAM (1954-1975) ?
Thiện Ý
Chúng tôi chưa có cuốn “Bên Thắng
Trận” của nhà văn Việt cộng HuyĐức để đọc nên không biết nội dung cuốn sách
viết gì mà đã được nhiều bậc thức giả Việt quốc có tiếng tăm ở hải ngoại khen
ngợi hết lời và quảng bá như một cuốn sách bán chậy nhất hiện nay. (best
Seller)
Tuy nhiên căn cứ vào tụa đề cuốn
sách “Bên Thắng Trận” và qua một vài bài viết khen, chê đọc được trên
mạng internet, cho thấy tác giả cuốn sách nói về “Bên Thắng Trận” trong
cuộc chiến tranh Quốc –Cộng hôm qua tại Việt Nam.(1954-1975) chính là Việt
cộng. Có thật thế không?
Trong khi chưa đọc và chưa có điều
kiện nhận định về nội dung cuốn “Bên Thắng Trận”, chúng tôi xin gửi lại
một số bài viết trong quá khứ để trả lời cho vấnđề được đặt ra:”Ai Thắng Ai
trong cuộc chiến tranh Quốc- Cộng vừa qua?”.
Sau đây là bài trích đoạn trong tập
“Tài liệu Nghiên Cứu Lý Luận: VIỆT NAM TRONG THẾ CHIẾN LƯỢC QUỐC TẾ MỚI” Phát
hành lần đầu 1995, tái bản lần 2 năm 2005 tại Hoa Kỳ.
TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN:
VIỆT NAM TRONG
THẾ CHIẾN LƯỢC QUỐC TẾ MỚI
Thiện Ý
LTS. Luật sư
Tạ Văn Tài, Tiến sĩ Chính trị học,nguyên Giáo sư các Đại học Luật Khoa Việt
Nam, hiện là giảng sư và phụ khảo ngjiên cứu dạy tại Harvard Law, Hoa Kỳ. Trong
bài giới thiệu tác phẩm đã nhận xét về tập tài liệu nghiên cứu lý luận của
Thiện Ý, với 4 đặc điểm:- Nhận định chuẩn xác về thời cuộc – Những tiên liệu đi
trước thời đại – Những đề nghị thực tiễn của một người yêu nước trên lập trường
dân tộc – Và một phương pháp luận vững chắc và rất biện chứng.
Ðể thấy sự chân xác của những
nhậnđịnh này, kể từ báo số 1/2007, Luật pháp & Ðời sống sẽ trích đăng trong
nhiều kỳ liên tiếp tài liệu nghiên cứu lý luận này để cống hiến độc giả.
PHẦN
III
VIỆT
NAM TRONG THẾCHIẾNLƯỢC QUỐC TẾ MỚI.
CHƯƠNG I: VIỆT NAM TỪ CHỦNGHĨA THỰC DÂN CŨ ÐẾN
CHỦ NGHĨATHỰC DÂN MỚI
CHƯƠNG II: CHIẾN TRANH VIỆT NAM KẾT THÚC MANG Ý NGHĨA GÌ?
Ai cũng biết là cuộc chiến tranh
Việt Nam kéo dài trên 20 năm (1954-1975) và đã kết thúc tính đến 30 tháng tư
năm nay là đúng 20 năm (1954-1995). Như vậy là thấm thóat thời gian chiến tranh
và hòa bình trên đất nuớc ta đã gần tương đương nhau.
Dân tộc Việt Nam đã được gì, mất gì
trong những thời khoảng chiến tranh và hòa bình ấy, hẳn ai cũng có thể nhẩm
tính được.Ðã có biết bao sự kiện biến đổi thăng trầm trên quê huơng đất nước và
dân tộc Việt Nam trong hòa bình. Chiều hướng biến đổi chung là các bên thù địch
tham chiến hôm qua, hôm nay đều như có nỗ lực đẩy lùi quá khứ, muốn mau chóng
quên đi chiến tranh, hận thù để cùng hướng đến một tương lai tươi sáng và
tốtđẹp cho dân tộc.
Các bên cựu thù là người Việt Nam,
từngđược ngọai bang xử dụng như những công cụ chiến lược một thời, nay đa số như đồng ý là cần “hòa giải và hòa hợp dân
tộc”theo đúng ý nghĩa của cụm từ này. Vấn đề bất đồng chỉ còn là phương
thức thực hiện “hòa giải và hòa hợp dân tộc”thế nào cho hợp tình hợp lý, để các
bên có thể chấp nhận được, hầu sớm đi đến thống nhất được tòan lực quốc gia để
cùng hướng về tương lai tươi sáng cho dân tộc.
Các bên cựu thù ngọai bang, thì
nayđều tỏ ra có thực tâm muốn tạo điều kiện thuận lợi cho các bên cựu thù bản
xứxích lại gần nhau và sẵn sàng giúp Việt Nam xây dựng dân chủ, phát triển đất
nứơc đến phú cường. (Vì yêu cầu của một thế chiến lược quốc tế mới và vì
quyền lợi thiết thân của chính họ).
Thành ra, càng ngày người ta có vẻ
dễ dàng đồng ý được với nhau về ý nghĩa lịch sửcủa chiến tranh Việt Nam và sự
kết thúc của cuộc chiến này. Một ý nghĩa trung thực phù hợp với tính khách quan
của lịch sử.
Thật vậy, sau khi chiến tranh kết thúc,
chế độ công cụ Hà Nội được đóng vai trò thắng trận đã đưa ra ba ý nghĩa về cuộc
chiến tranh Việt Nam và sự kết thúc của nó. Chúng ta hãy nhận định về ba “ý
nghĩa lịch sử” này, để thấy được sự chuyển biến nhận thức của các bên tham
chiến theo thời gian, những người Việt Nam cộng sản cũng như những người Việt
Nam không cộng sản.
I/- Có phải đó là “Cuộc
Chiến Tranh Yêu Nước, Chiến Tranh Giải Phóng Dân Tộc và Bảo Vệ Tổ Quốc Tiêu
Biểu và Vĩ Ðại Nhất Ở NứơcTa” (3) không?
Cần phân định rạch ròi cuộc chiến
đánhđuổi thực dân Pháp cho đến năm 1954, hòan tòan khác với cuộc chiến tranh do
chế độ công cụ Hà Nội phát động từ năm 1954 đến 1975 về mục tiêu và ý nghĩa.
Mọi người có thể đồng ý với những
người Việt Nam cộng sản về ý ngghĩa của cuộc chiến tranh trước, đúng thực là “Cuộc Chiến Tranh Yêu Nước, Chiến Tranh Giải Phóng Dân Tộc
và Bảo Vệ Tổ Quốc”. Vì cuộc
chiến này đã kết thúc gần một trăm năm nô lệ thực dân Pháp, sau một quá trình
đấu tranh lâu dài, gian khổ của nhiều thế hệ nhân dân Việt Nam. Còn cuộc chiến
tranh sau, do Cộng sản Bắc Việt phát động và tiến hành nhằm đến lúc này thì ai
cũng phải hiểu đó là “Cuộc chiến tranh lợi dụng lòng
yêu nước, khát vọng độc lập, tự do, dân chủ của nhân dân Việt Nam, xô đẩy dân
tộc vào vòng cương tỏa của chủnghĩa thực dân mới”.
Nói cách khác, một cuộc chiến mà các
bên Việt Namđã bị xử dụng như những công cụ thực hiện chiến lược quốc tế của
các đế quốc mới. Nghĩa là một cuộc chiến tranh ý thức hệ do các cường quốc đế
quốc chủ mưu và thủ lợi, đã xử dụng hai công cụ bản xứ để thực hiện cuộc chiến
tranh cốt nhục tương tàn, biến đất nước ta thành bãi chiến trường, nhân dân ta
là đối tượng tiêu thụ vũ khí và thửnghiệm các phương tiện giết người hiện đại.
II/- Có phải đó là “Bản
Anh Hùng Ca Vĩ Ðại Nhất Trong Lịch Sử Hàng Ngàn Năm Dựng Nước Và Giữ Nước của
Dân Tộc “(4) không?
Không.
Phải khẳng định là không. Vì đây là
hệquả tất nhiên của ý nghĩa thứ nhất. Bởi một khi người ta đã đồng ý được với
nhau rằng cuộc chiến tranh vừa qua không phải là “Cuộc Chiến Tranh Yêu Nước,
Chiến Tranh Giải Phóng Dân Tộc. . .” thì tất nhiên việc tiến hành và kết thúc
cuộc hiến tranh ấy không thể là “Bản Anh Hùng Ca Vĩ
Ðại Nhất Trong Lịch Sử Hàng NGàn Năm Dựng Nước Và Giữ Nước của Dân Tộc”.
Vả chăng chỉ có thể coi cuộc chiến tranh này, do công cụ cộng sản Hà nội khởi
động, tiến hành và kết thúc “thắng lợi” như thế, là“Bản
anh hùng ca vĩ đại nhất của các cá nhân và tập đòan làm tay sai cho ngọai bang
trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta”.
Vì rằng quả thực cá nhân Ông Hồ và
tậpđòan cộng sản Việt Nam đã thực hiện xuất sắc các ý đồ chiến lược của đế quốc
Liên Xô, vì lợi ích cho lịch sử bành trướng của tân Ðế Quốc Ðỏ Liên Xô, hòan
tòan xa lạ và đi ngược lại với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân
tộc Việt Nam. Vĩ đại nhất vì trong lịch sử làm tay sai, làm công cụ thực hiện ýđồ
cho ngọai bang, không có cá nhân và tập đòan nào thực hiện “Nghĩa vụ quốc tế cao cả” (!) xuất sắc hơn Ông
Hồ và đảng Cộng sản Việt Nam.
III/- Cuộc chiến tranh
Việt Nam kết thúc như thế có phải là “Thắng Lợi Của Phe Xã Hội Chủ Nghĩa” đối
với “Phe Tư Bản ChủNghĩa” (5) hay không?
Không.
Lại vẫn phải khẳng định là không.
Trướcđây có thể là hầu hết những người Việt Nam cộng sản không đồng ý với sự
khẳng định này. Nhưng ngày nay, dù muốn dù không, đa số người Việt Nam cộng sản
cũng như không cộng sản phải thừa nhận sự thật này: Vì
nhu cầu thay đổi thế chiến lược quốc tế,các cường quốc đếquốc mới chủ động đưa
cuộc hiến tranh Việt Nam đi đến kết thúc vào ngày 30-4-1975; và do đó, chiến
tranh Việt Nam kết thúc như thế không thể là thắng lợi của phe này đối với phe
kia.
Nhớ lại, sau ngày 30-4-1975, những
người Việt Nam cộng sản đã tỏ ra kiêu hãnh và tự hào rằng cuộc chiến tranh Việt
Nam kết thúc đã là một đại thắng cho họ, vì đã làm được công việc “đẩy lùi trận địa của chủ nghĩa đế quốc, mở rộng trận địa cho
chủ nghĩa xã hội, đảo lộn được chiến lược tòan cầu của đế quốc Mỹ…”(6).
Thế nhưng đến nay, dù không nói ra,
thực tế và các tài liệu mật của các phe tham chiến dần dần được giải mật, đã “giác
ngộ và phản tỉnh” những người Việt nam Cộng sản, giúp họ hiểu rằng, chính
“đế quốc Mỹ và các thế lực phản động quốc tế” đã tiêu diệt được trận địa
chủ nghĩa xã hội, chủ động dập tắt cuộc hiến tranh Việt Nam nói riêng, chiến
tranh Ðông Dương và các cuộc chiến tranh cục bộ khác trên thế giới nói chung,
là do yêu cầu của một thế chiến lược quốc tế mới, là nỗ lực chung của các cường
quốc nhằm thiết lập “một nền trật tự quốc tế mới” hay là “Một hệ
thống kinh tế thế giới mới”.
Vì sao những người Việt Nam Cộng sản
“Giác ngộ và phản tỉnh” được như vậy?-Chính là do các sự kiện thực tế
diễn ra trong quá trình 20 năm qua.
Thật vậy, khởi đầu quá trình thời
gian, ngay khi cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc, đã có một số người Việt nam
cộng sản có trình độ nhận thức lưu ý đến sựkết thúc chiến tranh không được
bình thường. Trong thâm tâm những người Việt Nam Cộng sản này đã có những
suy nghĩ cùng chiều với một số đông người Việt Nam không cộng sản có tâm hồn
lạc quan và tầm nhìn chiến lược. Suy nghĩ rằng: Nếu việc kết thúc chiến
tranh Việt Nam quả là một thắng lợi của “phe xã hội chủ nghĩa” thì tình hình
Việt Nam phải biến chuyển khác hơn thực tế kể từ sau ngày 30-4-1975. Thực
tế logique phải là phe xã hội chủnghĩa , cụ thể là các cường quốc cộng sản hàng
đầu như Liên Xô, Trung Quốc, phải tìm mọi cách và dồn mọi nỗ lực chi viện tối
đa cho chế độ cộng sản Việt Nam vượt qua những khó khăn hậu chiến, tạo điều
kiện cho Việt Nam phát triểnđến cường thịnh. Ðể làm gì? – Ðểphát huy
thắng lợi Việt Nam nhằm lôi kéo, mời chào các nước nghèo đói, chậm tiến trong
vùng, rằng hãy noi gương Việt Nam, lao vào “một cuộc chiến tranh cách
mạng, chiến tranh giải phóng dân tộc. . .”để đạt mục tiêu lật đổ các
chính quyền tư sản, xóa bỏ “các chế độ người bóc lột người” đểthay
thế bằng các chế độ “Xã hội chủ nghĩa”; Rằng hãy theo gương Việt
Nam, để trong “Chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải phóng” sẽ
được trợ giúp tối đa vũ khí, lương thực để đánh thắng các “chính quyền
phản động”; và sau chiến tranh cũng sẽ được Liên Xô, Trung Quốc và các
nước xã hội chủ nghĩa anh em khác viện trợ ồ ạt, vô điều kiện trong tinh thần “quốc
tế vô sản”, để cùng nhau thực hiện cuộc cách mạng vô sản trên tòan
thếgiới, xây dựng “một xã hội xã hội chủ nghĩa” tại mỗi nước, tiến tới xã hội
viên mãn tòan cầu “thiên đường Cộng sản” trong viễn tưởng!
Thế nhưng thực tế trên đã không xẩy
ra mà chỉ thấy các hiện tượng trái chiều.
Người ta thấy Liên Xô, Trung Quốc và
các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, dường như chờ đợi một cái gì đó khác
hơn. Tất cả như chỉ đứng nhìn và để mặc cho Cộng sản Việt Nam loay hoay tự giải
quyết các khó khăn mọi mặt, khó khăn cũ cũng như khó khăn mới đẻ ra sau chiến
tranh.
Trong những năm đầu, vào thời điểm
mà mâu thẫn Nga-Hoa đã đến thời kỳ quyết liệt, đẩy Việt Nam vào thế phải chọn
lựa dứt khóat: Theo Nga hay theo Tầu cộng. Trong khi chờ đợi sự lựa chọn
dứt khóat này, cả hai đế quốc Ðỏ Nga-Tầu đều không có hành động chi viện tích
cực nào như đã từng hào hiệp đưa vũ khí, lương thực và các phương tiện giết
người hiện đại cho cộng sản Việt Nam làm “Chiến tranh cách mạng, chiến
tranh Giải phóng”. Ðến khi chẳng đặng đừng cộng sản Việt Nam bó buộc
phải chọn lựa, đã chọn “Mocow là tổ quốc xã hội chủnghĩa” duy
nhất của mình, lập tức Trung cộng khởi động gây khó khăn thêm nữa cho Cộng sản
Việt Nam.
Hành động cụ thể đầu tiên là đòi
nợkhẩn cấp, rút hết chuyên gia về nước, bỏ dở các công trình đang xây dựng. . .
Ðể trả món nợ trong chiến tranh này, cộng sản Việt Namđã vơ vét luá gạo, vàng
bạc quý kim, tài nguyên đất nước, cùng với “chiến lợi phẩm” lấy được ở Miền Nam
của “Mỹ-Ngụy”, đem trả nợ cho Trung Cộng.
Hậu quả thấy được là nhân dân cả
nước trong thời gian này đã phải ăn bo bo, bột mì, đôn ngô khoai sắn. . . Ðã
vậy, như chưa hả giận và như để trừng phạt kẻ phản bội “tham phú phụ bần”,
Trung cộng đã xử dụng công cụ mới của mình ở Cam-Bốt (chế độ Pol Pot) tiến hành
các họat động quấy phá quân sự (như đánh chiếm vài đảo nhỏ gần bờ biển phía cực
Nam của Việt Nam, tấn công Tây Ninh và một số tỉnh biên giới phía Nam của Việt
Nam). Các họat động quân sự này của công cụ Pol Pot, sau đó người ta hiểu
được ý đồ thực sự của Trung Cộng chỉ là gài thế cho cộng sản Việt Nam ngã sấp
mặt và sa lầy lâu dài tại Cam-Bốt, là gián tiếp kéo Liên Xô vào cuộc và gây
thêm gánh nặng cho Liên Xô…
Bằng sự quấy phá, khiêu khích quân
sự, rõ ràng là Trung Quốc đã đẩy cộng sản Việt Nam vào thế phải kéo quân vào
Cam Bốt tháng 1 năm 1979. Cộng sản Việt Nam như bị ngã sấp mặt vào Cam Bốt. Vì
khi hùng hổ kéo đại binh vào đất Chùa Tháp, quân đội CSVN chỉ gặp sức kháng cự
lẻtẻ, yếu ớt, tiến quân như vào chỗ không người. Ðến khi vào đến Pnom Penh thì quân
Khmer Ðỏ đã rút hết tự bao giờ.
Chiếmđược Cam Bốt một cách dễ dàng
như thế không phải là chuyện bình thường. Chiếm được Cam Bốt mà không rút quân
về được là hậu quả tất nhiên của hiện tượng không bình thường,tức là đã rơi vào
thế sa lầy theo trận đồ đối phương chủ động bầy ra.
Người ta tự hỏi, tại sao Trung Cộng
không nhẩy vào cứu nguy cho Pol Pot, điều mà Trung Cộng có thể làm được và thừa
sức làm như đã từng làm trong cuộc chiến tranh Triều Tiên trước đây (1950
-1953). Ðó chính là điều bất thường đểtạo ra trận đồ buộc Cộng sản Hà Nội
phải sa vào vậy.
Như mọi người đều biết, sau khi
chiếm được Cam Bốt, Cộng sản Việt Nam đã dựng lên chính quyền tay sai Heng
Samring với chế độ Cộng Hòa Nhân Dân Kampuchia, như để hợp pháp hóa hành động
xâm lăng quân sựcủa mình. Thế nhưng hành động quân sự này vẫn bị cả thế giới
lên án là xâm lược. Chế độ CSVN bị cô lập trên trường quốc tế sau hành động xâm
lược bất đắc dĩ này. Hoa Kỳ trước đó đã trừng phạt Việt Nam bằng chính sách cấm
vận, nay lại có cơ hội kéo thêm được nhiều nước tham gia cấm vận, bao vây kinh
tế, cô lập chính trị, gây thêm nhiều khó khăn cho chế độ CSVN.
Trong khi đó, vì phải tiếp tục
chiếm giữ để bảo vệ chế độ công cụ do mình dựng lên ởCam Bốt, quân cộng sản
Việt Nam đã phải đương đầu với một cuộc chiến tranh du kích với Khmer Ðỏ. Một
cuộc chiến mà thực tế đã làm tiêu hao nhiều sinh lực chế độ CSVN. Trong hàng
chục năm bị chôn chân vào chiến trường Cam Bốt, Cộng sản Việt Nam đã tiêu phí
nhiều tài nguyên đất nước và sinh mệnh của hàng trăm ngàn thanh niên Việt Nam
cho cái gọi là “nghĩa vụ quốc tế cao cả” (!?!).
Nhưng dù khéo tuyên truyền, che đậy
cách mấy, chế độ CSVN vẫn không tránh khỏi sự căm phẫn, bất bình trong mọi tầng
lớp nhân dân. Ðó là chưa kể những di hại nghiêm trọng, lâu dài hơn về mặt kinh
tế, xã hội. Trước mắt, đất nước đã nghèo nay càng nghèo hơn vì cuộc chiến tranh
này và đó cũng là nguyên nhân làm phân hóa sâu sắc hàng ngũ lãnh đạo chóp bu
của đảng CSVN.Ðã vậy, Trung cộng còn bồi thêm những đòn trừng phạt quân sự,tiến
quân vượt biện giới vào các tỉnh phía Bắc, tàn phá nặng nề những cơ sở quân sự,
kinh tế. . .gọi là để “dạy cho Việt Nam một bài học”(Tuyên bố
của Ðặng Tiểu Bình).
Ai cũng thấy, đây là một hành động
ngạo mạn, có tính bá quyền của Trung Cộng. Thế mà Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa thống thuộc Liên Xô chỉ phản ứng yếu ớt, lên án chiếu lệ, để mặc cho
CSVN rơi vào thế phải tự đương đầu. Liên Xô và các nước Xã Hội Chủ nghĩa anh
emđã có thái độ như thế, thì không trách được thái độ thờ ơ của các quốc gia
không cộng sản, trước hành động ngang ngược của một nước lớn, vi phạm chủ quyền
của nước láng giềng nhỏ, chà đạp lên công pháp quốc tế..
Ðiềuđáng lưu ý là ngay cả tổ chức
Liên Hiệp Quốc lúc đó cũng chỉ lên án nhẹ nhàng, mà không dám đưa ra một nghị
quyết mạnh mẽ nào buộc Trung Cộng phải rút quân xâm lược ngay lâp tức, tương tự
như những nghị quyết về các sự tranh chấp tại Trung Ðông.
Vì rằng Trung Quốc và Việt Nam đều
là hai nước hội viên Liên Hiệp Quốc. Ðáng lý ra cơ quan này có quyền làm như
vậy và có bổn phận phải làm như vậy. Thành ra sự kiện này phần nào đã cảnh giác
cả những người Việt Nam cộng sản cũng như không cộng sản. Trong thâm tâm ai
cũng cảm thấy có cái gì không được bình đẳng trong quan hệ quốc tế; không phải
chỉ cảm thấy mà còn thấy được thực tế duờng như các cường quốc đế quốc thường
tự cho mình có cái quyền làm ra luật pháp quốc t ế , đểáp dụng cho các nước
nhược tiểu, còn chính họ không có nghĩa vụ tuân hành.
Vì vậy không mấy ai ngạc nhiên khi
Trung Cộng hành động ngang ngược, đem quân tiến chiếm quần đảo Trường Sa của
Việt nam (1974), trước sự thờ ơ của Liên Hiệp Quốc, với sự lên tiến chiếu lệ
,như kêu gọi các bên tự chế, với lời khuyên can các bên tranh chấp nên giải
quyết thông qua thương lượng, hòa bình.
Tựu chung cung cách xử sự của Trung
quốc đối với một chính quyền, một chế độ mà trong quá khứ từng được coi là “đồng
chí, anh em”, được ví von như “răng với môi, môi hở thì răng
lạnh”, và “tình hữu nghị Việt – Trung” từngđược tuyên
xưng “đời đời bền chặt”. . . đã khởi động từ lâu một quá trình
“giác ngô” hay “phản tỉnh” trong hàng ngũ những người cộng sản Việt Nam. Ðồng
thời, cuộc chiến tranh Việt Nam nói riêng và chiến tranh Ðông Dương nói chung,
đã đi đến kết thúc với một tốcđộ chóng mặt , khác thường (sự sụp đổnhanh
chóng của các chế độ cực hữu, sau khi quân đội tháo chậy mà không kịp chiến
đấu, theo nhịp độ rút quân nhanh hơn tôc độ tiên quân của đối phương,điều mà
Ðại TướngViệt Cộng Văn Tiến Dũng cho là quân đội của ông ta đã tiến quân như
“chẻ tre”, và tình hình chính trị mập mờ, tranh tối tranh sáng vào những tháng
cuối năm 1974, đầu năm 1975. . .) đã cho thêm dữ kiện để người Việt Nam
(cộng sản giác ngộ cũng như không cộng sản) hòai nghi về ý nghĩa “thắng lợi
lịch sử” của cuộc chiến tranh mà chế độ Cộng sản Việt nam đưa ra khoa trương.
Nay thì thực tế ngày càng cho thêm
dữkiện đầy đủ để mọi người Việt nam có thể đi đến thống nhất nhận định:
- Rằng cuộc chiến tranh Việt Nam thực chất chỉ là
cuộc chiến tranh ý thức hệ (cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa) do
các cường quốc đế quốc phát động và tiến hành trên đất nước Việt Nam, thông qua
các cá nhân, tập đòan bản xứ làm công cụ tri tình (Hồ Chí minh và đảng
Cộng sản Việt Nam) hay ngay tình bị ngoại bang xử dụng nhưcông cụ(Ngô
Ðình Diệm và các đảng phái quốc gia), xô đẩy nhân dân Việt nam vào một
cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn;
- Rằng hậu quả bi thảm của cuộc chiến tranh này
đất nước và dân tộc Việt Nam phải gánh chịu, sau khi ý đồ chiến lược trong vùng
của các cường quốc đế quốc đã đạt được thông qua cuộc chiến.
Và vì vậy, cuộc chiến tranh Việt nam
kết thúc như thế, không phải là thắng lợi của phe này đối với phe kia, mà chỉ
là vì nhu cầu thay đổi thế chiến lược quốc tế mới của các cường quốc cực mà
thôi.
(Còn Tiếp)
Thiện ý
( Trích: Việt Nam Trong
Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới. Ấn hành lần đầu 1995 và tái bản năm 2005 tại Hoa Kỳ)
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment