Phan Xuân Huy: Một
tên giặc, của "Bên thắng cuộc"!
Hàn
Giang Trần Lệ
Tuyền
Quả đúng như thế;
bởi không phải chỉ mới góp mặt trong cuốn ngụy thư: "Bên thắng cuộc",
mà từ những năm xưa, trước ngày 30/4/1975, Phan Xuân Huy đã là một tên giặc, từng
đứng về "bên thắng cuộc". Vậy, trước khi nói về sự góp mặt của Phân
Xuân Huy trong cuốn ngụy thư: "Bên thắng cuộc", nên người viết phải
nói qua về Phan Xuân Huy như sau:
Phan
Xuân Huy, là con của ông bà Phan
Xuân Cáo, chánh quán tại làng Bảo An, Điện Bàn, Quảng Nam (nay là xã Điện
Quang, huyện Điện Bàn, QN). Có căn nhà trên đường Nguyễn Du, Đà Nẵng. Ngày xưa,
vào những năm "tranh đấu" lẫy lừng, Phan Xuân Huy đã nằm trường kỳ
trong "khối Ấn Quang". Sau này, khi được "khối Ấn Quang"
đem "trồng" trong Hạ Viện của Việt Nam Cộng Hòa tới hai nhiệm kỳ.
Vì
thế, Phan Xuân Huy, với cái vỏ bọc là "dân biểu" của thành phố Đà Nẵng,
Huy đã là một tên giặc, trong mọi trận giặc, đã từng gieo rắc những tang
thương, máu lửa cho đồng bào, trong số đó, đã có không ít những trẻ em vô tội,
đã bị đốt chết cháy, bị đánh đập một cách hết sức tàn độc, trước khi bị treo cổ
lên chiếc cổng của Phường Thanh Bồ-Đức Lợi, tại thành phố Đà Nẵng, vào ngày
24/8/1964.
Trong cuốn ngụy
thư: "Bên thắng cuộc"; tác giả Huy Đức, là một trong những kẻ
từng cầm súng trong đoàn quân của đảng Cộng sản Hà Nội, là đảng cầm quyền của
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đã xua quân xâm lăng nước Việt Nam Cộng Hòa, và
đã từng cầm bút trong các báo chí của đảng Cộng sản Việt Nam.
Một kẻ đã và đang
đứng bên kia chiến tuyến, đã cầm súng trong hàng ngũ của quân xâm lăng Cộng sản,
để bắn giết dân lành tại miền Nam: Việt Nam Cộng Hòa. Vì thế, sự ra đời của cuốn
ngụy thư: "Bên thắng cuộc" với sự góp mặt của những kẻ từng "ăn cơm
Quốc Gia, thờ ma Cộng sản", cùng với những tên Việt cộng nằm vùng như
"bân biểu" Phan Xuân Huy, thì lẽ đương nhiên, không có điều gì
là lạ cả.
Tuy nhiên, đã
có một số báo chí tại hải ngoại lại quảng cáo cho "Bên thắng cuộc".
Điều ấy, đã cho chúng ta, những người Việt yêu nước chân chính, mà đặc biệt, những
người Việt Quốc Gia, những công dân của nước Việt Nam Cộng Hòa, đã từng phải nuốt
nước mắt, khi bắt buộc phải rời xa Quê Hương, để chạy trốn Cộng sản, bằng nhiều
con đường khác nhau, từ di tản, vượt biên, vượt biển, với vô số những người đã
chết thảm trên ngàn, bưới biển, kể từ ngày 30/4/1975.
Phan Xuân Huy, với cái vỏ bọc là "dân biểu" do "khối
Ấn Quang" đã "trồng" vào Hạ Viện của Việt Nam Cộng Hòa, để hoạt
động Cộng sản một cách hợp pháp. Tuyệt nhiên, Phan Xuân Huy không hề có
một hoạt động hữu ích với tư cách của một người dân cử.
Phan Xuân Huy, một "dân biểu", nhưng lại luôn luôn đánh
phá chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, và giết hại dân lành. Với những "công lao
dâng đảng" của Phan Xuân Huy, thì nhân đây, người viết tự thấy phải
nhắc lại, qua những sự kiện ở các bài khác, mà người viết đã nói về những
"thành tích" của Phan Xuân Huy ngay tại một thành phố thân yêu của mình:
thành phố Đà Nẵng như sau:
Phan
Xuân Huy trong cuộc thảm sát tại hai phường Thanh Bồ-Đức Lợi, 24/8/1964, tại Đà
Nẵng:
Ngày ấy, Phan
Xuân Huy từng ở trong đoàn quân của "Khối ấn Quang", với những
nguyên nhân mà những kẻ cầm đầu đã đưa ra đều không đúng với mục đích chính. Vì
tất cả không hề có một chút gì dính dáng đến đồng bào miền Bắc di cư tại hai
phường Thanh Bồ và Đức Lợi.
Như tất cả quý vị, những ai có đọc sách, báo, hay
đã từng theo dõi qua các biến cố trước ngày mất nước, đều đã biết đến cái
nguyên nhân của cuộc tấn công Thanh Bồ-Đức Lợi là bởi cái “Hiến chương Vũng Tàu”,
do tướng Nguyễn Khánh công bố. Nhưng thật vô cùng tàn ác, vì "khối Ấn Quang"
đã mượn cái “Hiến Chương Vũng Tàu” để đánh giết và tiêu trừ đồng bào miền Bắc
di cư. Vì đồng bào miền Bắc nói chung, và đồng bào Thanh Bồ-Đức Lợi nói riêng
KHÔNG hề dính dáng,và cũng KHÔNG ủng hộ tướng Nguyễn Khánh hay cái “Hiến Chương
Vũng Tàu”.
Nhưng cũng thật vô cùng phi lý, khi "khối Ấn Quang" thành
lập “Hội đồng Nhân dân Cứu quốc”, tại Đà Nẵng do Thích Đôn Hậu “lãnh đạo”. Và
nói là để “phản đối Hiến Chương Vũng Tàu”; nhưng rồi sau đó lại tấn công, đánh,
giết ông Trần Sô và đồng bào miền Bắc di cư. Đồng thời đốt sạch nhà cửa của họ.
Tôi cũng xin nói thêm, là cũng cùng thời gian "khối Ấn Quang" cũng đồng
loạt phong tỏa các khu định cư của đồng bào miền Bắc như: Thanh Bình, Tam Tòa,
Phước Tường và Sơn Trà, để chuẩn bị tấn công như Thanh Bồ-Đức Lợi.
Nhưng, như
người dân Đà Nẵng đã từng nói với nhau rằng: Có lẽ những tiếng kêu cầu đầy nước
mắt, đau thương, tang tóc của đồng bào trong cơn máu lửa, đã thấu đến tận Trời
cao. Nên ông Trời đã nhủ lòng xót thương, mà cứu vớt những đồng bào trong các
khu dân cư còn lại.
Trở lại với cái gọi
là “Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc”. Tại Đà Nẵng: Ngày 24/8/1964, Thích Đôn Hậu,
Chánh đại diện Phật giáo miền Vạn Hạnh (miền Trung) đã đưa “Lực lượng Phật giáo
Cứu quốc” từ Huế vào Đà Nẵng. Trong đó, có những tên quen thuộc như sau:
Bác sĩ Lê Khắc Quyến:
Chủ tịch Trung ương Hội đồng Nhân dân Cứu quốc, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ
Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Lê Tuyên, Tôn Thất Dương Kỵ, Tôn Thất Hanh ... Và
khoảng hai ngàn “Thanh niên Phật tử Cứu quốc” vào Đà Nẵng, kết hợp với “Lực lượng
Phật giáo Cứu quốc Đà Nẵng” với những tên cầm đầu như: Phan Xuân Huy, La
Thành Tỵ, Hà Xuân Kỳ, Phan Chánh Dinh, Vĩnh Kha, Vĩnh Linh, Hồ Công Lộ, Nguyễn
Văn Lương, Lê Văn Tương, Nguyễn Văn Côn, Nguyễn Văn Tổng ...
Phía "khối Ấn
Quang" gồm có: -Thích Minh Chiếu, Thiếu tá Trưởng phòng Tuyên úy Phật giáo
Vùng 1 Chiến thuật, kiêm Chánh Đại diện Tỉnh hội Phật giáo Đà Nẵng.
- Thích Hạnh Đạo,
Đại úy Tuyên úy phó Đại diện Tỉnh hội Phật giáo Đà Nẵng. Thích Hạnh Đạo đã chết
tại Hoa Kỳ.
- Thích Minh Tuấn:
Ngày 30/4/1975, là Hiệu trưởng trường Trung học Bồ Đề, Đà Nẵng, đã đích thân dẫn
đầu “Lực lượng Hòa hợp-Hòa giải Phật giáo” và đã đưa cả đoàn xe ra tận đèo Phú
Gia để đón bộ đội Bắc Việt của Nguyễn Chơn tướng Việt cộng, vào thành phố Đà Nẵng
mà tôi đã viết qua bài 30/4/1975: Máu và Nước Mắt. ( sau này, là Hòa thượng,
qua Đại hội ngày 01/10/2003, đã được “Suy cử” vào “Hội Đồng Giáo Phẩm Trung
Ương Viện Tăng Thống GHPGVNTN”.
- Thích Long Trí,
Chánh Đại điện Tỉnh hội Quảng Nam.
- Thích Như Huệ, Đại
úy Tuyên úy, phó Đại diện Tỉnh hội Quảng Nam. Hiện nay, là Hòa thượng, qua Đại
hội ngày 01/10/2003, Thích Như Huệ đã được “Suy cử” vào “Hội Đồng Giáo Phẩm
Trung Ương Viện Tăng Thống kiêm Chủ tịch Giáo hội Phật Giáo tại Úc và Tân Tây
Lan”.
- Thích Thiện
Duyên, Chánh Đại diện Tỉnh hội Quảng Tín.
Khủng
Bố và Giết Người:
Từ sáng sớm ngày 24/8/1964,
Các "khuôn hội Phật giáo" Quảng Nam-Đà Nẵng, đã kết hợp với Phan
Xuân Huy, La Thành Tỵ , Hà Xuân Kỳ, Phan Chánh Dinh, Vĩnh Kha, Vĩnh Linh, Hồ
Công Lộ, Nguyễn Văn Lương, Lê Văn Tương, Nguyễn Văn Côn, Nguyễn Văn Tổng ...
Những tên cầm đầu
này, đã ra lênh cho Phật tử tập trung về chùa Pháp Lâm ở số 500, đường Ông Ích
Khiêm Đà Nẵng, để đi biểu tình. Mặt khác, Phan Xuân Huy và các
"thầy" ra lệnh cho “Lực lượng Thanh niên Phật tử Cứu quốc” tay cầm gậy
gộc, gạch, đá xông vào các chợ buộc đồng bào phải bãi thị để đi biểu tình. Điều
này, trong “Mùa Biển Động, tập 1” nhà văn Nguyễn Mộng Giác có viết, nhưng không
đầy đủ, tôi xin được trích nguyên văn như sau:
“Ban chủ biên tờ
Lập Trường, Giáo hội Phật giáo miền Trung, cử cán bộ đi vào, đi ra đèo Hải Vân
như thoi dệt cửi. Trong các địa phương, Mặt trận hy vọng tổ chức được các chi
nhánh hùng hậu. Đà Nẵng là chỗ có nhiều hy vọng nhất. Còn Quảng Nam, Quảng Ngãi
ư ? Thế lực Quốc Dân Đảng cực đoan mạnh quá, trong khi Phật giáo lại yếu kém rời
rã ... Tường đích thân vào Đà Nẵng lo phát động phong trào là do vậy.
Chàng
không bao giờ xem thường thế lực Công Giáo ở đây, là các khu giáo dân bao quanh
thành phố ... Đà Nẵng không phải là chỗ dễ bác sĩ Chủ tịch đã vỗ vai cẩn thận dặn
dò Tường... “ Và “ Không thể chấp nhận được rằng:
Trong lúc mình thao thức với
tình hình đất nước, lại có những người dân Đà Nẵng thản nhiên ngồi quán phở, thản
nhiên ngồi quán chờ từng giọt cà phê rơi xuống cái ly sữa, thảnh thơi đi chợ,
thảnh thơi đi bát phố. Họ cũng không chấp nhận cả những kẻ bỏ Đà Nẵng tất bật rối
rít lên sân ga, bến xe, bến phà để đi làm ăn nơi khác ...
Cho nên trước cuộc biểu
dương thành hình. Nhiều toán học sinh lực lưỡng cầm gậy, đến các chợ buộc bạn
hàng bãi thị, lên bến xe buộc tài xế, lơ xe nghỉ việc. Giới chợ búa đâu có chịu
nhượng bộ dễ dàng ...”
Quý độc giả đã đọc
qua bài 30/4/1975: Máu Và Nước Mắt và Cuộc Bạo Loạn Miền Trung: Mùa Hè 1966.
Bây giờ lại đọc những dòng của nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã viết. Chắc quý vị đã
biết qua các biến cố ấy, đã có rất nhiều người Bị đi biểu tình, Bị
đi diễn hành chứ không phải do tự nguyện.
Và người viết tự
thấy, phải cần nói đến những hành vi khủng bố của “Thanh niên Phật tử Cứu quốc”.
Khi đám này dùng gậy gộc lùa được một số đồng bào từ các chợ đến “chùa” Pháp
Lâm, thì tại sân chùa cũng đã đủ mặt “Lực Lượng Phật Tử Cứu Quốc”. Những tên
côn đồ này là tự nguyện, vì đã đi theo tiếng gọi của ... thầy chùa. Tại “chùa”
Pháp Lâm.
Người cầm đầu “Lực
lượng Phật giáo Cứu quốc” là Thích Minh Chiếu với chức Thiếu tá Trưởng phòng
Tuyên Úy Phật giáo Vùng 1 Chiến thuật. Y đã trang bị vũ khí cho “Thanh niên Phật
tử Cứu quốc”. Thích Minh Chiếu và Phan Xuân Huy đã ra lệnh cho
đoàn biểu tình phải đi đến sân vận động Chi Lăng, tại đường Đông Kinh Nghĩa Thục
để dự “mít-tinh”. Nhưng một điều đã làm cho người dân cả thanh phố Đà Nẵng, đều
phải kinh hoàng, khủng khiếp.
Đó là lúc đoàn biểu tình đang đi từ “chùa” Pháp
Lâm đến trước phòng mạch của Bác Sĩ Thái Can (tức thi sĩ Thái Can), ở ngã ba đường
Hùng Vương-Triệu Nữ Vương, nhìn xéo sang rạp hát Chợ Cồn. Thì cũng là lúc ông
Trần Sô một Hạ sĩ quan thuộc chi khu Điện Bàn, Quảng Nam, vừa dắt đứa con trai
mười tuổi đi khám bệnh ở phòng mạch của Bác Sĩ Thái Can. Lúc ông Trần Sô vừa ra
khỏi phòng mạch, một tay ông dắt chiếc xe đạp, tay kia dắt đứa con nhỏ. Vừa ra
đến cổng, thì trong đoàn biểu tình bỗng có nhiều tiếng la lớn:
“A...
Cái thằng Cần Lao ác ôn... Nó là thằng Cần lao ác ôn... Bắt nó đi... Đánh cho
chết nó đi... .”
Đứa con nhỏ của
ông Trần Sô sợ quá, nên chui vào phía trong cổng, và đã được cứu sống. Còn ông
Trần Sô không sao thoát được, vì lũ côn đồ này quá đông. Chúng liền xông vào,
tóm lấy ông rồi dùng gậy gộc, gạch, đá, nắm đấm, chân giày, chúng thi nhau
đánh, đấm, đạp cho đến khi ông đã chết hẳn, toàn thân và áo quần ông nhuộm đầy
máu. Nhưng chúng vẫn chưa tha. Chúng còn xúm nhau bê một tảng đá lớn, đem giáng
thẳng xuống mặt của ông, làm cho đầu ôngphải bị bẹp dí sát mặt đường, máu và óc
của ông hòa lẫn thành một bãi bầy nhầy trắng, đỏ, hồng, chẳng ai còn thấy mặt
mũi của ông nữa cả.
Sau đó, khi đoàn
biểu tình bỏ đi, nhờ những giấy tờ tùy thân trong túi áo của ông, đồng bào đã
xác định tên họ của ông, nên họ đã cho người nhắn tin cho thân nhân đi nhận
xác. Nhận được hung tin, một người nỗi tiếng tại Quảng Nam đó là Học giả Trần
Thuyên, ông là con trai út của nhà cách mạng Trần Quý Cáp, đã đến nhận xác ông
Trần Sô là cháu gọi ông Trần Thuyên là chú. Khi nhận xác ông Trần Sô cụ Trần
Thuyên đã thốt lên: “Thật vô cùng dã man.”.
Trước cảnh thương
tâm ấy, chính Bác Sĩ Thái Can đã giúp hai ngàn đồng (tiền VNCH), để chôn cái
xác không đầu của ông Trần Sô. Điều này, trước đây khi Bác Sĩ Thái Can còn khỏe
người viết đã có viết qua trên Văn Nghệ Tiền Phong. Song không phải là một bài
viết về cuộc thảm sát Thanh Bồ-Đức Lợi, nên không đầy đủ. Học giả Trần Thuyên
hiện đang có mặt tai Hoa Kỳ.
Cụ đã cho xuất bản cuốn sách “Tôi Đã Chọn” Cụ đã
chọn con đường vác Thánh Giá. Cái chết của ông Trần Sô, một quân nhân gương mẫu,
một người hiền lương. Còn ông có phải Cần Lao hay không, chẳng ai biết được.
Nhưng nếu là Cần Lao thì phải chết thảm như thế hay sao? Vì thế, cái chết đau
thương của ông Trần Sô, thì cho đến hôm nay, và mãi mãi không thể phai mờ trong
tâm trí người dân Đà Nẵng.
Sau
khi giết chết ông Trần Sô. Thích Minh Chiếu và Phan Xuân Huy, ra lệnh cho
đoàn biểu tình tiếp tục đi đến sân vận động Chi Lăng dự “mít-tinh”. Với khẩu hiệu:
"Đả đảo Mỹ-Khánh". Đến cuối cuộc "mít-tinh", số đồng bào đã
bị lùa ở các chợ đi biểu tình cứ tưởng rằng sẽ được cho về. Không ngờ, Thích
Minh Chiếu và Phan Xuân Huy lại ra lệnh tất
cả phải xuống Tòa Thị Chính Đà Nẵng. Khi đến trước Tòa Thị Chính ở đường Bạch Đằng,
“Lực Lượng Phật Giáo Cứu Quốc” đã dùng loa
phóng thanh kêu gọi Hải quân Đại tá Lê Quang Mỹ, Thị trưởng Đà Nẵng phải ra
trình diện, và phải bàn giao chức Thị trưởng Đà Nẵng cho Phan Xuân Huy. Đại tá
Lê Quang Mỹ không chấp nhận, nên ông đã trốn ra cửa sau, rồi chạy ra Duyên Khu
Hải Quân Tiên Sa, để tỵ nạn "Lực lượng Phật giáo cứu quốc"!
Sau cả giờ gào
thét rã hơi, mà vẫn không thấy bóng dáng của Đại tá Lê Quang Mỹ ở đâu cả.
"Lực lượng Phật giáo cứu quốc", đứng đầu là Thích Minh Chiếu, Thích
Như Huệ, Thích Hạnh Đạo, Thích Long Trí, Thích Thiện Duyên, Thích Từ Mẫn, Thích
Minh Tuấn ... Phan Xuân Huy, La Thành Tỵ..., đã ra lệnh cho “Lực Lượng
Phật Giáo Cứu Quốc” xông vào Tòa Thị Chính lục soát. Chúng đã lùng xét từng
phòng, nhưng không tìm thấy Đại tá Lê Quang Mỹ, nên lũ lục lâm này tưởng rằng Đại
tá Lê Quang Mỹ đang trốn một chỗ bí mật nào đó, chứ không thể chạy ra ngoài được.
Vì vậy, chúng đã đập phá hết các vật dụng văn phòng, rồi dùng xăng tưới vào các
phòng và châm lửa đốt cháy Tòa Thị Chính Đà Nẵng. Duy có một điều đã khiến mọi
người dân Đà Nẵng đều phải khiếp sợ "khối Ấn Quang". Ấy là tất cả các
cuộc biểu tình, các “thầy” đều ra lệnh cho “Phật tử ruột” khi đi “biểu tình” phải
đem theo đầy đủ gậy gộc, gạch, đá... và bắt buộc phải mang xăng theo. Vì thế, tất
cả những cuộc “biểu tình” đều có lửa và máu!!!
Khi nói đến Thanh Bồ, thì nhiều người đều có kèm theo Đức Lợi. Vì phường Thanh Bồ nằm phía mặt tiền, cổng quay mặt ra đường Đống Đa, còn phường Đức Lợi lại nằm phía sau Thanh Bồ sát bờ biển. Ngoài chiếc cổng nhỏ ở góc đường Bạch Đằng, người dân Đức Lợi và Thanh Bồ thường ra vào thành phố cùng một cánh cổng chính dẫn ra đường Đống Đa. Ngoài ra, hai khu này đa số là đồng bào miền Bắc di cư. Bởi thế, mọi người đều gọi chung là Thanh Bồ-Đức Lợi.
Sau khi đốt cháy tòa Thị Chính Đà Nẵng thì Thích Minh Chiếu, Thích Như Huệ, Thích Hạnh Đạo ... Phan Xuân Huy, La Thành Tỵ ... là đám cầm đầu ra lệnh cho đoàn biểu tình đi thẳng xuống Thanh Bồ- Đức Lợi.
Lúc Lực Lượng Phật Giáo Cứu Quốc đến trước một cao ốc cho Mỹ thuê, phía trái cánh cổng Thanh Bồ, quay mặt ra đường Đống Đa. Đám này đã kiếm chuyện gây hấn với các nữ công nhân tại cao ốc này, chúng hét to bằng những lời lẽ hạ cấp, tục tỉu, vô giáo dục nhưng người viết chỉ ghi lại một câu thôi, nguyên văn như sau :
"Ê ! Mấy con đĩ Mỹ ... Mấy con đĩ Mỹ ..."
Lúc đó, các nữ công nhân đang lau nhà ở lầu 01. Bỗng nghe những lời lẽ ấy. Tự ái và danh dự bị tổn thương. Nên trong số người đó, có chị Phạm Thị Liễu quê ở xã Kỳ Hà, Quảng Tín, ra Đà Nẵng làm công. Vì uất ức nên chị Liễu đã bưng nguyên xô nước bẩn đang lau nhà đem tạt thẳng xuống đầu đám "Phật giáo Cứu quốc".
Việc làm này của chị Liễu, nếu bình tâm mà suy xét, thì không thể trách chị được. Bởi các chị ấy, là những người dân từ các làng quê đã bị Việt cộng đánh chiếm, hoặc đã mất an ninh vì sợ bị VC bắt đưa lên rừng núi làm du kích, nên họ đã chạy về thành phố, nhưng chính quyền lại vô trách nhiệm, chẳng hề giúp đỡ một chút gì cả. Nên họ phải tự tìm cách để mưu sinh. Họ là những phụ nữ thật đáng thương. Ngược lại, "Phật giáo cứu quốc" chẳng những không hề thương xót, mà lại còn buông những lời hạ nhục họ nữa ? !!!
Nhưng, mọi chuyện chưa kết thúc ở đó. Vì sau khi bị tạt nước lau nhà, "Lực Lượng Phật Giáo Cứu Quốc" trong số đó, có Phan Xuân Huy, đã dùng gạch, đá ném lên tòa cao ốc này, làm mấy cánh cửa kiếng vỡ tan. Thấy vậy, một người lính Hoa Kỳ mới dọa bằng cách lấy súng tùy thân bắn mấy phát chỉ thiên. Rồi bảo công nhân vào nhà đóng cửa lại.
Không làm gì được chị Liễu. "Lực lượng Phật giáo Cứu quốc" bèn kéo nhau tới trước cổng Thanh Bồ. Tay múa gậy, mồm la hét :
"Cần Lao ác ôn ! Chúng mầy ở trong nầy ! Chúng mầy ra đây ! Chúng mầy không ra, thì chúng tao cũng vô lôi cổ chúng mầy ra mà đánh cho chết hết".
Tiếp theo là những tiếng hét to hơn :
"Bọn Cần Lao ác ôn, chúng nó ở trong nầy ! Vô đi ! Vô đi ! Giết sạch hết đi !"
Nghe những tiếng la hét như thế, đồng bào có mặt ở đó cứ tưởng là chúng la cho đỡ tức, vì bị tạt nước bẩn. Không ai ngờ là chúng giết người thật.
Thanh Bồ-Đức Lợi Máu Lửa :
Khi nghe những tiếng la hét vang dậy của lũ lục lâm. Và thấy đồng bào hoảng hốt. Vì Thanh Bồ-Đức Lợi cũng là khu Tổng kho, trong đó gồm có : Kho gạo, kho lương thực … Nên các chủ kho là những người đã có sáng kiến xây dựng lên chiếc cổng, mục đích để bảo vệ an ninh và tài sản của các kho. Họ thấy lo sợ nên đã bảo hai thiếu niên Phòng Vệ Dân Sự (PVDS) ra đóng cổng lại.
Thấy vậy, "Lực Lượng Phật Giáo Cứu Quốc"; trong đó, có Phan Xuân Huy liền xúm nhau xông vào phá cổng và túm lấy hai thiếu niên, rồi dùng gậy gộc, gạch, đá, nắm đấm, chân giày. Chúng cũng đã xúm nhau vào đấm, đá, đánh, đạp vào tấm thân gầy yếu của hai em, cho đến khi cả hai đếu gục chết.
Thương xót hai em, một Hạ sĩ quan Không quân không biết từ đâu chạy ra tìm lời phân giải. Thì lập tức lũ côn đồ này liền vồ lấy vị quân nhân, rồi cũng dùng gậy gộc, gạch, đá, đánh anh cho đến khi chết hẳn.
Nhưng "Phật Giáo Cứu Quốc" cũng chưa chịu buông tha. Mà chúng cùng nhau bẻ thép kẽm gai ở bờ tường rào, đem cột vào cổ hai thiếu niên và vị quân nhân; rồi chúng xúm nhau đem treo cả ba cái xác chết này lên cổng Thanh Bồ mới hả dạ!
Trước mắt mọi người lúc ấy. Xác chết của hai em bé, bị treo lơ lửng trên cổng Thanh Bồ. Hai cái cổ của hai em bị gãy nơi bị cột thép gai, máu ứa ra từ những chỗ có mắt kẽm gai đâm vào. Đầu ngã sang một bên. Áo quần đẫm máu. Cả khuôn mặt đã biến dạng, sưng vù. Bốn dòng máu đỏ sẫm ứa ra từ hai chiếc miệng của hai em dù đã chết; nhưng bốn con mắt ngây thơ của hai em đều mở to nhìn xuống đám “ người” đã nhân danh là "Lực Lượng Phật Giáo Cứu Quốc"; trong số đó, có Phan Xuân Huy!
Nhưng chưa hết. Bởi trong cơn say máu người "Phật Giáo Cứu Quốc", trong đó, có Phan Xuân Huy, đã ồ ạt xông vào khu dân cư Thanh Bồ-Đức Lợi. Tay vung gậy gộc, gạch, đá mồm la hét :
"Cần lao ác ôn đâu ! …Giết hết …"
Rồi có những tiêng la to :
"Hãy đốt nhà chúng nó ! Đốt hết ! Đốt sạch đi…"
Chúng cũng đã dùng loa phóng thanh kêu gọi :
"Yêu cầu đồng bào Quảng Nam, hãy mau mau tách rời khỏi dân Bắc cầy, và gia nhập vào Lực lượng Phật giáo Cứu quốc, thì nhà sẽ được chừa ra không bị đốt".
Nhưng đồng bào Quảng Nam chẳng có một người nào chịu nghe lời của chúng cả. Vì chỉ có người ngu tới tin là "Gia nhập LLPGCQ, thì nhà sẽ được chừa ra không bị đốt". Vì lửa đâu có biết phân biệt cái nhà nào là của người Quảng hay người Bắc. Bởi nhà cửa liền nhau, hể đốt một cái, thì lửa nó sẽ lan ra, cháy sạch hết cả hai phườngThanh Bồ-Đức Lợi.
Vả lại, qua những năm dài chung sống với người Bắc di cư, người Quảng Nam đâu có thấy "Cần Lao ác ôn" ở chổ nào, mà họ chỉ thấy đồng bào miền Bắc với những tấm lòng đầy nhân ái. Vì thế, máu của đồng bào Quảng Nam đã hòa lẫn với máu của đồng bào miền Bắc trong cuộc thảm sát Thanh Bồ-Đức Lợi !
Sau một hồi la hét, chẳng thấy bóng dáng ai cả. Chúng đã dùng xăng tưới vào mấy căn nhà nhà của đồng bào ở đầu con đường chính dẫn vào Thanh Bồ-Đức Lợi và châm lửa đốt.
Lúc này, dân Thanh Bồ-Đức Lợi đa số là ngư dân nên đàn ông đã ra biển. Chỉ còn đa số là phụ nữ và trẻ em.
Khi ngọn lửa bốc cháy, thì những người không ra biển hôm ấy, đã kêu gọi mọi người chạy ra phường Đức Lợi ở ven biển phía sau Thanh Bồ. Rồi tất cả đồng bào Thanh Bồ- Đức Lợi, đều bồng bế nhau lên thuyền cùng chạy ra khơi để tỵ nạn "Lực lượng Phật giáo cứu quốc"!
Trừ bốn nạn nhân đã bị chết thảm trước mắt đồng bào, đó là : Ông Trần Sô sau khi bị đánh chết, đã bị dập đầu, hai em bé và vị Hạ sĩ quan Không quân sau khi bị đánh chết đã bị treo cổ trên cổng Thanh Bồ bằng thép kẽm gai. Ngoài ra, không ai biết chính xác được về con số thương vong, trong cuộc thảm sát này. Vì ngay cả chính quyền lúc ấy đã làm ngơ, không hề để tâm đến, không hề giúp đở đồng bào lâm nạn. Nhưng người ta đều biết đã có những cụ già, em bé, phụ nữ mang thai không chạy kịp, nên sau đó người thân chỉ còn tìm lại được nắm xương khô trong đống lửa đã tàn, vì cả hai phường Thanh Bồ-Đức Lợi đã bị cháy sạch!
Riêng số đồng bào chạy thoát được lên thuyền, cũng lâm vào cảnh rất thương tâm: Bởi, khi cố chạy từ trong đám cháy để thoát thân, nên rất nhiều người lớn, bé đã bị bỏng, bị thương, mà họ không hề mang theo được một thứ gì để cứu thương cả. Vì thế, có những phụ nữ mang thai đã sinh non trên thuyền, đã chết cả mẹ lẫn con.
Đến lúc các thuyền tìm cách đưa những người bị thương đến các bệnh viện, thì có người đã chết. Còn các bệnh viện lúc ấy đã chứa đầy bệnh nhân và cũng là nạn nhân của "Lưc lượng Phật giáo cứu quốc" tại Thanh Bồ-Đức Lợi!
Phan
Xuân Huy trong cuộc bạo loạn bàn thờ Phật xuống đường tai Đà Nẵng, mùa Hè 1966:
Như người viết đã
nói về nguyên do và mục đích của cuộc bạo loạn bàn thờ Phật xuống đường. Bây giờ
người viết xin trở lại từ những ngày đầu:
Sau khi tướng Nguyễn
Chánh Thi trở về Đà Nẵng, nhưng chính phủ cương quyết không phục chức theo yêu
sách của "khối Ấn Quang". Thấy vậy, "khối Ấn Quang" lại đòi
phải thành lập chính phủ dân sự. Mặc dù biết những đòi hỏi của "khối Ấn
Quang" là quá đáng, nhưng Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy ban Lãnh
đạo Quốc gia, đã triệu tập Quốc dân đại hội và tuyên bố sẽ tổ chức bầu cử Quốc
hội Lập hiến trong vòng sáu tháng. Song, vì chưa đạt được mục đích nên "khối
Ấn Quang" lại tiếp tục biểu tình. Lần này với những biểu ngữ và dùng loa phóng
thanh hô to những khẩu hiệu :
"Đả
đảo Thiệu-Kỳ, Thiệu-Kỳ phải từ chức".
Khi nhắc lại điều
này, người viết muốn hỏi "khối Ấn Quang": tại sao từ sau ngày
30-4-1975, cho đến nay, "khối Ấn Quang" vẫn luôn kêu gào nào là từng
bị Việt cộng bỏ tù, áp bức, pháp nạn… Như vậy, tại sao "khối Ấn
Quang" không tổ chức biểu tình đả đảo cộng sản, đòi Nguyễn Tấn Dũng,
Trương Tấn Sang… phải từ chức, không đem bàn thờ Phật xuống đường như mùa hè
1966, không thành lập "Lực lương Phật tử Quyết Tử"… như trước kia;
trong khi vẫn ca rằng Việt Nam có tới 90% là Phật tử ?
Trở lại cuộc nổi
loạn, khi chính phủ không từ chức, vì từ chức rồi giao chính quyền cho ai ? Chẳng
lẽ giao cho thầy chùa ? Vì vậy, "khối Ấn Quang" bắt đầu cuộc bạo loạn
bằng việc công khai tuyên bố đã thành lập "Quân đoàn Cách mạng Vạn Hạnh".
Thích Minh Chiếu là Tư lệnh Quân đoàn. "Tổng hành dinh" được đặt tại chùa
Phổ Đà, ở số 340 đường Phan Châu Trinh, Đà Nẵng, như người viết đã nói ở trên.
Lúc này, Thích Đôn
Hậu đã kéo một đám đệ tử từ Huế vào Đà Nẵng. Trong số này, có những tên cũng đã
từng chỉ huy "Đoàn Thanh niên Phật tử Cứu quốc" trong cuộc tấn công
hai phường Thanh Bồ và Đức Lợi vào ngày 24-8-1964, như các tên sau đây:
Hoàng Phủ Ngọc Tường,
Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Lê Tuyên …và hơn hai ngàn thanh niên, hợp
lại cùng với đám đệ tử tại Đà Nẵng cũng đã từng sát cánh với nhau trong cuộc thảm
sát Thanh Bồ như: Phan Xuân Huy, Phan
Chánh Dinh, La Thành Tỵ, Vĩnh Kha, Hồ Công Lộ, Hà Xuân Kỳ …
Sau khi vào Đà Nẵng,
Thích Đôn Hậu và đám đệ tử tập hợp tại chùa Pháp Lâm, tức chùa tỉnh giáo hội Phật
giáo Quảng Nam-Đà Nẵng, là cơ quan chỉ đạo chính trị, ở số 500 đường Ông Ích
Khiêm. Chính tại chùa Pháp Lâm, Thích Đôn Hậu đã nhân danh Chánh Đại diện Giáo
hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Miền Vạn Hạnh ( tức miền Trung ) dùng truyền
đơn và loa phóng thanh phát lời kêu gọi :
"…Các
quân nhân Phật tử hãy mau mau quay về gia nhập Quân Đoàn Cách Mạng Vạn Hạnh,
các Phật tử trong mọi nghành cảnh sát, công tư chức, sinh viên học sinh, thanh
niên và đồng bào Phật tử hãy gia nhập lực lượng đấu tranh để lật đổ chính phủ Thiệu-Kỳ".
Phan
Xuân Huy và ngày 29/3/1975, tại Đà Nẵng:
Ngày
29/03/1975, tại Đà Nẵng, thành phố
thân yêu của người viết, vì nhờ có "ông lao" của "Lực lượng Hòa hợp Hòa giải" của "khối Ấn
Quang" đã đưa từng đoàn xe ra tận núi rừng để đón rước bộ đội Bắc Việt vào
thành phố sớm hơn một tháng.
Người viết đã chứng
kiến từ ngày 20/03/1975, với từng đoàn người di tản từ các tỉnh Trị-Thiên,
Nam-Tín-Ngãi, đổ về Đà Nẵng mỗi ngày một đông, họ chỉ mong được lên tàu di tản
vì ở những nơi đó VC đã hoàn toàn kiểm soát, không còn gì để hy vọng!
Tại Đà Nẵng, trong
khi từng đoàn người bồng bế nhau chạy xuống bến Bạch Đằng, thì từng loạt pháo
kích của VC bắn theo nổ chặn đường, làm kẻ chết, người bị thương, ai còn sống,
bỏ tất cả lại để chạy thoát thân. Nhưng rồi chuyến tầu cuối cùng cũng đã rời bến
Bạch Đằng. Những người còn lại đành quay trở về. Trên đường phố từng toán người
dìu dắt nhau trở lại, sau khi trở về nhà, họ đóng cửa, chỉ nhìn ra đường qua cửa
sổ, họ đã sống trong những giờ phút hãi hùng, chờ đợi, không biết những gì sẽ
xãy ra. Thành phố ngưng mọi sinh hoạt.
Lúc này, "Lực
lượng hòa hợp, hòa giải" trong đó, có Phan
Xuân Huy, là "Thị trưởng Đà Nẵng". Thực ra, cái "hức
"Thị trưởng" này, là theo lệnh của đảng CS, Phan Xuân Huy đã
đóng vai "Thị trưởng Đà Nẵng" để đi dụ dỗ, lừa gạt những người quen
biết "hãy ở lại với cách mạng" với những "chức vụ" ma.
Trong số ấy, có bác sĩ Phạm Văn Lương, đã không chịu di tản, mà quyết định ở lại,
để làm "Thị trưởng Đà Nẵng", vì đã tin theo những lời lừa gạt của Phan
Xuân Huy rằng: Bác sĩ Phạm Văn Lương sẽ là "Thị trưởng Đà Nẵng",
để thay thế cho "Thị trưởng" Phan Xuân Huy, để cho Phan
Xuân Huy sẽ vào Sài Gòn "nhậm chức" khác… Chính vì thế, nên khi bị
Việt cộng bắt vào trại tù Kỳ Sơn, bác sĩ Phạm Văn Lương đã tự tử chết vì hối hận
và đau khổ. Những điều này, người viết không muốn viết thêm; bởi vì biết chắc sẽ
khơi lại những niềm đau cho những người còn sống! Riêng Phan Xuân Huy mặc
dù là dân biểu hai nhiệm kỳ, nhưng không bị bắt tù "cải tạo", mà vẫn
tiếp tục hoạt động ở "Bên thắng cuộc" cho đến ngày hôm nay.
Tạm kết:
Qua
bài này, người viết chỉ nói về Phan Xuân Huy, và những kẻ đã và đang là "đồng
chí" của Huy, để cho quý độc giả hiểu thêm rằng: Chắc chắn không phải vì vô tình mà tác giả
Huy Đức của"Bên thắng cuộc" đã đưa Phan Xuân Huy vào "sách"
của mình. Bởi
vì, nếu chỉ một bài báo, do thiếu thông tin, mà viết ra những điều sai sót, thì
có thể bỏ qua. Nhưng, khi muốn in thành sách, thì trước hết, bắt buộc tác giả,
phải kiểm chứng lại tất cả những điều mình đã viết, để khi in thành sách, thì mới
có giá trị khả tín.
Chính
vì những lẽ ấy, nên không riêng tác giả Huy Đức, của "Bên thắng cuộc",
mà tất cả những cuốn sách khác, đã viết về những điều lộng ngôn, vọng ngữ.
Nghĩa là, những điều hoàn toàn láo khoét, bịa đặt, thì hết thảy, đều chỉ là những
đống giấy lộn. Chỉ nên vứt hết vào một hố rác lớn, để cho những thứ ngụy thư,
và ngay cả tác giả của chúng, đều "được" nằm chung, và phải bị tiêu hủy
cùng với những thứ rác rưởi hôi tanh, bẩn thỉu, là những cặn bả, do từ mọi người
đã phế thải. Cũng như Lê Xuân Huy vậy.
Paris, 20/12/2012
Hàn
Giang Trần Lệ Tuyền
_______________________________________________________________
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Huy Đức là một nhà báo Việt Nam, có tên thật là Trương Huy San
Ông là người gốc Hà Tĩnh hiện sinh sống và làm việc tại Boston (Mỹ).
Từng tham gia trong quân đội, ông đã có hơn 3 năm ở Campuchia trong giai đoạn chiến tranh giữa Việt Nam với chính quyền Khmer đỏ, và "biết câu chuyện Khmer Đỏ chống lại Việt Nam chỉ 2 tuần sau khi nhờ Việt Nam mà có trong tay quyền bính"[1].
Sự nghiệp
Trước khi tham gia vào lĩnh vực báo chí ông là người viết văn, với các tác phẩm như Dòng sông cụt, Anh ấy sẽ trở về trên báo Văn nghệ Quân Đội[2] khi ông còn ở trong quân đội.
Ông bắt đầu làm việc ở báo tuổi trẻ tiếp đó là các báo thanh niên Diễn đàn doanh nghiệp Nông thôn ngày nay, Sài Gòn tiếp thị
Thằng "bộ đội cu Hồ" với cái mõm… và hàm răng cuốc chĩa, hay là cái bàn nạo.
--------------------------------------------------------------------
From: DN <
Subject: Tác-giã sách "Bên Thắng-cuộc" xin lỗi Lê-quang-Liễn
Date: Thursday, December 20, 2012, 8:52 AM
Subject: Tác-giã sách "Bên Thắng-cuộc" xin lỗi Lê-quang-Liễn
Date: Thursday, December 20, 2012, 8:52 AM
PHỔ-BIẾN
TỔNG-QUÁT
(Và trong BCC có 150 địa chỉ)
Do sự ủy-thác của cựu Th/T Lê-quang-Liễn danh hiệu Long-Hồ,
trân trọng chuyển tiếp tới quý Huynh-Đệ, và quý vi để đọc và xin nhờ tiếp tay phổ biến ... lời xác nhận và xin lỗi
của ông Huy-Đức, tác giả cuốn sách "Bên Thắng cuộc" về
vài vấn đề sau đây:
- Vài chi tiết trong sách dựa theo sự NGỤY-TẠO của cựu dân biểu Phan-xuân-Huy.
- Ông Huy Đức hứa sẽ chấn chỉnh sự sai sót này trong lần
"tái bản" sắp tới.
- Ngoài ra ông Liễn cũng yêu cầu ông Huy-Đức hãy gửi những lời
xin lỗi trên Facebook tới những cơ sở truyền thông đã giúp quảng bá cuốn sách
"Bên Thắng Cuộc" như RFA, Nhật báo Người Việt và ông gs
Trần Hữu Dũng ...
DNguyen
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
-----
Forwarded Message -----
From: Lien Le lienql@yahoo.com
Sent: Wednesday, December 19, 2012 7:25 PM
Subject: [diendanmuxanh] Tác giả Huy Đức xin lỗi
Kính gửi các NT, các bạn,
Sau khi gửi thư phản đối cho Huy Đức tác giả "Bên
Thắng Cuộc" về những ngụy tạo có liên quan đến tôi. Do phần trích từ bài viết
về Phan Xuân Huy, con rể của Dương Văn Minh,
(cựu dân biểu PX Huy là thành phần đối lập VNCH thuộc Ấn Quang) được
đăng tải trên báo Tin Sáng gần 40 năm trước về "ngụy quân".
Nay tôi đọc được phần xin lỗi của tác giả Huy Đức gửi cho tôi trên facebook.
Lê Quang Liễn
K20
===========================================
CHÂN-DUNG PHAN-XUÂN-HUY và HUỲNH-BÁ-THÀNH
Trong những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn, quân ngụy tuy
đã tan rã về tư tưởng nhưng vẫn còn một vài đơn vị chưa buông súng. Trong đó có
đơn vị biệt động chốt giữ cầu Sài Gòn.
Có một yêu cầu rất quan trọng của ta là không để địch phá cầu Sài Gòn, vì đây là tuyến đường cực kỳ quan trọng để một mũi chính của đại quân ta tiến thẳng vào Sài Gòn.
Có một yêu cầu rất quan trọng của ta là không để địch phá cầu Sài Gòn, vì đây là tuyến đường cực kỳ quan trọng để một mũi chính của đại quân ta tiến thẳng vào Sài Gòn.
Sáng
28/4/1975, đồng chí Huỳnh Bá Thành được nhà báo Cung Văn (Nguyễn Vạn Hồng) báo
cáo là quân dù đang chống trả khá quyết liệt ở khu vực cầu Sài Gòn với lực
lượng du kích của Thủ Đức. Nhà báo Cung Văn bị thương. Đồng chí Huỳnh Bá Thành
tìm cách liên lạc với Phan Xuân Huy để tác động Dương Văn Minh ra lệnh
cho quân ngụy không được phá cầu Sài Gòn.
Phan Xuân Huy là một dân biểu đối lập trong chế độ Sài Gòn, nhưng cũng là một trí thức yêu nước, có mối quan hệ thân thích với Dương Văn Minh. Ông Phan Xuân Huy là con rể của Dương Văn Minh (chồng của con gái nuôi Dương Văn Minh).
Sáng
29/4/1975, đồng chí Huỳnh Bá Thành nhắn Phan Xuân Huy đến Tòa soạn Báo Điện Tín
và nói: "Ở số 3 (Dinh Hoa Lan của Dương Văn Minh ở số 3 đường Trần Quý
Cáp, nay là đường Võ Văn Tần) có người đề nghị giựt sập cầu Sài Gòn. Anh phải
đến ngay đó để chặn lại. Đây là lệnh".
Phan Xuân Huy lập tức lái xe đến Dinh Hoa Lan. (Mời bấm
vô ==>
ĐÂY để đọc thêm)
******
LỜI XIN LỖI
CỦA TÁC GIẢ HUY ĐỨC trên Facebook:
Sách Bên Thắng Cuộc shared a link via Vu Thi Phuong Anh.
Ước chi tôi có thể gặp được ông Lê Quang Liễn trước khi viết cuốn sách này. Như tôi đã nói trong cuốn sách, phần lớn những bài báo viết về tù cải tạo hồi tháng 9-1975 đều là sản phẩm tuyên truyền. Việc Bên Thắng Cuộc trích đăng những bài viết mà báo chí lúc đó viết về quân đội Việt Nam Cộng hoà là để cho thấy họ không chỉ bị giam cầm mà còn bị tra tấn bởi cả công luận. Ông Lê Quang Liễn đúng là hiểu lầm, nhưng nhờ thế tôi mới có thể tìm thấy nhân vật của mình. Xin lỗi và xin cám ơn ông. Hy vọng việc xuất bản sách sẽ giúp tác giả gặp them những nhân chứng như ông Liễn để phỏng vấn thêm và để bổ sung tư liệu cho lần xuất bản tới.
*****
Thư của ông LÊ-QUANG-LIỄN gửi ông HUY-ĐỨC tác giả
cuốn "Bên Thắng Cuộc"
2012/12/15 Lien Le <
Thưa
tác giả Huy Đức,
Được
nghe, đọc nhiều quảng cáo trên internet về tác phẩm Bên Thắng Cuộc của ông .
Cho nên tôi cũng tò mò tìm đọc cho biết.
Trong
ChươngII, tiểu mục Ngụy Quân trang 52, tình cờ tôi đọc những điều người vợ cũ
của tôi (theo sách là gia đình "Cách mạng") và được Phan Xuân Huy phỏng vấn(?), viết về chuyến đi
thăm tôi ở trại tù tháng 9 năm 1975 và được đăng tải trên báo Tia Sáng năm 1975.Tôi
rất ngạc nhiên và ghê tởm, sau gần 40 năm mới hay, về những điều mà nhà báo
PXHuy đã viết ra và gán ghép cho kẻ vắng mặt vì những lý lẽ sau đây:
***trại
tù như một trại Hè
***ca
tụng về cuộc sống lành mạnh ở Trại tù
***.."
đã bị tên tướng ngụy
Bùi Thế Lân bỏ kẹt tại cửa Thuận An và đã cùng toàn bộ binh lính trong Tiểu đoàn
7 đầu hàng quân đội giải phóng..."
Thật ra toàn bộ anh em TQLC đã bị bắt, nếu anh
em chúng tôi ra hàng thì đã được hưởng qui chế đãi ngộ hàng binh như Phạm Văn
Đính và một số đồng bọn thuộc Trung Đoàn 56 . Vả lại, đơn vị chúng tôi lúc đó
thuộc quyền của Bộ Tư Lịnh Tiền Phương Quân Đoàn I. Ở đây , vị Tư lịnhTQLC
không có trách nhiệm nào hết. Người chịu trách nhiệm là Trung Tướng Lâm Quang
Thi mới đúng nghĩa hơn. Khi viết toàn bộ ra hàng là điều cố tình hạ nhục anh em
chúng tôi khi thất thế!!
Nếu ông Huy Đức biết rõ thêm về tôi là người tù cuối cùng của Lữ Đoàn 147 TQLC ra khỏi trại tù ngày 12 tháng 2 năm 1988 sau gần 13 năm tù ngục với 4 năm 7 tháng 24 ngày bị "kiên giam" còng tay, chân, bị đánh gảy xương sườn vì những chống đối tập thể trong Trại tù Bình Điền,Thừa Thiên. Thì phần trích dẫn từ bài viết của tên nhà báo PXHuy là thiếu trách nhiệm.
Nếu ông Huy Đức biết rõ thêm về tôi là người tù cuối cùng của Lữ Đoàn 147 TQLC ra khỏi trại tù ngày 12 tháng 2 năm 1988 sau gần 13 năm tù ngục với 4 năm 7 tháng 24 ngày bị "kiên giam" còng tay, chân, bị đánh gảy xương sườn vì những chống đối tập thể trong Trại tù Bình Điền,Thừa Thiên. Thì phần trích dẫn từ bài viết của tên nhà báo PXHuy là thiếu trách nhiệm.
Tôi
biết PXHuy là thành phần đối lập cơ hội với
chế độ VNCH trước năm 1975 mà tôi tận trung phục vụ. Có lẽ trong những
ngày tháng đầu sau ngày 30 thÍ
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment