anh truong A
To
Today at 11:09 AM
CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐÁNH DU KÍCH TRÊN BIỂN
tka23 post
Vietv
Nhip Song Quanh Ta May 24 P1
Vietv
Nhip Song Quanh Ta May 24 P2
Việt Nam không cần phải nhiều tàu để chống hải
quân với Trung cộng , nhưng thay vào đó họ có thể sự dung chiến tranh du
kích ở Biển Đông.
Mặc dù tàu của Việt Nam khộng
thể so với các tiêu chuẩn tàu chiến thế giới , nhưng sự nỗ lực của
Việt Nam trong việc phát triển hải quân ở khu vực nhằm cạnh tranh với lực lượng
ngày càng tăng của nước hàng giềng lớn hơn, Trung cộng .
Trong thời gian gần đây, Việt Nam dường như đã
mạnh tay hơn đối với các tranh chấp với Trung cộng ở Biển Đông. Khi
nền kinh tế Việt Nam phát triển, cũng đang phải đối mặt với các thiếu hụt
năng lượng, và tương tự như Trung cộng trong tiến trình
cải cách, cũng đang thèm khát các nguồn tài nguyên phong phú này.
Một số
mỏ dầu lớn ngoài khơi của Việt Nam, chẳng hạn như Bạch Hổ, dự tính
sẽ cạn kiệt vào năm 2020, do đó làm tăng thêm nhu cầu khám phá và đi sâu
ra ở các khu vực mới một cách cấp bách hơn.
Tuy nhiên, Trung cộng đã chứng minh
rằng họ sẽ sẵn sàng và có thể làm gián đoạn tất cả các hoạt động này qua
các nỗ lực kết hợp giữa Hải quân và các lực lượng bán quân sự đặc trách vùng
biển. Nước này đang ra sức để đạt được mục tiêu bá chủ Hải quân vào năm 2050,
với hkmh đầu tiên đã được đưa vào thử nghiệm trên biển cách đây không lâu.
Trong khi nhiều dự đoán và nỗ lực được tập
trung vào sự phát triển lực lượng hải quân của Trung cộng trong một
thập kỷ qua, thì ít có ai để ý đến các tham vọng quân sự ngày càng gia tăng của
Việt Nam. Trong năm 2009, Việt Nam đã mua 6 chiếc tàu ngầm tấn công với động cơ
diesel loại Kilo của Nga với khoảng 3,2 tỷ USD, một số tiền đáng kể trong
ngân sách quốc phòng của nước này và là hợp đồng xuất cảng hải quân
lớn nhất của Nga.
Hồi cuối năm 2011, nhà máy đóng tàu Schelde
của Hà Lan đã ký với Việt Nam các hợp đồng chế tạo bốn tàu hộ tống
loại Sigma, trong đó 2 chiếc sẽ được đóng trong nước dưới sự
giám sát của Hà Lan.
Cho tới thời điểm này, Hải quân Việt Nam không
phải là cơ quan duy nhất được nâng cấp hạm đội. Cảnh sát biển Việt Nam (VMP) đã
mua một số tàu tuần tra nước ngoài từ các tập đoàn Damen của Hà Lan, trong
đó bao gồm cả loại hơn 1.000 tấn và có thểmang theo máy bay trực thăng, và đây
sẽ là tàu lớn nhất của VMP. Việc này sẽ cung cấp năng lực đáng kể cho VMP trong
việc đối trọng lại với số lượng tàu 1.000 tấn cộng với Cơ quan Giám sát hàng
hải của Trung cộng ở Biển Biển Đông.
Đây chưa phải hoàn toàn là các điểm chính. Hợp
đồng này còn bao gồm các sản xuất được cấp phép và xây dựng các cơ sở bảo trì ,
cùng lúc họ cũng đang giúp Việt Nam thiết lập các ngành nghiên cứu hải quân và
phát triển cơ sở hạ tầng. Và thời điểm thuận lợi này cũng giúp Việt Nam có lợi
thế hơn trong lúc Trung cộng không có khả năng mua vũ khí nhập từ
nước ngoài (do lệnh cấm vận hoặc lo ngại ‘sao chép kỹ thuật’, như trong trường
hợp với nước Nga), cũng như Việt Nam đã đề ra các chiến lược liên minh với đối
thủ của Trung cộng là Ấn Độ.
Ấn Độ tuyên bố hồi tháng
9/2011 rằng họ sẽ bán hỏa tiển BrahMos cho Việt Nam, trong lúc Việt
Nam đã có hệ thống phòng chống ven biển, kể cả hệ thống Bastion của Nga.
Đây có lẽ không phải là một sự trùng hợp
ngẫu nhiên mà Ấn Độ đã thực hiện quyết định này, trong lúc một công ty dầu khí
nhà nước Ấn Độ (ONGC) đưa ra công bố kế hoạch để cùng Việt Nam khám phá và phát
triển các mỏ dầu ở ngoài khơi Biển Đông thuộc chủ quyền Việt Nam.
Ấn Độ cũng
giúp Việt Nam đào tạo các chuyên viên cho các tàu ngầm Kilo mới, dự
tính sẽ được chuyển giao vào năm 2014.
Tuy nhiên, điều hợp lý để tự hỏi rằng phải
chăng những nỗ lực của Việt Nam trong thời gian qua đều là vô ích. Hải quân
Việt Nam đã không bao giờ có sức mạnh như phía quân đội, lực lượng chính
trong việc quyết định cuộc chiến Việt Nam đẫm máu ở thế kỷ trước.
Nhưng hướng này hình như đang được thay đổi,
và các nhà nước Việt Nam đang cố gắng tuyên truyền cũng như phấn đấu
để tăng khả năng tuần tra của các lực lượng biển, đặc biệt là trong các đơn vị
đồn trú tại quần đảo Trường Sa.
Sự tăng trưởng Hải quân này nhằm mục đích để
chuẩn bị cho các khả năng xung đột trong tương lai ở ngoài khơi Biển Đông. Kinh
phí cho lực lượng Hải quân cũng đã tăng lên đáng kể trong vài năm gần đây.
Về mặt chiến lược, Việt Nam thực sự có lợi thế
hơn nhiều so với Trung cộng . Lâu nay Việt Nam xem như một kẻ yếu
trước thế giới, nhưng thực sự họ lại sở hữu phần lớn các đảo tại quần đảo
Trường Sa đang có nhiều nước tranh chấp, trong khiTrung cộng chỉ có
một nửa các rạn san hô và các bãi đá ngầm.
Trong khi hạm đội Trung cộng
không ngừng mở rộng cùng với kỹ thuật tối tân thì họ phải cũng trải
qua một khoảng cách đường biển khá rộng để có thể đặt chân lên các vùng mà họ
tuyên bố có chủ quyền.
Mặt khác, Việt Nam đang tuyên bố chủ quyền với
một khu vực có thể nói là ngay trước cửa nhà . Đội bay của các hạm đội và
tàu ngầm với hỏa tiển có thể tấn công và rút lui vào các cảng khá dễ
dàng, trong khi hạm đội Trung cộng có thể bị thiệt hại hoặc bị tiêu
diệt trước khi về lại các cảng ở xa bờ.
Việt Nam không cần phải nhiều tàu
hải quân so với Trung cộng , nhưng thay vào đó họ có thể sự dung chiến
tranh du kích ở ngoài Biển Đông.
Một chiến lược tuy không đối xứng, nhưng
kết hợp với các liên minh kịp thời, cùng lúc cũng là các đối thủ của Trung cộng
, thì Việt Nam sẽ được chuẩn
bị tốt cho cuộc xung đột sắp tới. Cho dù điều này hóa ra là một cuộc chiến tranh ‘tâm lý’, thì
các khả năng thương thuyết và quyết định vẫn phải được mang mổ xẻ ở hội nghị .
Nhưng có một điều chắc chắn rằng,
Việt
Nam sẽ có tất cả các lá bài tốt nhất trước khi ngồi xuống để đàm phán ở
hội nghị .
TỔNG HỢP
KHÔNG NƯỚC NÀO BIẾT RÕ
NGA VÀ TRUNG CỘNG BẰNG UCRAINE VÀ VIỆT CỘNG .
LÚC NÀO THÌ TRUNG CỘNG
GÂY CHIẾN
tka23 post
Trận chiến Biển Đông chực chờ bùng nổ, việc nghiên cứu cách gây
chiến tranh của Trung cộng có ý nghĩa
thực tiễn lớn lao. Chúng tôi giới thiệu với độc giả bài viết "Trung cộng giao chiến như thế nào: Những bài học của cuộc chiến tranh Trung-Ấn năm 1962" của Giáo sư Brahma Chellaney,
đăng trên tạp chí Newsweek của Mỹ.
Brahma Chellaney, Giáo sư phân tích chiến lược của Trung tâm Nghiên cứu chính trị được tài trợ từ các nguồn tư nhân ở Delhi, tác giả của các cuốn sách Asian Juggernaut do Nhà xuất bản Harper ấn hành năm 2010 và Water: Asia’s New Battlefield do Nhà xuất bản Georgetown University Press ấn hành năm 2011.
Brahma Chellaney, Giáo sư phân tích chiến lược của Trung tâm Nghiên cứu chính trị được tài trợ từ các nguồn tư nhân ở Delhi, tác giả của các cuốn sách Asian Juggernaut do Nhà xuất bản Harper ấn hành năm 2010 và Water: Asia’s New Battlefield do Nhà xuất bản Georgetown University Press ấn hành năm 2011.
Năm
1962, Trung cộng đã dạy cho Ấn Độ “một bài học” mà đến nay vẫn cần phải nghiên cứu.
Mặc dù thế giới có thể không còn nhớ biến cố xa xưa mà hôm nay chúng
ta kỷ niệm, cuộc chiến tranh biên giới bị lãng quên một nửa đã xảy ra 50 năm trước, hiện nay có vẻ như là một sự kiện rất thời sự mà các bối cảnh của nó cần được nghiên cứu.
Ngày 20/10/1962, ngay
trước bình minh, quân đội Trung cộng bất ngờ xâm nhập lãnh thổ Ấn Độ. Các đơn vị quân đội Trung cộng một sức mạnh không thể cưỡng lại đã tấn công và sau khi vượt qua các khu vực phía đông và phía
tây của dãy núi Hymalaya, đã tiến sâu vào vùng phía
đông bắc Ấn Độ.
Vào ngày thứ 32 của cuộc chiến, Bắc Kinh bất ngờ tuyên bố ngừng bắn đơn phương, và chiến tranh kết thúc cũng bất ngờ như như nó đã bắt đầu.
Mười ngày sau đó, Trung cộng bắt đầu rút quân khỏi miền đông Ấn Độ nằm giữa Bhutan và Myanmar, nhưng họ vẫn chiếm giữ các vùng đất giành được ở phía tây, khu vực trước đây vốn là một phần của công quốc Jammu và Kashmir. Ấn Độ phải chịu một thất bại hoàn toàn và rất nhục nhã, còn uy tín quốc tế của Trung cộng tăng mạnh.
Mười ngày sau đó, Trung cộng bắt đầu rút quân khỏi miền đông Ấn Độ nằm giữa Bhutan và Myanmar, nhưng họ vẫn chiếm giữ các vùng đất giành được ở phía tây, khu vực trước đây vốn là một phần của công quốc Jammu và Kashmir. Ấn Độ phải chịu một thất bại hoàn toàn và rất nhục nhã, còn uy tín quốc tế của Trung cộng tăng mạnh.
Hôm nay, một nửa thế kỷ sau cuộc chiến Trung-Ấn, sự đối đầu địa-chính trị giữa hai gã khổng lồ về dân số lại trở nên gay gắt, bởi vì lại có những bất đồng mới nảy sinh thêm vào những mâu thuẫn hiện đã có. Sự phát triển bùng nổ của thương mại song phương cũng đã không thể dập tắt tinh thần đối đầu và căng thẳng trong lĩnh vực quân sự, bên cạnh đó, Trung cộng đã tiêu
phí phần lớn những thành quả chính trị giành được của chiến thắng cách đây 50 năm.
Tuy nhiên, những hoàn cảnh của cuộc chiến tranh xưa cũ đến nay vẫn không mất đi ý nghĩa của mình, bởi vì chúng đang vượt ra ngoài khuôn khổ quan hệ song phương giữa hai nước. Cuộc xung đột này đã làm bộc lộ những yếu tố then chốt của học thuyết chiến lược của Bắc Kinh, do đó,
không chỉ các quốc gia lãng giềng của Trung công
mà cả Bộ Quốc phòng Mỹ cũng cần rút ra những bài học từ cuộc chiến tranh này.
Quân đội Trung cộng tập trận đổ bộ
Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét 6 nguyên tắc căn bản mà quân đội Trung cộng đã áp dụng trong cuộc xâm lược Ấn Độ, và sẽ không có nghi ngờ nữa, chúng được vận dụng cả trong tương lai.
1. Bất ngờ.
Trung cộng đặc biệt coi trọng yếu tố bất ngờ làm cho kẻ địch lung túng . Ý tưởng là ở chỗ làm cho kẻ thù bị bất ngờ về chính trị và tâm lý để giành những chiến thắng nhanh chóng trên
chiến trường. Chiến thuật nhấn mạnh tính bất ngờ của cuộc tấn công này bắt nguồn từ quá khứ xa xưa. Hơn 2.000 năm trước, nhà lý luận quân sự Trung choa Tôn Tử đã nêu ra chiến thuật này khi ông khẳng định rằng “sự lừa dối là căn bản cho mọi phép dùng binh”.
Còn đây là những lời khuyên mà ông sẽ đưa ra cho các chiến lược gia: “Tấn công vào nơi kẻ thù không phòng
bị, khai chiến lúc kẻ thù không ngờ tới. Đây là những yếu tố then chốt để giành thắng lợi”.
Thật vậy, người Trung cộng đã bắt đầu và kết thúc cuộc chiến tranh năm 1962, khi Ấn Độ ít ngờ tới nhất. Họ cũng hành động y như vậy khi xâm lược Việt Nam vào năm 1979.
Thật vậy, người Trung cộng đã bắt đầu và kết thúc cuộc chiến tranh năm 1962, khi Ấn Độ ít ngờ tới nhất. Họ cũng hành động y như vậy khi xâm lược Việt Nam vào năm 1979.
2. Tập trung toàn lực.
Các tướng lĩnh Trung cộng cho rằng, cần thực hiện các đòn tấn công càng nhanh,
càng mạnh càng tốt. Chính chiến thuật tác chiến này đã được họ thể hiện khi thực hiện cuộc chiến tranh chớp nhoáng tấn cộng Ấn Độ vào năm 1962. Mục đích là áp đặt cho kẻ thù “những trận đánh có kết cục nhanh chóng”. Sự tập trung như thế vào mục tiêu là điểm đặc biệt cho tất cả các chiến dịch quân sự do nước Trung Hoa cộng sản tiến hành từ năm 1949.
3. Tấn công trước tiên.
Bắc Kinh chưa bao giờ lưỡng lự sử dụng vũ lực để giải quyết các nhiệm vụ chính trị. Ngược lại, Trung cộng đã nhiều lần chứng t là họ luôn sẵn sàng để “dạy một bài học” cho đối phương để đối phương không dám thách
thức Bắc Kinh trong tương lai. Thủ tướng Trung cộng Chu Ân Lai
đã giải thích rằng, cuộc chiến năm 1962 có mục đích “dạy Ấn Độ một bài học”.
Đặng Tiểu Bình, người đầu tiên trong các
nhà lãnh đạo cộng sản Trung cộng đã đến thăm Mỹ, cũng đã sử dụng từ ngữ tương tự vào năm 1979, khi ông ta tuyên bố với Tổng thống Mỹ Jimmy Carter trong
chuyến thăm Washington rằng,
“cần dạy Việt Nam một bài học như Ấn Độ”. Chỉ vài ngày sau, quân
Trung cộng đã xâm lăng lãnh thổ của nước láng giềng.
Điều trớ trêu là chính vào
lúc đó, ngoại trưởng Ấn Độ lại đang có mặt ở Bắc Kinh để cố gắng khôi phục quan hệ song phương bị đóng băng từ năm 1962. Cuộc chiến kéo dài 29
ngày, sau đó Trung cộng đã ngừng chiến và rút quân khỏi Việt Nam, sau khi
tuyên bố rằng, Hà Nội đã được đặt về đúng chỗ của mình.
4. Chờ đợi thời cơ.
Người Trung cộng cho rằng, cần phải chờ đến thời điểm thích hợp. Chiến tranh năm 1962 là
một ví dụ điển hình của chiến thuật này. Cuộc
tấn công của Trung cộng diễn ra trùng về
thời gian với cuộc
khủng hoảng Caribe vốn
đã đặt thế giới
bên bờ vực của
ngày tận
thế hạt nhân. Bối cảnh đó đã thu hút sự chú ý của những nước có thể hỗ trợ Ấn Độ. Ngay khi Hoa Kỳ
tỏ ý cuộc đối đầu với Moskva đã kết thúc, Trung cộng ngay lập tức tuyên bố ngừng bắn đơn phương.
Trong thời gian diễn ra chiến tranh Trung-Ấn, sự chú ý quốc tế đổ dồn vào cuộc xung đột Xô-Mỹ, chứ không phải vào cuộc xâm lược Ấn Độ của Trung cộng đi kèm với sự đổ máu, mặc
dù Delhi đã có quan hệ
tốt đẹp với cả Mỹ
và Liên Xô.
Thủ đoạn hành động tương tự đã được Trung cộng vận dụng cả về sau này. Sau khi Mỹ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, Trung cộng đã chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa.
Năm 1988, khi Việt Nam đã mất đi sự ủng hộ của Moskva, còn cuộc chiến tranh của Liên Xô tại Afghanistan đã điều trị tiệt nọc sự đam mê đối với các cuộc phiêu lưu quân sự ở nước ngoài,Trung cộng liền chiếm đá Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa.
Năm 1995, việc Philippines lâm
vào tình trạng không được bảo vệ sau khi họ buộc người Mỹ đóng cửa các căn cứ quân sự ở vịnh Subic và các khu
vực khác của quần đảo Philippines, đã
cho phép Trung cộng giành lấy quyền kiểm soát đá Vành khăn
(rạn san hô
Mischief).
5. Biện minh cho các hành
động của mình.
Bắc Kinh thích ngụy trang che đậy các hành động xâm lược của họ bằng cái gọi là mục đích tự vệ. “Trong lịch sử các cuộc chiến tranh của Trung cộng đương đại có thể tìm thấy nhiều trường hợp, khi mà các nhà
lãnh đạo Trung cộng đã gọi các cuộc tấn công phủ đầu là các chiến dịch phòng vệ (tự vệ) chiến lược”, một báo cáo của Lầu Năm góc đệ trình lên Quốc hội Mỹ năm 2010 viết.
Trong tài liệu này có nhiều ví dụ
về cách làm như vậy,
trong đó có cuộc
chiến tranh năm 1962,
cuộc xung đột năm 1969 (khi Trung cộng khiêu
khích các cuộc đụng độ
biên giới với Liên Xô), cuộc
xâm lược Việt Nam năm 1979, và thậm chí cả
biến cố năm 1950, khi Trung cộng can thiệp vào cuộc
chiến tranh Triều Tiên.
Cuộc tấn công Ấn Độ năm 1962 Bắc Kinh chính thức được gọi là “phản công tự vệ” và thuật ngữ này cũng được sử dụng để biện minh cho cuộc xâm lược Việt Nam, cũng như việc chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa, đá Gạc Ma và đá Vành khăn.
6. Sẵn sàng mạo hiểm.
Các hành động mạo hiểm từ lâu đã là yếu tố không tách rời của chiến lược quân sự Trung cộng . Sự sẵn sàng cho những chiến dịch quân sự như vậy của giới lãnh đạo Trung cộng là rõ ràng
đối với tất cả không chỉ ở thời Mao Trạch Đông cầm quyền vốn đầy rẫy những đảo lộn phức tạp trong chính trị mà cả khi một kẻ đầy thực dụng như Đặng
Tiểu Bình quyết định xâm lược Việt Nam bất chấp khả năng Liên Xô can thiệp.
Hơn nữa, lần nào thì những hành động mạo hiểm cũng xác đáng và
mang lại các kết quả cần thiết. Những thắng lợi đạt được trong quá khứ có thể tạo sự tự tin cho Bắc Kinh, thúc đẩy họ một lần nữa thử thách cơ hội của mình, nhất là hiện nay, khi mà Trung cộng có khả năng đánh trả hạt nhân và có sức mạnh kinh tế và tiềm lực quân sự chưa từng có.
Cuộc chiến tranh năm 1962 diễn ra vào thời kỳ Trung cộng còn là một quốc gia nghèo đói, chưa có vũ khí hạt nhân và bị đè nặng bởi những vấn đề nội bộ. Tuy nhiên, họ đã cho thế giới thấy các tướng lĩnh Trung cộng quan niệm theo những tiêu chuẩn nào và
giúp ta hiểu tại sao việc Trung Quốc hiện nay đang tăng cường tiềm lực quân sự của mình với tiến độ nhanh lại không thể không gây ra những lo ngại lớn.
TỔNG HỢP
NHIỆM VỤ CỦA HẢI
QUÂN MỸ Ở CHÂU Á
tka23 post
Viên tướng hàng đầu của Hải quân Hoa Kỳ nói
rằng sự hiện diện ngày càng tăng của Hải quân Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình
Dương đang mang lại kết quả và có thể xoay chuyển cục diện, nhưng ông cũng thừa
nhận rằng đó sẽ là một nỗ lực lâu dài, theo tin từ VOA.
Máy bay chiến đấu của Mỹ trên USS George
Washington, ở Biển Ðông, tháng 9, 2010. Ảnh tư lieu
Đô đốc Jonathan
Greenert,
Tham mưu trưởng
Hải quân Mỹ, nói rằng ông hy vọng Hải quân Mỹ có thể mở rộng hợp tác với Ấn Ðộ
một khi chính phủ mới ở New Delhi được thành lập, tác giả Victor Beattie của
đài VOA nhận xét.
Phát biểu hôm thứ
Hai tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế CSIS ở Washington, Đô đốc
Greenert nói rằng cuộc đối thoại giữa quân đội Mỹ với quân đội Trung cộng đang
mang lại kết quả, nhất là tại Biển Đông, nơi các mối căng thẳng trên biển giữa
Trung cộng với các nước láng giềng đang leo thang.
Ông nói rằng Trung cộng
nằm trong số các cường quốc châu Á – Thái Bình Dương đã cùng với Hoa Kỳ
hồi tháng trước chấp nhận Bộ quy tắc về những vụ chạm trán ngoài kế hoạch trên
biển, gọi tắt là CUES, tại một hội nghị ở Thanh Đảo, Trung cộng .
"Đã có những
tình huống mà Hải quân Trung cộng can thiệp giúp chúng tôi, khi một
trong những chiếc tàu của chúng tôi bị một chiếc tàu không phải là của hải quân
Trung cộng cản đường và quấy nhiễu, thì viên chỉ huy của chiếc tàu
chiến Trung cộng nói “tôi đã nói với viên chỉ huy của tàu Mỹ và
chiếc tàu đó đang đi thẳng và tăng tốc độ, các ông phải tránh ra”, và rồi viên
chỉ huy của hải quân Trung cộng lái tàu của ông ấy vào khoảng giữa
của tàu Trung cộng và chiến hạm của Mỹ. Nhiều trường hợp tương tự
như vậy đã xảy ra.
Chúng tôi đang bắt đầu nắm vị thế làm chủ cho
cuộc diện. Theo quan điểm của tôi, chúng tôi cần có khả năng như vậy giữa lúc
có những căng thẳng ở Biển Hoa Ðông và Biển Ðông. Chúng tôi không rời khỏi vùng
đó. Họ biết rõ như vậy. Họ sẽ là những người lãnh đạo hải quân Trung cộng .
Chúng tôi tin là chúng tôi phải có cách giải quyết những vấn đề này."
Trong chuyến công
du Á châu của Tổng thống Barack Obama hồi tháng trước, Hoa Kỳ đã ký thỏa thuận
an ninh 10 năm với Philippines.
Trong chuyến công
du Á châu của Tổng thống Barack Obama hồi tháng trước, Hoa Kỳ đã ký thỏa thuận
an ninh 10 năm với Philippines.
Philippines và
Việt Nam nằm trong số các nước tranh chấp chủ quyền lãnh hải với
Trung cộng . Trong chuyến công du Á châu của Tổng thống Barack Obama hồi tháng
trước, Hoa Kỳ đã ký thỏa thuận an ninh 10 năm với Philippines.
Đô đốc Greenert
nói rằng việc phối hợp hoạt động hải quân với Philippines ngày nay là rất tốt,
nhưng hai nước sẽ phát triển khả năng phối hợp đó như thế nào là vấn đề cần phải
thảo luận và có thể phải áp dụng một hiệp định thuộc loại hiệp định về qui chế
của các lực lượng SOFA. Hải quân Hoa Kỳ cũng đề nghị ghé cảng Việt Nam nhiều
hơn và cũng muốn thấy sự hợp tác nhiều hơn từ phía Hà Nội “một cách tích cực
hơn.”
Phát biểu tại
Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược, Đô đốc Greenert cũng bày tỏ hy vọng
là Hoa Kỳ có thể thiết lập lại quan hệ đối tác chiến lược với Ấn Ðộ,
mối quan hệ mà ông nói là hai nước đã từng có trước đây.
"Các mối
quan hệ quân sự ổn định đang có sẵn với Ấn Ðộ. Chúng ta cần phải cải thiện liên
lạc và phối hợp hoạt động với Ấn Ðộ. Hiện tại chúng ta có thao dượt chung với
hải quân Ấn Ðộ. Có nhiều hoạt động hỗ trợ nhân đạo, tìm kiếm cứu hộ, và y tế.
Nhưng mục tiêu của tôi là sẽ trở lại như thời kỳ quan hệ vào giữa thập niên
2000. Chúng tôi đã có nhiều hoạt động sâu rộng trong cuộc thao dượt được đặt
tên là Malabar, là cuộc thao dượt chung hàng năm với hải quân Ấn Ðộ.
Chúng tôi
đã thao dượt hành quân chung bang hkmh với nhau rất tinh vi, và phối hợp
trên không. Tôi nghĩ rằng sẽ rất hữu ích nếu hai nước trở lại với mức độ hợp
tác đó."
Đô đốc Greenert
nói giới lãnh đạo mới sắp lên cầm quyền tại Ấn Ðộ có lẽ sẽ muốn có sự hiện diện
mạnh mẽ hơn ở tây Thái Bình Dương. Ông nói Hoa Kỳ sẽ phải chờ xem các xu hướng
chính trị như thế nào, và họ mong muốn đi theo hướng nào.
Đô đốc Greenert
nói rằng Hải quân Hoa Kỳ cam kết hoàn toàn với chiến lược tái cân bằng
sang Á châu.
Ngày nay, 51 chiếc hạm trong tổng số 289 chiếc của
Hải quân Hoa Kỳ đang có mặt trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương và con số
này sẽ tăng lên thành 58 chiếc trong năm tới và 67 chiếc trước năm 2020.
Ông Greenert nói
rằng 23 quốc gia tham gia cuộc tập trận chung mang tên Vành đai Thái Bình Dương
(RIMPAC) ngoài khơi biển Hawaii, bắt đầu từ ngày 26 tháng 6 cho đến ngày 1
tháng 8, sẽ có hàng trăm máy bay, 40 chiến hạm, và 25.000 quân nhân, và có sự
tham gia lần đầu tiên của lục quân và hải quân Trung cộng .
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment