Ngô Nhân Dụng - Không mặc cảm,
không ảo tưởng
Thứ Tư, ngày 04 tháng 6 năm 2014
Bộ Trưởng Quốc phòng
Việt Nam Phùng Quang Thanh tại đối thoại Shangri-La
Mỗi
ngày chúng ta nhận được hàng chục, hàng trăm tin tức về các sự kiện, biến cố,
những lời tuyên bố, các ý kiến và bình luận, về tình trạng căng thẳng giữa Việt
Nam và Trung Quốc tại Biển Ðông. Những người Việt Nam nặng lòng với đất nước
đang sống trong một cơn bão thông tin và xúc động.
Ðây
chính là lúc chúng ta cần giữ lòng bình tĩnh và tỉnh táo, không mặc cảm, không
ảo tưởng.
Một
thứ mặc cảm nên xóa bỏ là sợ. Một tờ báo Nam Hàn loan tin ngày 23 Tháng Năm,
Cộng sản Trung Quốc đưa 300 ngàn quân đến Quảng Tây, nhiều người lo sợ Trung
Cộng sắp tấn công đến nơi. Có người ở Hà Nội cho biết đã “thấy trên đường Cầu
Rẽ-Pháp Vân có nhiều đoàn xe quân sự chở theo pháo hạng nặng và xe tăng chạy
hướng Nam-Bắc nhằm về phía biên giới”; rồi tính chuyện rút tiền ở ngân hàng về
phòng bất trắc.
Nhưng chiến tranh không dễ gì xảy ra, quyết định gây chiến
không giản dị như trong thời trong truyện Tầu, Tam Quốc Chí. Tương quan quốc tế
bây giờ cũng không giống năm 1978, 79. Thời 35 năm trước, nước Việt Nam hoàn
toàn bị cô lập trong cả vùng Ðông Nam Á cũng như trên thế giới, vì đảng Cộng
sản Việt Nam chỉ biết bám lấy Liên Xô, mà Lê Duẩn tuyên bố là tổ quốc thứ nhì
của ông. Trung Cộng tấn công, Liên Xô không cứu được, chỉ có dân và lính chết
oan khốc.
Nhưng
nếu bây giờ Trung Cộng định tấn công, thì họ cũng phải tính trước. Giả thử họ
đánh, chiếm được Hà Nội rồi thì họ sẽ làm gì đây? Lập thành quận, huyện của
Trung Quốc như thời quân Minh; hay lập một chính phủ bù nhìn? Một ngàn năm Bắc
thuộc cho thấy dân tộc Việt không bị khuất phục, bây giờ người Việt còn quật
cường hơn trước nhiều. Có ai muốn thử sức hay không?
Hơn nữa, ngày nay Trung
Cộng còn yếu hơn thời Minh Thành Tổ, còn lo đối phó với phản ứng của các nước
khác. Mỹ, Úc, Liên Hiệp Âu Châu, Nhật Bản, Ấn Ðộ, không thể khoanh tay nhìn
Trung Cộng đánh, chiếm một nước láng giềng mà không làm gì cả. Tối thiểu, họ sẽ
trừng phạt về kinh tế từng bước một, như đang áp dụng trong trường hợp Ukraine.
Trung Cộng vốn đang bị các nước Ðông Nam Á nghi ngờ và họ càng lánh xa; có nước
nào nhìn Trung Cộng lộng hành mà không lo đến số phận mình hay không?
Mỗi nước
trên đây chỉ cần giảm số hàng nhập cảng từ Trung Quốc 10% thì nền kinh tế đang
mong manh sẽ sụp đổ. Putin chưa ngấm đủ các đòn phong tỏa kinh tế mà đã phải
rút quân ở biên giới Ukraine về. Kinh tế Trung Quốc còn mong manh hơn Nga
nhiều, nếu bị thế giới tẩy chay thì hàng trăm triệu công nhân thất nghiệp, chế
độ cộng sản sẽ đổ, làm sao Tập Cận Bình dám gây thêm rắc rối?
Ông Tập Cận Bình
mới khẳng định rằng Trung Quốc sẽ không gây thêm rắc rối trong vùng Nam Hải
(người Việt gọi là Biển Ðông); mà chỉ có phản ứng cần thiết nếu bị nước khác
khiêu khích. Có thể tin rằng đó là chính sách của đảng Cộng sản Trung Hoa.
Một
mặc cảm lo sợ khác là bị Trung Cộng tấn công về kinh tế. Nhưng kinh tế là những
cuộc trao đổi; anh kiếm lời thì tôi cũng kiếm lời; anh làm khó cho tôi thì anh
cũng bị thiệt hại. Năm 2010, Trung Cộng đã ngưng nhập cảng cá hồi từ Na Uy để
trả đũa việc trao giải Nobel Hòa Bình cho Lưu Hiểu Ba. Năm 2012, họ cấm nhập
cảng chuối từ Philippines sau các cuộc xung đột trên biển. Nhưng cuối cùng, đâu
cũng vào đó cả, cả hai nước bị “trừng phạt” vẫn sống ung dung.
Kinh
tế Việt Nam và Trung Quốc có quan hệ rộng lớn, nhưng có lợi cho họ hơn cho
người mình. Năm ngoái, hai nước trao đổi hơn 50 tỷ đô la Mỹ về thương mại,
trong đó người Việt mua và trả cho Trung Quốc 37 tỷ mà bên mình chỉ bán cho họ
được 13 tỷ. Chấm dứt tình trạng cán cân mậu dịch chênh lệch đó thì người Trung
Hoa bị thiệt nhiều hơn người Việt.
Những năm qua, trong các cuộc đấu thầu ở
nước ta, các công ty Trung Quốc trúng thầu 90% các dự án về điện và 80% các dự
án về giao thông. Ðó là một tình trạng bất bình thường, đáng nghi ngờ. Có áp
lực, tham nhũng, đút lót ở đâu đó, ai biết? Không những thế, các nhà thầu Trung
Quốc luôn luôn gây đình trệ khi thi hành dự án, đòi tăng ngân sách mới tiếp
tục, lại còn mang hàng chục ngàn công nhân lậu sang chiếm công việc của lao
động Việt Nam.
Ðó là tình trạng bất bình đẳng nên chấm dứt càng sớm càng tốt.
Nếu các công ty Trung Quốc ngưng đầu tư vào mỏ bô xít, ngưng khai thác gỗ rừng
ở Việt Nam thì dân Việt còn mừng nữa!
Tình
trạng kinh tế bị ràng buộc đến mức bị lệ thuộc hiện nay là do chính sách ngoại
giao sai lầm của đảng Cộng sản, bám lấy 16 chữ vàng và 4 cái tốt; hậu quả của
hội nghị Thành Ðô nhục nhã năm 1990. Chấm dứt tương quan bất bình đẳng đó mới
mở được một con đường thoát cho kinh tế Việt Nam trong tương lai.
Tại
hội nghị Shangri-La ở Singapore, Thủ Tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã tuyên bố nước
Nhật sẽ hợp tác với Mỹ, Ấn Ðộ, Úc Châu, cùng bảo vệ luật pháp quốc tế và an ninh
hàng hải trong vùng biển Ðông Nam Á. Ðây là một lời cảnh cáo trước cảnh Trung
Cộng đem giàn khoan dầu tới vùng Biển Ðông. Nhưng mối lo của Trung Cộng không
phải chỉ là việc Nhật hứa viện trợ 10 chiếc tầu thủy cho Philippines để bảo vệ
hải phận, hay hứa sẽ giúp một chiếc tàu cho Việt Nam.
Mối lo chính của Bắc Kinh
là nhân cơ hội này ông Abe sẽ tiến hành nhanh hơn quá trình đưa nước Nhật trở
lại làm một “quốc gia bình thường,” để tự vệ và bảo vệ các đồng minh, trong đó
ông kể tới các nước Ðông Nam Á. Bình thường hóa, nghĩa là Nhật Bản sẽ giải
thích lại bản Hiến Pháp hòa bình, tái lập quân đội, sản xuất và xuất cảng vũ
khí, gửi quân ra nước ngoài.
Cũng tại hội nghị Shangri-La, bộ trưởng Quốc Phòng
Mỹ hoan nghênh các ý kiến của thủ tướng Nhật. Ác mộng của Trung Cộng là thấy
một nước Nhật Bản tái vũ trang và có thể chế tạo vũ khí nguyên tử bất cứ lúc
nào. Theo quyền lợi của những người lãnh đạo ở Bắc Kinh, họ có muốn giúp cho
nước Nhật có thêm cơ hội liên kết với các nước Ðông Nam Á và Mỹ chặt chẽ hơn
hay không?
Phải
xóa bỏ hai thứ mặc cảm sợ hãi đối với Trung Cộng. Nhưng cũng không nên nuôi ảo
tưởng rằng các nước lớn như Nhật Bản, Mỹ cũng lo việc bảo vệ nước Việt Nam. Các
quốc gia trên thế giới đều chỉ lo bảo vệ quyền lợi của họ. Năm 1974, Mỹ không
giúp Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ Hoàng Sa, vì lúc đó họ chỉ cần thỏa hiệp để rút
khỏi Việt Nam, để lại cho Trung Cộng và Việt Cộng mầm mống một cuộc tranh chấp,
thanh toán lẫn nhau sau này.
Tại
hội nghị Shangri-La khi Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ Chuck Hagel gặp Tướng Vương
Quan Trung (Wang Guanzhong), phó tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Cộng, ông
nhắc nhở rằng Trung Quốc đã có những hành động đơn phương gây xáo trộn ở
Scarborough Reef, tại Second Thomas Shoal, và đưa giàn khoan dầu tới quần đảo
Paracels. Ông Hagel nhắc tới hai vụ gây hấn với Philippines trước, vụ xâm lấn
vào lãnh hải Việt Nam sau; vì nước Mỹ có những thỏa hiệp về an ninh, quân sự
với Philippines, không có ràng buộc nào với Việt Nam. Cho nên chúng ta không
nên nuôi ảo tưởng rằng có thể nhờ vả vào nước Mỹ trong cuộc tranh chấp với
Trung Cộng.
Chính
quyền Mỹ luôn luôn khẳng định rằng họ hoàn toàn trung lập về chủ quyền các đảo
trong vùng Biển Ðông. Ðối với quyền lợi của dân Mỹ, các mỏ dầu khí dưới đáy
biển thuộc chủ nhân nào thì cũng không ảnh hưởng đến việc mua bán của họ. Một
nhà bình luận Mỹ đặt câu hỏi: “Chúng ta (người Mỹ) có cần quan tâm đến chuyện
một công ty Trung Quốc hay Việt Nam hút dầu từ đáy biển chung quanh quần đảo
Paracels rồi đem bán hay không? Chúng ta có quan tâm đến về chuyện một ngư dân
nghèo người Philippine hay một ngư dân nghèo Trung Hoa đánh được cá ở
Scarborough Shoal hay không? Nước Mỹ có đánh nhau với Trung Quốc về mấy bãi đá
và tảng đá ngầm giữa đại dương hay không?”
Cuối
cùng, cần xóa bỏ các mặc cảm, cũng xóa bỏ cả các ảo tưởng. Người Việt Nam chỉ
có thể trông cậy vào sức mình để bảo vệ quyền lợi quốc gia, những thứ còn có
thể bảo vệ được.
Chiến
lược lâu dài của đảng Cộng sản Trung Hoa là gậm nhấm từng mảnh một, trong khi
vẫn nói là sẵn sàng thảo luận với các nước khác trong vùng Biển Ðông, miễn là
thảo luận song phương. Trong lâu dài, thủ đoạn này chỉ có lợi cho họ. Họ sẽ đặt
thế giới trước những “sự đã rồi,” như việc thành lập huyện Tam Sa trước đây, và
việc đem giàn khoan vào hải phận nước ta mới rồi. Thế giới sẽ dần dần chấp nhận
những ‘sự đã rồi” này, hoặc chỉ phản đối lấy lệ.
Nước
Việt Nam không thể để mình bị rơi vào trong cái bẫy đó. Cần có một chính phủ
Việt Nam thực sự do dân Việt bầu cử tự do lập nên. Cần có một chính quyền thoát
ra khỏi cái vòng dây trói buộc 16 chữ vàng và 4 cái tốt; sẵn sàng giao hảo với
các nước khác mà không sợ làm mất lòng Trung Cộng. Cần một chính quyền cho dân
được tự do kinh doanh, phục hồi kinh tế để dân giầu, nước mạnh. Muốn như vậy,
cần phải chấm dứt chế độ cộng sản.
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment