Kính Chuyển
MG
MIẾN ĐIỆN :
LÃNH ĐỊA CỦA
NHA PHIẾN, HỒNG NGỌC , MÁU VÀ NƯỚC MẤT
Mường Giang
Sau khi giành lại nền độc lập từ tay người Anh năm 1948, dân tộc Miến Ðiện những
tưởng sẽ được sống no ấm hạnh phúc trong cuộc đời bình thường. Ðâu ngờ giặc xâm
lăng vừa rời khỏi nước thì bè lũ quân phiệt lại nổi lên, chẳng những chúng theo
đuổi “ siêu chủ nghĩa phát xít kiểu Nhật trước thế
chiến 2 “, kéo vận mệnh của đất nước và
dân tộc lùi lại hằng bao thế kỷ trong sự nghèo đói lạc hậu, mà còn “ độc tài độc đảng khủng bố áp bức sinh mạng và chà đạp lên
phẩm giá của con người suốt mấy chục năm qua “, trong bức màn sắt gần như cô lập với thế giới bên
ngoài, bằng kẽm gai họng súng để bịt miệng mọi người không cho nói lên sự thật.
Cũng từ đó thế giới bên ngoài đã không biết gì hay nếu có cũng chẳng qua là những
tin tức mù mờ về cuộc sống lầm than đen đói cùng với xã hội điêu tàn của một nước
Miến Ðiện độc tài quân phiệt vì tham nhũng và tệ nạn buôn bán thuốc phiện. Nhưng
người dân Miến Ðiện không bao giờ chịu khuất phục trước bạo quyền, nên đã đổ
máu rất nhiều trong những cuộc đấu tranh đòi tự do và dân chủ. Năm 1974 lợi dụng
đưa linh cửu U Thant tới nơi an nghĩ cuới cùng, các vi tăng ni và sinh viên đồng
bào đã biến đám tang thành một cuộc biểu tình chống quân phiệt độc tài, nên bị
Ne Win ra lệnh cho quân đội xã súng vào đám đông tàn sát vô nhân đạo.
Ngày 8 tháng 8 năm 1988, phong trào đòi dân chủ của tuổi trẻ Miến Ðiện lại bùng
nổ dữ dội, cơ hồ làm rung chuyển nền móng của bọn quân phiệt cầm quyền. Cuộc xuống đường lần đó
được sự lãnh đạo của chư vị tăng ni Phật Giáo. Lần nữa quân đội đã tàn sát
đoàn biểu tình giết chết hơn 3000 người tham dự. Một năm sau
(5-1989), lịch sử lại tái diễn tại quảng trưởng Thiên An Môn ở Bắc Kinh, bọn ác
chúa bạo quyền Trung Cộng, cũng bất chấp quyền sống mạng người và dư luận thế
giới, đã sử dụng xe tăng đại pháo và công an bộ đội , để trấn áp tiêu diệt
chính đồng bào mình. Máu lai láng chảy ngập Miến Ðiện, chảy tràn Bắc Kinh
và cũng đang nhuộm đỏ những con đường VN từ Sài Gòn ra tới Hà Nội. Ðó là những
giòng máu hận uất oan khiên của người dân lương thiện bình thường, đang thi
nhau đổ xối xã xuống đầu bọn lãnh tụ quân phiệt và cộng sản, để đòi lại quyền sống
của con người mà báo chi VC xuyên tạc khi sử dụng hai chử ‘ khiếu kiện ‘
bảo rằng “ đó chỉ là những người khiếu nại
kiện thưa “ vì tranh chấp ruộng đất..
Rồi màn tranh giành quyền lực lại xảy ra giữa các lãnh chúa, nên trong năm đó
Saw Maung, tên tướng sát thủ đã từng ra lệnh bắn giết đồng bào mình, qua cương
vị tổng tham mưu trưởng quân đội Miến, đã làm một cuộc đảo chính hạ bệ và bắt
giam Ne Win, thành lập một chế độ quân phiệt khác, cũng tàn bạo độc tài tham
nhũng và coi mạng người như cỏ rác , được người Nhật công nhận qua cái gọi là ‘
Hội Ðồng Phục Hồi Trật Tự và Luật Pháp Quốc Gia ‘.
Ðể ru ngủ lòng dân đang hận thù bốc cao như núi, quân phiệt lại bày trò bầu cử
quốc hội nhưng khi Liên Minh Dân Chủ do bà Aung San Suu Kyi toàn thắng để lập
chính phủ mới, thì Saw Maung lật lọng phủ nhận kết quả bầu cử và ra lệnh bắt
hết những người đối lập kể cả lãnh tụ Aung San Suu Kyi. Vì bị dồn vào chân
tường, hoặc đấu tranh để có tự do mà sống hay cúi mât để chết mòn như tại VN
ngày nay. Vì vậy , ngày 18-9-2007
toàn dân Miến đã đứng dậy, dưới sự lãnh đạo của hằng ngàn Chư Tăng-Ni Phật Giáo
Miến, từ Mandalay, Chauk, Shwebo, Mongwa, Taung Dwingi, Ye Nan Chaung.. cho tới
thủ đô Rangoon, nơi nào cũng có biểu tình chống quân phiệt đòi tự do dân chủ.
Các cuộc biểu tình có lúc đã lên tới hằng trăm người, được báo chí thế giới ca
tụng là ‘ cuộc cách mạng áo cà sa của thế kỷ XXI’ vì trong rừng người tràn ngập
khắp phường phố, hình ảnh của các vị chân tu Tăng-Ni đầu trần chân đất, vận áo màu nâu
hay lam chói lọi trong khoảng không gian tuyệt vời của đất trời, mà không một bức
danh họa nào có thể sánh kịp được.
Máu và xác người biểu tình thi nhau đổ xuống đất trước họng súng của quân phiệt
đồng lúc với những trận chiến bọt mép cũng dữ dội tại Hội Ðồng Bảo An LHQ
đang lúc nhóm họp vào ngày 27-9-2007. Cũng như lần tàn sát dân Miến biểu
tình vào tháng 8-1988, lần này thì cũng như lần trước, quanh đi quẩn lại, cải tới
nói lui, cũng vẵn với luận điệu đầu tiên ‘ áp lực, cấm vận.. ’ ’ nhưng
sau khi bị Trung Cộng và Nga Sô phản đối, thì tất cả gần như im re dịu giọng vì
thực chất chẳng ai kể cả Mỹ, muốn làm to chuyện tại Miến, để chọc giận nhóm
quân phiệt cầm quyền đuổi ra khỏi nước, thì mất quyền lợi bạc tỷ đang thu được.
Hởi ôi đời là vậy đó, dân đen nơi nào cũng chịu chung số phận hẵm hiu nhất là tại
các nước đang có nhiều tài nguyên thiên nhiên hái ra tiền như Miến và VN. Có
theo dõi báo chí mới thấy được bộ mặt thật của các nước tư bản ‘ nói một đường
làm một nẻo ‘.Trong biến động lịch sử tại Miến kỳ này, chính Ngoại trưởng
Anh David Miliband là người to miệng nhất phản đối quân phiệt. Nhưng cũng người
Anh từ tháng 5-1994 đã có gần 50 công ty lớn nhỏ đang làm ăn tại Miến, trong đó
nổi tiếng có Glaxo, Premier Oil và Rolls Royce. Trong khi đó tài phiệt Mỹ còn
nhanh hơn Anh đã có mặt từ trước để cạnh tranh với các nước Singapore, Nhựt,
Nam Hàn và Mã Lai.. Tất cả đã trở thành những đại công ty thâm nhập vào đủ mọi
lãnh vực từ dầu khí, gổ, khoáng sản cho tới dịch vụ khách sạn và nhà hàng. Sau
khi Ne Win thân Nhật bị hạ bệ, Trung Cộng bắt đầu xâm nhập Miến với số vốn đầu
tư kếch xù 870 triệu USD mà mục đích chính là mở con đường xa lộ nối liền
Mandalay tới Vân Nam, đạt cán cân mậu dịch Miến Hoa lên tới 1 tỷ mỹ kim, trong
khi Ấn Ðộ chỉ có 150 triệu USD.
Dù Hoa Kỳ có ra lệnh cấm vận Miến Ðiện nhưng chuyện này chỉ làm trò cười cho
nhóm lảnh đạo quân phiệt vì hiện nay có không biết bao nhiêu nước phương tây,
Nhật kể cả khối ASEAN đang chực chờ nhảy vào đầu tư khai thác kiếm lời mà họ đã
nhìn thấy từ Trung Cộng, Nga Sô.. Tóm lại tất cả đều không có hiệu lực đối với
Miến ngày nay kể luôn số tiền viện trợ ít ỏi của các Ngân hàng Thế giới, bình
quân mỗi đầu người chỉ có 2,5 USD/1 năm. Trong khi đó thì Liên Â, Nhật và Ấn Ðộ
thì lơ lững gần như không thú vị lắm với việc ‘ hạ bệ ‘ quân phiệt ‘ để mang tự
do dân chủ mà người dân Miến đã liên tục đổ xương máu đấu tranh từ năm 1974 cho
tới ngày nay.
1-MIẾN ĐỊA : LÃNH ĐỊA CỦA NHA PHIẾN, HỒNG NGỌC, MÁU VÀ NƯỚC MẤT:
Miến Ðiện là một quốc gia
trù phú, vì có nhiều tài nguyên thiên nhiên
và cũng là một trong những vựa lúa lớn nhất của thế giới tại Ðông Nam Á, có mức xuất cảng gạo (trước năm 1962) bằng Thái Lan và VN.
Dân tộc Miến Ðiện hiền lành vì hầu
hết đều theo
Phật Giáo. Nằm trong vịnh Bengal, phía tây bán đảo Ðông Dương, có chung biên giới
với Thái Lan, Lào, Trung Cộng và Ấn Ðộ, nhiều
sông ngòi, đồng ruộng, quặng mõ và rừng núi, diện tích 261.789 sq.ml hay 678.034 km2, dân số theo tài liệu của World
Atlas năm 2003 là 38.541.000 người, thủ đô Rangoon (2.458.712 người) và các
thành phố lớn khác như Akyan, Bassein, Inssein, Mandalay (532.895).. Người Miến
gồm 4 sắc tộc chính : Miến, Mon, Pyu và Shan nói các thổ ngữ Burmese, Karen,
Shan, Kachin, Kayah và English. Ðồng tiền chính là Kyat, hiện là một liên bang
có 7 tiểu quốc chính và các vùng tự trị như Chin, Kachin, Karan, Kayah, Mon,
Rakhine và Shan.
Thực dân
Anh xâm lăng và bắt đầu đô hộ miền Hạ Miến năm 1852 sau khi chiếm được các tỉnh ven biển và miền Nam Miến. Năm 1885 Anh chiếm thêm miền Bắc Miến trong đó
có cố đô Mandalay, xóa bỏ chế độ quân
chủ nước này. Cuối cùng Anh thống nhất Miến và đặt thành một tỉnh của Ấn Ðộ, trực
thuộc Công Ty Ðông Ấn.
Theo các
nguồn sử liệu đã được phổ biến, thì sự quan hệ giữa Miến và Nhật bắt đầu năm 1920
từ một phòng làm răng của vợ chồng viên đại úy hải quân người Nhật tên Shozo
Kokobu tại Rangoon. Ðây chính là địa điểm hoạt động tình báo của Nhật, qua mục
tiêu gây cuộc chiến tại Thái Bình Dương. Thời gian này toàn dân Miến đang nổi
lên chống lại thực dân Anh càng lúc càng quyết liệt. Thừa cơ hội vàng ròng, quân
phiệt Nhật tìm đủ mọi cách móc nối với các tổ chức nghĩa quan trên, qua trạm
liên lạc chính là phòng làm răng. Năm 1940 một đại tá lục quân Nhật tên Keiji
Suzuki, đóng vai phóng viên báo chí nhưng bên trong hoạt động tình báo. Chính
Suzuki đã tạo nên phong trào Ðông Du, để đưa các phe nhóm cánh hữu Miến Ðiện
sang Nhật mà người đầu tiên là Thein Maung, mở đầu cho Hội Hửu Nghị Nhật-Miến
được thành lập tại Rangoon.
Năm 1941
một lãnh tụ quốc gia Miến là Aung San đã từ Phúc Kiến sang Nhật lập một đầu cầu
đưa người sang đây để huấn luyện quân sự về nước chống Anh. Ðó là ‘ Nhóm Ba
Mươi Ðồng Chí ‘ mà thủ lảnh là Suzuki qua bí danh Bo Mogyoe hay tướng
sấm sét. Tuy nhiên trong nhóm này, mầm móng chia rẽ cũng đã lộ ra từ lúc ban đầu.
Ðó là nhóm chủ nghĩa quốc gia của lảnh tụ Aung San chủ trương
giao dịch với Nhật chỉ là con đường vụ lợi. Nhóm còn lại gồm 8 người thì theo
phe trục ‘ Ðức-Ý-Nhật ‘ mà người dẫn đầu của nhóm lúc đó là Shu Maung mới
31 tuổi qua bí danh Ne Win ‘ có nghĩa là mặt trời vinh quang, rất được Nhật tin
cậy nên được theo học tình báo và giới thiệu làm quen với giới trí thức đương
thời.
Mưu đồ
dành Miến Ðiện trong tay thực dân Anh của Nhật đã công khai bộc lộ từ tháng 3-1940
khi đổ bộ vào Miến để phá hoại con đường tiếp liệu, mà liên quân Anh-Mỹ mới mở
để nối liền Mandalay với Vân Nam, tiếp tế cho quân Trung Hoa Quốc Gia đang chận
đứng bước tiến của quân Nhật trên đất Tàu. Nhóm 30 người qua võ ‘ đơn vị đặc
nhiệm ‘ đã về nước khi quân Nhật chiếm được Rangoon ngày 7-3-1942. Về sau
nhìn thấy dã tâm xâm lăng của Nhật, nên phe quốc gia của Aung San quay sang hợp
tác với Ðồng Minh để chống Nhật từ tháng 3-1945.
-Nhựt Bổn khai sinh và nuôi dưỡng chế độ quân phiệt Miến Điện:
Chiến tranh kết thúc vào tháng 9-1945 khi Nhật đầu hàng Ðồng Minh vô điều kiện.
Thế nhưng sự giao hảo giữa Miến Nhật vẫn không kết thúc, sau khi lãnh tụ quốc
gia Miến Aung San bị ám sát chết ngày 19-7-1947 trước khi Anh trả độc lập cho
Miến năm 1948 nhưng mọi quyền hành trong nước kể cả quân đội, đều do Ne Win và
phe thân Nhật nắm giữ. Từ năm 1950 tới tháng 8-1988, đã xảy ra nhiều cuộc thảm
sát đồng bào biểu tình đòi dân chủ do nhóm quân phiệt Ne Win gây ra, nhưng Nhật
vẫn là nước viện trợ lớn nhất và đứng đầu sổ tại Miến. Sau đó vì bị dư luận
thế giới nguyền rủa nên Nhật bó buộc phải tạm thời cắt viện trợ Miến nhưng vẫn
không quên con mồi béo bở đã nắm trong tay từ nhiều năm qua, nên lại viện cớ sự
ra đời của cái gọi là ‘ Hội đồng tái lập luật pháp và trật tự quốc gia Miến
(SLORC) ‘ để vội vã công nhận nhóm quân phiệt cầm quyền từ ngày 17-2-1990
và tiếp tục viện trợ kinh tế cho một chế độ khủng bố, đang tiếp tục theo đuổi
chủ nghĩa phát xít của Ðức Ý Nhật trước Ðệ Nhị Thế Chiến, từng gây bao thảm họa
cho nhân loại nên đã bị diệt vong hơn 60 năm qua.
Ðiều này cũng dể hiểu vì hầu hết các thế hệ lảnh đạo của Miến từ lớp tiền phong
Ne Win cho tới thế hệ lãnh đạo thứ hai như Maung Maung (tổng thống), Tun Tin
(ngoại trưởng) kể cả lãnh tụ đối lập Aung San Sau Kyi (con Aung San bị ám sát
năm 1947) đều xuất thân từ lò đào tạo Nhật không nhiều thì ít, nên nếu Nhật
không quyết lòng giúp đở thì chế độ quân phiệt và Ne Win đã cuốn gói ra khỏi Miến
ngay từ năm 1962 chứ không phải kéo dài đến tận hôm nay để hoàng hành khủng bố
bắn giết đồng bào mình không gớm tay theo kiểu Nhật, Ý, Ðức trước 1945 và CSQT
sau này.
Một hành động bỉ ổi của Nhật thường được báo chí Tây Phương nhắc nhớ chế diểu,
đó việc Công ty Nihon Sekkei dùng tiền viện trợ của Nhật, thay vì giúp đở cho
người dân nghèo, lại đem xây Cung Thiên Văn tặng cho Ne Win , để tên tướng độc
tài dùng làm đài quan sát chiêm tinh đoán vận số của mình. Tóm lại sau nhiều
năm suy sụp vì chế độ độc tài đảng trị, cũng nhờ người Nhật vực dậy bằng viện
trợ nên kinh tế Miến khá hơn trước trong thập niên 1970. Sau đó đất nước lại
suy sụp vào giữa thập niên 80, vì tệ nạn tham nhũng của bọn quân phiệt lảnh đạo
các cấp, nên dù Nhật đã viện trợ tối đa vào năm 1986 tới 244 triệu USD nhưng
không cứu nổi sự sụp đổ của các xí nghiệp quốc doanh và số nợ núi mà nhóm quân
phiệt lảnh đạo vay của nước ngoài.
Từ khi xảy ra vụ thảm sát tại Rangoon vào tháng 8-1988 , chính phủ Nhật có phần
e dè về sự liên hệ với nhóm lãnh đạo quân phiệt vì dư luận chỉ trích quốc tế,
nên đã đình chỉ 19 dự án đang trợ giúp nhưng vì áp lực của phe cựu quân phiệt
trong nước, nên cuối cùng Nhật phải nhượng bộ. Rồi tháng 2-1989 lợi dụng tang lễ
Hoàng đế Hirohito , Nhật thừa nhận chế độ quân phiệt Miến, đồng thời tăng viện
trợ kinh tế cho nhóm này lên tới 9,2 tỷ Yen nếu cộng chung với việc tài trợ các
dự án bằng tiền vay, tổng cộng lên tới 125 tỷ Yen. Quan trọng hơn, đây là lần
thứ hai Nhật đã vì tư lợi cứu vớt một chế độ khủng bố hại dân thoát khỏi bờ vực
thẳm của sự sụp đổ. Rồi để tiến tới sự độc quyền tại Miến, người Nhật lại kêu gọi
các nước tập trung viện trợ cứu Miến như kiểu Ngân Hàng Thế Giới nhưng bị nhiều
nước phản đối và kết tội Nhật đã ngăn cản tiến trình cải đổi dân chủ tự do tại
nước này. Cũng trong năm 1989 Miến đã bán một phần tòa đại sứ của mình tại
Tokyo lên tới 240 triệu USD, nói là để trả nợ cho Nhật nhưng thực chất là để
mua vũ khí chống lại người dân trong nước lúc nào cũng muốn nổi dậy để lật đổ
chế độ bạo tàn .
Năm 1989 tướng Saw Maung đảo chính hạ bệ và bắt giam Ne Win, lập một triều đại
quân phiệt khác qua võ ‘ Hội đồng phục vụ trật tự và luật pháp quốc gia ‘
nên dù ban hành lệnh thiết quân luật nhưng vẫn không ngăn cản nổi các cuộc biểu
tình chống đối chế độ quân phiệt. Ðể xoa dịu lòng dân và dư luận quốc tế, chính
phủ quân phiệt cho tổ chức cuộc bầu cử quốc hội Miến vào tháng 5-1990 với kết
quả Liên minh dân chủ do bà Aung San Sun Kyi lãnh đạo đã toàn thắng với số ghế
392/489. Thế nhưng nhóm quân phiệt cầm quyền đã lật lộng, chẳng những không chịu
công nhận kết quả cuộc bầu cử, lại còn bắt giam các thành phần đối lập kể cả
lãnh tụ Aung San Sun Kyi cũng bị quản thúc tại gia. Năm 1992 Saw Maung từ chức
vì bệnh, Than Shwe lên thay thế làm trùm cả nước từ ấy đến nay. Cũng từ đó
người Nhật gần như bị mất hết những đặc quyền đặc lợi tại Miến vì Trung Cộng đã
nhảy vào trám chổ, biến nước này thành một thuộc địa cung cấp nguồn năng lượng
và mọi tài nguyên thiên nhiên kể cả thuốc phiện. Nhưng quan trọng
nhất là Trung Cộng đã mở được con đường chiến lược từ Vân Nam ra Ấn Ðộ Dương, một
ước vọng từ lâu nay mới đạt được. Nhớ đó Tàu mới thiết lập được nhiều căn cứ
quân sự quan trọng bí mật trên lảnh thổ Miến, nhất là tại đảo Great Coco Island
kiểm soát tàu bè các nước ra vào vịnh Bengal được coi như cửa khẩu huyết mạch của
miền đông Ấn Ðộ..
Theo sự tố cáo của Tổ chức Human Rights Watch (HRW) thì chính sáu nước Nga,
Trung Cộng, Ấn Ðộ, Do Thái, Nam và Bắc Hàn đã công khai bán nhiều
quân dụng và vủ khí tối tân cho quân phiệt Miến để họ có thêm phương tiện đàn
áp khủng bố dân lành. Ðó cũng là lý do Nga va Trung Cộng luôn nhất định ngăn cản
Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp Quốc không được có biện pháp mạnh với nhóm quân phiệt
Miến, nhất là vào tháng 9-2007, gây ra cuộc thảm sát, bắn chết 13 người và làm
thương vong hằng trăm người khác trong các cuộc xuống đường biểu tình chống độc
tài khủng bố. Trong số những nạn nhân gục ngả hoặc quằn quại trong vũng máu, có
nhiều vị Tăng-Ni và Phật Tử Miến. Hởi ôi nhìn Phật Giáo nước người sao mà tê
tái qua khi nghĩ tới chuyện nước mình nhưng không dám nói viết hay ghi một
phần ngàn sự thật về nổi đời ô trọc của quê hương vì không nói được dù đang sống
tại một quốc gia có quyền tự do ngôn luận như Hoa Kỳ.
Nhưng đâu phải chỉ có 6 nước trên đã buôn bán với quân phiệt, mà còn có các hảng
xăng dầu Tây Phuơng như Total (Pháp), Chevron (Mỹ) , Quốc Doanh Xăng Dầu (Thai
Lan) đã nuôi sống bọn tướng lãnh cầm quyền tham nhũng hơn 500 triệu Mỹ
kim hằng năm. Số tiền này sau đó nghi ngờ được Ngân Hàng Singapore tại Miến
tẩy sạch để lại đầu tư làm giàu thêm qua các dịch vụ béo bở độc quyền, chỉ dành
cho bọn tướng lãnh và các trùm ma tuý tai Tam Giác Vàng được nhà nước phong
quan chức nên hoạt động công khai .
-Bí mật
Tam Giác Vàng : :
Chính thực dân Anh là thủ phạm đã đem thuốc phiện vào đầu độc dân chúng
năm 1852 khi chiếm được vùng Hạ Miến Ðiện. Năm 1885 Anh làm chủ toàn thể nước
Miến và cũng từ đó đem cây thuốc phiện trồng khắp lảnh thổ Miến và vùng Tam
Giác Vàng, một điạ danh khét tiếng khắp thế giới về sản xuất nha phiến và
héroin.
Tam Giác Vàng hiện có dân số hơn 1 triệu người với 3000 thôn trại, gồm
nhiều sắc tộc thiểu số sinh sống như Dao, Mèo, Nùng, Thái, Hợp Ni.. Tất cả đều
không biết mình thuộc quốc tịch nào và hiện ở đâu, dù có chung nghề trồng và chế
biến thuốc phiện. Theo ghi nhận của báo chí thì diện tích để trồng á phiện tại
Tam Giác Vàng lên tới 67.000 ha, trong đó phần lớn thuộc lãnh thổ Miến
Ðiện lên tới 60.000 ha, Thái Lan và Lào chỉ chiếm một phần nhỏ , mỗi nước
3.500 ha. Hằng năm sản lượng thu hoạch từ 1200-1500 tấn nhưng phần lớn của Miến
Ðiện (900-1200 tấn). Tại Tam Giác Vàng việc mua bán thuốc phiện công khai từ loại
nguyên chất hay đã được tinh chế thành Héroine (80-90 %) . Theo cac chuyên
viên, thì cứ 10 tấn á phiện sau khi chế biến thu được 1 tấn héroine. Thuốc được
chuyển đi khắp thế giới qua các đường Thái Lan, Ấn Ðộ, Trung Cộng, Lào,
Kampuchia và VN. Sau đó mới phân phối sang Nhật, Ðài Loan, Úc, Liên Âu, Trung
Ðông, Hoa Kỳ..
Tại Miến Ðiện, trung tâm mua bán á phiện là thị trấn Shans được coi là nơi giao
dịch, chuyển hàng và phân phối thuốc đi khắp thế giới bằng đủ mọi phương tiện gồm
lừa, ngựa, người thồ và cả xe cộ của quân đội Miến. Giá cả thuốc luôn tăng theo
lũy thừa tiến, từ 70-90 USD /1 kg tại chổ, sẽ tăng lên từ 20.000 USD (Thái Lan)
tới 200.000 USD tai Hoa Kỳ ..
Lúc đầu người Anh chỉ mang thuốc phiện từ ngoài đem vào bán cho tới năm 1886 mới
chính thức cưởng bức người Miến trồng thuốc phiện và vận chuyển số thuốc này tới
Trung Hoa để bán. Theo chân Anh, thực dân Pháp sau khi chiếm được Ðông Dương đã
thỏa thuận với Anh biến ba nước Việt, Lào, Miên thành con đường vận chuyển Á
Phiện khắp thế giới. Sau đó Pháp trực tiếp đem cây thuốc phiện vào trồng tại Bắc
Việt và Lào, chủ yếu tại những vùng đất có người Thái, Thổ và Mèo sinh sống.
Trong thế chiến II, thực dân Pháp đã liên kết với các tù trưởng địa phương để bảo
vệ khu Tam Giác Vàng vì một nữa tổng kim ngạch mà Pháp thu được từ tiền buôn
bán Nha Phiến. Những năm đầu thập niên 50 của thế kỷ XX, Mỹ thay Pháp tại Ðông
Dương đã trực tiếp mua thuốc phiện của người Mèo tại Lào và VN, lúc đầu chỉ để
sử dụng trong lãnh vực y học nhưng sau đó vì số lượng sản xuất quá nhiều nên
món thuộc độc này lại sang tay các tập đoàn mua bán thuốc phiện tại Ðông Nam Á
. Từ sau năm 1960 được coi như thời kỳ vàng son của Tam Giác Vàng, do ba tập
đoàn thống lãnh : Dân Bản Ðịa, Lực Lượng Trung Hoa Quốc Dân Ðảng và các nhóm
mua bán Á Phiện có vũ trang.
-Quân
Ðội Tưởng Giới Thạch Khai Sinh Tam Giác Vàng :
Ngày 9-3-1950 Mao Trạch Ðông sau khi chiếm được Vân Nam từ Quốc Quân, đã mở cuộc
hành quân truy sát, đuổi giết các đơn vị còn lại của Tưởng Giới Thạch, khiến
hơn 800 tàn quân phải vuợt biên giới chạy vào lãnh thổ Miến Ðiện. Ðây là quân của
Sư đoàn 237 do Thiếu tướng Lý Quốc Huy chỉ huy. Tại đây có Sư đoàn 93 của Ðàm
Trung đã tới trước. Thế là hai đơn vị nhập lại qua danh xưng ‘ Sư đoàn phục
hưng ‘ do Huy làm trưởng và Trung phụ tá với quân số gần 2.000 người. Ðội quân
trên được chia thành 2 trung đoàn 707 do Huy thống lĩnh và 278 thì giao cho
Trung. Từ đó Quốc Quân của Tưởng tại đây bắt đầu chỉnh đốn, chiêu mộ và hoạt động
chống Hồng Quân của Mao dọc theo biên giới ba nước Trung Cộng-Thái Lan và Miến
Ðiện với một quân số trên 3.000 người, được tiếp tế đầy đủ quân trang dụng từ Mỹ
và Ðài Loan, nên trở thành một đao quân mạnh nhất tại Tam Giác Vàng
Tháng 8-1950 Lý Nhĩ nguyên Tư lệnh Quân Ðoàn 8 kiêm Tỉnh trưởng Vân Nam theo lệnh
Tưởng Giới Thạch từ Ðài Loan tới Tam Giác Vàng để tiếp quản và cải tổ đội quân
ô hợp tại đây thành một tổ chức mới với nhiệm vụ ‘ giải phóng Vân Nam ‘.Do
trên từ năm 1952, Ðài Loan không ngớt tăng cường cấp chỉ huy (700 sĩ quan) và
quân số lên tới 18.500 người. Lực lượng trên nhiều lần đụng độ với Miến Ðiện và
nước này (qua U Thant đang là Tổng thư Ký LHQ), đã khiếu nại với LHQ nên Ðài Loan
phải triệt thoái đội quân của Lý Nhĩ về nước. Thực tế Quốc Quân chỉ rút về khoảng
6000 người và để lại Sư Ðoàn 93 giao cho Liễu Nguyên Lân chỉ huy với mục đích
làm bàn đạp để Tưởng tái chiếm Vân Nam.
Tháng 1-1961 Trung Cộng liên hiệp với Miến Ðiện tổng tấn công Quốc quân tại
đây, khiến đơn vị này gần như tan rã nên Tưởng rút Lân về nước, chỉ còn để lại
Ðoàn Huy Vân ở lại tiếp tục chiến đấu. Tháng 1-1964 Vân đem tàn quân đầu hàng
chính phủ Thái Lan và trở thành Ðội Tự Vệ của nước này. Thực tế đạo quân của
Vân không liên hệ gì tới người Xiêm mà chủ yếu là mượn đất cắm dùi để buôn bán
nha phiến và làm bảo tiêu cho các băng nhóm mua bán thuốc phiện tại Tam Giác
Vàng. Chính trong đoàn quân này đã xuất hiện hai vua thuốc phiện đầu tiên là
La Hưng Hán và Khun Sa mà tiếng tăm cả thế giới đều biết.
La Hưng Hán sinh năm 1934 tại Miến Ðiện, xuất thân từ hàng ngủ Quốc Quân hoạt động
tại Tam Giác Vàng. Chỉ sau thời gian ngắn, nhờ thời cơ Hán leo dần lên tới vua
thuốc phiện bao trùm cả vùng Ðông Nam Á. Hắn được chính phủ Miến tin dùng ,
giúp phương tiện cho hắn buôn bán chuyển vận ma tuý đi khắp nơi lên tới 200 tấn
mỗi năm, thu được hơn 10 triệu đô la Mỹ. Năm 1973 Hán phản lại Miến nên bị nước
này đuổi giết, phải chạy sang Thái Lan và bị bắt đem về Ngưỡng Quang bị tuyên
án tử hình vào năm 1974 nhưng được em ruột là La Hưng Dân, tướng lãnh Miến cứu
thoát vì cả hai anh em họ La đều buôn bán á phiện.
Năm 1980 La Hưng Hán được ân xá và chính quyền quân phiệt lại sử dụng hắn để khống
chế con đường mua bán độc dược chống lại tập đoàn Khun Sa đang làm vua tại Tam
Giác Vàng. Tóm lại việc kinh doanh nha phiến tại đây trong thời gian suốt 45
năm qua, đã là những đồng tiền béo bở nhưng đẳm đầy máu lệ của cả nước, vẫn cứ
tiếp tục chảy vào túi bọn quân phiệt để chúng nuôi sống chế độ khủng bố bạo tàn
kéo dài tới ngày nay và chẳng biết tới khi nào mới chấm dứt. Ngoài thuốc phiện,
bọn quân phiệt còn có rất nhiều quyền lợi thu hoạch từ các bộ lạc miền núi như
gổ quý, vàng bạc, hồng ngọc.. Sự giống nhau tại Miến và VN ngày nay, là quân
phiệt và cộng sản đã hợp thức hóa bọn lãnh chúa buôn lậu từ thuốc phiện tới thịt
người, mở sòng bạc và buôn bán cả tài nguyên đất nước.. thành doanh nhân công
khai làm việc cho nhà nước như tập đoàn Năm Cam trước đây ở Sài Gòn.
-Bộ Tộc WA từ Săn Ðầu Người tới Sản Xuất Thuốc Phiện :
Bộ tộc thiểu số WA sống tại miền bắc Miến, giáp với tỉnh Vân Nam hiên còn khoảng
400.000 người, bị bên ngoài cô lập vì những tập tục dã man như giết người rồi cắt
đầu làm chiến lợi phẩm nhưng trên hết là những kẻ đang bị nguyền rủa vì đã mang
tai họa thảm khốc tới cho nhân loại, qua nguồn cung cấp bạch phiến đứng đầu thế
giới hiện nay, dù Khun Sa đã về hàng chính phủ quân phiệt. Thuốc trắng tinh
khiết số 4, được các kỷ sư hóa học Trung Cộng tới tận chổ bào chế và là kẻ thu
hoạch hằng tỷ đô la sau cùng , chứ không phải các nông dân WA vì giá tiền mua
thuốc tại địa phương chỉ bằng 1/1000 - 1/3000 giá cả tại các thị trường tiêu thụ
trên thế giới. Nghèo đói bệnh tật đã khiến cho hơn 40% trẻ con WA dưới 5 tuổi
chết vì số tiền thu hoạch từ bán thuốc phiện, được bộ tộc dùng nuôi dưởng
đạo quân đông tới 30.000 người, để bảo vệ vương quốc riêng của họ chống lại
chính phủ trung ương Miến.
-Hồng Ngọc : Nguồn lợi béo bở của các Lãnh Chúa Quân Phiệt Miến :
Thung lũng Mogok chuyên sản xuất Hồng Ngọc, chạy dài trên 20 km , nằm hút trong
rừng sâu thuộc lãnh thổ Miến, giáp với chân rặng Hy Mã Lạo Sơn, được giới buôn
bán kim hoàn thế giới biết tới từ năm 1955.Từ cố đô Mandalay dẫn tới thung lũng
Mogok không bao giờ an toàn vì bọn cướp luôn chực giết người để chiếm đoạt ngọc
cũng như tiền bạc. Thung lũng nằm sâu trong rừng núi, được cấu tạo bởi một
thành phần địa chất đặc biệt từ chất Corindon (Coromotum) tinh khiết hay Ngọc
Lam trong suốt. Sau đó qua sự pha trộn của nhiều chất hóa học khác hợp với
Titan và Thép, biến ngọc có nhiều màu trừ đỏ. Riêng chất Chrome mới tạo nên những
viên Hồng Ngọc ở đây có kích thước lớn và đẹp nhất không nơi nào khác sánh kịp.
Từ năm 1964 khi Ne Win tóm được quyền đã ra lệnh quốc doanh hóa 575 mỏ Hông
Ngọc tại Mogok. Sau khi Ne Win bi đảo chính vào năm 1989, nhóm quân phiệt cầm
quyền mới cho phép lập thêm các mỏ tư nhân bằng cách bán quyền khai thác mõ trong
thời hạn 2 năm và bắt chủ mướn mỏ phải chia thêm tiền thu nhập. Một phần
Hồng Ngọc sẽ được chính phủ bán đấu giá tại thị trường Emporium ở Rangoon, còn
phần lớn thì theo ngõ chợ đen đi khắp thế giới.
Ðường dây tải thuốc phiện tại Tam Giác Vàng cũng chính là phương tiện chuyển Hồng
Ngọc lậu sang Thái Lan. Hiện Mogok có khoảng 100.000 dân chuyên sống về đào và
buôn bán Hồng Ngọc. Yaw Sett thuộc bộ tộc Lisus có nguồn gốc Tây Tạng hiện được
coi là vua Hồng Ngọc của Miến.
-Mạch sống của chế độ quân phiệt là Ma Tuý :
Theo báo cáo của Bộ Ngoại Giao Mỹ tại Rangoon cho biết, tiền bán á phiện và
héroin tại Tam Giác Vàng của bọn lãnh chúa sau khi được rữa đã đem dầu tư hết
vào để nuôi sống nền kinh tế của bọn quân phiệt Miến suốt thập niên 90. Năm
1989 La hưng Hán (Lo Hsing Han) dùng tiền buôn bán á phiện đã rửa, dưới sự nâng
đở của nhà nước để mở tập đoàn Asia World kinh doanh đủ thứ từ gổ, vàng, địa ốc
cho tới dầu khí với số vốn trên 600 triệu đô la thu lợi nhuận hằng triệu mỹ kim
mỗi năm.Tập đoàn của La ngày nay được hưởng hầu hết đặc quyền đặc lợi của chính
phủ quân phiệt ở khắp lãnh thổ Miến, chiếm 15 % tổng số vốn đầu tư .
Trong khi đó tại một thung lũng rộng ở phía đông bắc Lashio là giang sơn thuốc
phiện của Pen Jiaheng. Riêng Khun Sa vua thuốc phiện sau La Hưng Hán, từ khi về
với quân phiệt, cũng được sống cuộc đời giàu sang tại Rangoon với nhiều cơ sở
làm ăn bạc triệu trong đó có công ty chuyển vận Good Shan Brother với một hệ thống
xe buyt nối liền Ngưởng Quang và Mandalay.
Nhưng mặc dù chính phủ quân phiệt luôn chối là không còn trồng cũng như buôn
bán thuốc phiện. Thật sự chúng chỉ đổi phương tiện và con đường chuyển vận mà
thôi. Hiện Tam Giác Vàng vẫn sản xuất 3000 tấn thuốc phiện mỗi năm, chiếm 60%
lượng cung cấp cả thị trường thế giới. Trước đây héroin từ Miến sang Thái Lan
và Vân Nam rồi chuyển đi khăp nơi. Nay thì bọn buôn lậu đã đổi hướng, dùng quốc
lộ 39 của Ấn Ðộ, chạy dọc theo biên giới Ấn-Miến dài 1643 km, qua những khu rừng
già dưới rặng Hy Mã Lạp Sơn, không ai có thể kiểm soát được. Ðặc biệt bọn buôn
lậu ngày nay mang thuốc phiện từ Tam Giác Vàng tới biên giới Ấn và mua các hóa
chất tại đây để tinh chế thành héroin vừa rẽ lại tiện lợi. Sau đó bột trắng được
tiêu thụ khắp các thành phố lớn tại Ấn, Tích Lan. Hồi Quốc, Trung Ðông, Âu Châu
và Hoa Kỳ. Tham gia vào việc buôn ban này ngoài viên chức và quân đội Miến còn
có chính quyền Ấn ở các tiểu bang miền đông. Tóm lại nói gì chăng nữa thì lượng
sản xuất thuốc phiện tại Miến Ðiện cứ tăng trưởng hằng năm trên 10%. Góp phần
vào việc chuyển vận ma tuý khắp thế giới là các tổ chức của người Wa và Shan
cùng với quân đội Miến .
Hiện nay Lâm Minh Hiển là vua mới sản xuất Heroin tại Tam Giác Vàng và cả Miến
Ðiện, thay thế La hưng Hán và Khun Sa. Phạm vi hoạt động của trùm ma tuý này hết
sức rộng lớn, trải dài từ miền đông Miến tới Vân Nam, Lào, Kampuchia và VN. Có
sự khác biệt giữa Khun Sa và Hiển, đó là Khun Sa thì buôn bán bí mật trong rừng
sâu, trái lại tập đoàn của Hiển thì công khai khắp Miến Ðiện vì Hiển được được
tập đoàn quân phiệt cầm quyền Rangoon bao che và hợp tác làm ăn. Hiển sinh năm
1950 tại Miến mang hai dòng máu Tàu và Shan. Tóm lại nạn buôn bán Bạch Phiến
trên thế giới có thể hy vọng chấm dứt được khi chế độ quân phiệt của Miến bị
tiêu diệt vì hiện tại vua thuốc phiện Lâm minh Hiển được phong chức ‘ đại biểu
của đại hội chế định Hiến pháp Miến ‘.Do đó tập đoàn thuốc phiện vẫn ung dung sống
ngoài vòng pháp luật, trước sự bất lực của thế giới trong đó có Hoa Kỳ
2- PHẬT GIÁO MIẾN ÐIỆN :
Từ trên phi cơ nhìn xuống đất nước Miến Ðiện, điều mà du khách cãm nhận đầu
tiên là hình ảnh của ruộng đồng cò bay thẳng cánh xen lẫn với đồi núi muôn
trùng và chùa chiền mọc lên khắp nơi trong nước. Xưa nay khi đề cập tới đất
nước này, trước tiên là phải nói tới sức mạnh của Phật Giáo, chẳng
những ảnh hưởng to lớn tại Miến Ðiện mà còn bao trùm khắp lịch sử các nước Á
Châu trong đó có Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Tây Tạng, Mãn Châu, Mông Cổ,
Ðài Loan,Việt Miên Lào, Thái Lan và Tích Lan. Ðiều này cũng dể hiểu vì căn cứ
vào truyền thuyết, thì trước khi nhập niết bàn, Ðức Phật Tổ Như Lai đã bốn lần
tới truyền đạo tại Miến mà huyền tích nay vẫn còn in đậm tại rặng núi đá
Saccabandha. Ðây là chốn linh thiêng nhất của Phật Giáo Tiểu Thừa Miến Ðiện,
bao đời được các vị vua chúa thuộc các sắc tộc Burma, Mon, Pyu, Shan và toàn
dân cả nước kính trọng tôn thờ.
Cái nôi đầu tiên của Phật Giáo là miền trung lưu vực sông Hằng và bành trướng mạnh
mẽ vào thời vua Asôca của vương quốc Maurya, đông tới Miến Ðiện, Tích Lan, tây
tới tận Syria,Ai Cập, phía bắc tới Ba Tư,Trung Á rồi từ đó theo con đường tơ lụa
vào Trung Quốc, truyền sang Cao Ly, Nhật Bản,Việt Nam. Tại phương Nam, Phật Giáo chủ yếu
là Tiểu Thừa từ Tích Lan vào Miến Ðiện,Thái Lan,Lào, Phù Nam,Chân Lạp, Vân Nam.
Mặt khác Phật Giáo Ðại Thừa cả Tiểu Thừa cũng theo con đường tơ lụa trên biển
truyền sang các tiểu quốc trên đảo Sumatra,Java,Bali.. thuộc Nam Dương và chính
từ đó Phật Giáo Ðại Thừa mới truyền vào Vương quôc Chiêm Thành từ thế kỷ thứ IV
(STL) nhưng thật sự khởi sắc và phát triển rực rở vào thế kỷ thứ X (STL).
Phật Giáo Tiểu Thừa truyền vào Tích Lan từ thế kỷ thứ III TrTL, lập phái Ðại Tự
ghi chép kinh điển PG khẩu truyền bằng văn tự địa phương. Ðầu thế kỷ thứ I STL,
Hòa Thượng Pháp Hi lập thêm phái Vô Úy, thế kỷ thứ IV có thêm phái Kỳ Ða Lâm
nhưng quan trọng nhất là việc nhà sư Ấn Ðộ tên là Giác Âm vào thế kỷ thứ V tới
đây chú thích các kinh điển Phật Giáo, trong đó có Tăng Già La của Tam Tạng và
biên soạn thêm Thanh Tịnh Ðạo Luận.. tất cả đều bằng tiếng Phạn-Pali. Từ đó Phật
Giáo Tiểu Thừa được hệ thống hoá và truyền khắp Nam Á tới ngày nay.
Từ cuối thế kỷ thứ XIX, Ðạt Ma Bà La lập Ðại Bồ Ðề, dấy lên phong trào chấn
hưng và bảo vệ các di tích cổ xưa của Phật Giáo, biên soạn kinh điển bằng tiếng
Pali, càng làm cho Phật Giáo Tiểu Thừa thêm rực rỡ ở Nam Á. Năm 1945, Tích Lan
độc lập và PG tiểu thừa trở thành quốc giáo với môn đồ chiếm hơn 94%, chùa chiền
có trên 5600 ngôi khắp cả nước.
Tại Miến Ðiện, buổi đầu Phật Giáo Ðại Thừa và Kim Cương Thừa rất thịnh hành. Giữa
thế kỷ XI ( STL), đời vua Anawrahta, thuộc vương triều Pagan, thống nhất Miến
Ðiện và trở thành một quốc gia sùng bái Phật Giáo tiểu thừa, xây dựng hàng loạt
chùa chiền, trong đó nổi tiếng nhất là Chùa Vàng Cung Thụy Hải còn truyền tới
ngày nay. Năm 1557, quốc vương Bayingnaung , thuộc triều đại Tangku, đúc chuông
lớn có khắc kinh văn bằng tiếng Pali,Miến và Thái tự để truyền thế. Các vị vua
đời sau tiếp tục coi Phật Giáo Tiểu Thừa là quốc giáo, dựng Tháp Phật Ða Lộc,
tu sữa Chùa Vàng, thu tập lại các văn bia của Phật Giáo, hiệu đính lần thứ 5
kinh Tam Tạng và đem khắc lên 729 bia đá, làm thành một bộ kinh điển độc nhất
vô nhị trên thế giới.
-CHÙA VÀNG : Là một trong những công trình kiến trúc vĩ đại nổi tiếng
của nhân loại, ngôi chùa vàng (Shwedagon) với tháp chuông cao ngất ẩn hiện giữa
bầu trời thủ đô Rangoon, bao đời vẫn được người Miến trang trọng coi đó là một
biểu tượng kiêu hãnh của dân tộc mình về sự dũng cảm và lòng tôn kính đối với Ðức
Phật Thích Ca như một bổn phận thiêng liêng tại đất nước này. Thánh tích được dựng
trên ngọn đồi Singuttara là phần cuối của rặng núi Pegu Yomas , được bao bọc bởi
rừng dừa xanh ngắt và tường vôi bên ngoài. Theo truyền thuyết cách đây hơn 2000
năm có hai thương nhân thuộc vương quốc Môn Okkala hành hương ở Ấn Ðộ về, đã
dâng cúng cho nhà chùa 8 sợi tóc của Ðức Phật Thích Ca để thờ phượng. Khởi đầu
chùa xây bằng gạch cao 9 m sau đó theo thời gian được Phật tử và các vị vua
chúa sùng đạo tiếp nối xây dựng càng ngày càng bề thế đẹp đẽ như bây giờ. Theo
tài liệu lưu trữ cho biết từ khi chùa được dựng lên tới nay, đã trải qua 8 lần
bị hư hại sụp đổ vì động đất nhưng lại được trùng tu và trang trí càng lúc càng
đẹp mới hơn trước, để muôn đời xứng đáng là một thánh tích cổ xưa và nổi tiếng
nhất của Phật Giáo trên hoàn vũ.
Chùa dựng trên một nền vuông cao với 175 bậc thang xây bằng đá trắng, chính giữa
là một bảo tháp hình quả chuông thờ bảo vật của Ðức Phật Như Lai. Năm 1362 Nữ
vương Shisawbu xây tháp cao lên 22m và mở rộng phạm vi chùa. Năm 1774 Quốc
vương Sinbyushi Ava nâng tháp cao tới 106m như hiện tại. Từ đó chùa cũng được
tái tạo rất rộng rãi với chu vi 426 m, chung quanh có 64 ngôi chùa nhỏ bao bọc,
với cùng một lối kiến trúc cửa hình bán nguyệt, mái lợp ngói đỏ xếp chồng lên
nhau như vãy rắn, trong điện thờ đủ các vị Phật với tư thế nằm đứng ngồi.. Tượng
được tạc bằng đồng đen, đá trắng, cẩm thạch.. được mạ hay thiếp vàng. Nhiều di
tích lịch sử vẫn còn nguyên vẹn trong ngôi chùa cổ kính này như Ðồi Máu
(Thewezekan) nơi vua Amirulda đã rữa kiếm sau khi chiến thắng quân thù. Kế bên
là Giếng Ngọc mà người xưa từng lấy nước ở đó để gội tóc của Ðức Phật trước khi
đặt vào bảo tháp. Trước chùa còn có cây Pippal được chiết từ cây bồ đề mẹ ở Ấn
Ðộ , nơi Ðức Như Lai đắc đạo. Chùa còn có một đại hồng chung lớn nhất thế giới,
được Quốc vương Singumin đúc năm 1778 nặng 27 tấn. Sau đó chuông được vua
Tharrawaddy tân trang lên tới 42 tấn vào năm 1841.
Nhưng vĩ đại hơn hết vẫn
là ngôi bảo tháp sừng sững giữa trời. Toàn tháp được mạ vàng y óng ánh có chiều
cao 49 m, đứng trên chiếc nền cao 1m. Ðặc biệt là phần chóp tháp được kiến trúc
như củ hành tây cao 17m, phía trên là hai tòa sen và một cái lọng 7 tầng cao 10
m đúc bằng sắt được mạ vàng. Chung quanh chiếc lọng có gắn 5448 viên kim cương cùng
2000 viên hồng ngọc và ngọc thạch. Ngoài riềm lọng còn được gắn thêm hằng ngàn
chiếc khánh nhỏ bằng vàng và bạc ngân vang theo từng cơn gió thổi. Cuối cùng
trên chót tháp là một trái cầu mạ vàng Seinbu có đường kính 0,25m được gắn 5000
viên kim cương và 1500 viên bảo thạch . Tóm lại chỉ riêng bảo tháp, các vị vua
chúa nữ hoàng và Phật tử Miến Ðiện đã cúng dường một số vàng trên 30 tấn và đã
sử dụng hơn 400.000 mét khối đá gạch.
Năm 1826 Anh chiếm Miến Ðiện và đã để lại cho quốc gia này biết bao nhiêu hậu
quả đau thương, từ việc bị mất đất đai cho tới niềm tự hào dân tộc . Cũng từ đó
đế quốc Miến coi như tan rã, các thuộc địa Tenasserim, Arakan, Assam, Manipur kể
luôn tỉnh Pegu thuộc lãnh thổ Miến đều thuộc Công Ty Ðông Ấn của Anh, kết liểu
triều đại cuối cùng Alaugpaya năm 1885. Nhưng dù đất nước bị người Anh chia cắt
và đem sáp nhập vào Ấn Ðộ, người Miến vẫn luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Phật
Giáo. Chính vua Mindon vào năm 1857 đã dời đô từ Amarapura tới Mandalay
(Hoàng thành) và biến nơi này thành một trung tâm chính của Phật Giáo, đã làm sống
lại thời huy hoàng cũng như bảo tồn những truyền thống tốt đẹp của quá khứ.
Trong các công trình xây dựng còn hiện hữu tới nay là khu chùa Kuthodaw , gồm một
ngôi chùa chính và 733 ngôi chùa nhỏ bao quanh, trong đó quan trọng nhất là bộ
kinh Tam Tạng (Tripitaka) viết bằng tiếng Pali, khắc trên những tảng đá trắng
thẳng đứng.
Do những công trình vĩ đại trên nên vua Mindon đã được người Anh lẫn dân chúng
yêu mến và đặt vào địa vị quan trọng nhất trong lịch sử cải cách Phật Giáo Miến
Ðiện. đưa tôn giáo này trở thành quốc giáo cả nước. Chính sách của vị vua này về
sau được Thủ tướng U Nu ứng dụng , biến Miến Ðiện thành một quốc gia Phật Giáo
và Phật Học Thế Giới. Tóm lại Phật Giáo là tôn giáo chính thức của Miến Ðiện
, được toàn dân cả nước cũng như tât cả các vị vua chúa các triều đại kể từ vua
Anawrahta xứ Pagan năm 1044 tới ngày naytin thờ. Do đó sự xóa bỏ chế độ quân chủ tuy có làm thay đổi địa vị của Phật Giáo
trong chính quyền nhưng tuyệt đối vẫn duy trì trong tâm khảm của dân chúng dù họ
không phải là Phật Tử. Ðó là lý do qua hai cuộc nổi dậy của người dân Miến đối
đầu với chế độ quân phiệt độc tài vào năm 1988 và mới đây trong tháng 9-2007, đều
do các vị Tăng-Ni lãnh đạo .
Ðọc lịch sử Ðông Nam Á của D.G.E. Hall qua những trang huyết sử viết về dân tộc
anh hùng Miến Ðiện, ta mới thật sự cúi đầu kính phục và ngưởng mộ quý vị tăng
ni ở đất nước này, xứng đáng được người đời xưng tụng vì tư cách đạo đức cùng với
lòng ái quốc không hề nhuốm mùi thế tục. Hởi ôi có đọc sử mới biết được ở
trên cõi đời này còn có những vị chân tu đầu trần chân đất sống nhờ sự bố thí hằng
ngày của thiên hạ. Thế nhưng suốt dòng lịch sử Miến, từ những ngày đất nước
bị rơi vào ách đô hộ của thực dân Anh, chính họ mới thật sự là những anh
hùng nam nữ dám đối mặt hiên ngang chống lại kẻ xâm lăng khi trong tay chỉ có
chuổi bồ đề, manh áo lam-nâu và đạo đức tuyệt vời của người tu sĩ. Không
như người Tàu cứ trơ mắt ếch nhìn các nước Tây Phương nhất là Anh, Nhật khinh
khi hạ nhục, thậm chí còn yết bảng cấm ‘ người Hoa và chó’ không được bén mảng
vào những nơi chốn công cộng ở khắp các tô giới thời liệt cướng xâu xé đất
nước này. Trái lại tại Miến chính các vị Tăng-Ni Phật Giáo mới chính là
những nam nử anh hùng, họ là kẻ sĩ dám hiên ngang đối mặt với bọn ngoại xâm để
quyết tâm giữ thanh danh cho dân nước và tư cách tri thức siêu phàm của người
tu sĩ quên đời, quên người, quên vòng danh lợi lẩn quẩn để xứng đáng khi đối
măt với Phật Tử và thế nhân, qua hai tiếng thân thương ‘ Bần Tăng, Bần Ni ‘ như
một bảng hiệu bảo đảm vàng mười.
Năm 1919 chỉ với lý do bọn du khách Anh ngang nhiên mang giầy vào chùa trái với
luật cấm, nên tăng lử chùa Eindawya đã dám dùng vũ lực để đuổi họ ra khỏi chùa.
Kết quả thực
dân Anh đã tuyên án tù chung thân cho vị sư trưởng nhưng cũng từ đó Phật Giáo đã
trở thành ngọn đuốc thiêng dẫn đường khai lối cho toàn dân Miến đứng dậy đánh đuổi
ngoại xâm. Suốt cuộc chiến, đã có hàng ngàn hằng vạn xác người thi nhau gục đổ
trên con đường cứu quốc, trong đó máu của tăng ni không sao đếm hết. Họ chết vì
súng đạn tra tấn tù đày hay như Ðại sư U.Wisara tuyệt thực tới chết, để phản đối
chính sách khủng bố đàn áp của thực dân .
Đầu năm 2011 vừa qua, nhân loại bàng hoàng trước sự thức
tĩnh của “ thế giới Ả Rập (the Arab Awakening) “ tại Bắc Phi và
Trung Đông, qua cuộc cách mạng Hoa Lài (Shia) đòi hỏi dân chủ. Biến cố lịch
sư của thế kỷ đã xãy ra quá nhanh chóng và dây chuyền, mặc dù có dậm chân tại
Syria vì chống đối quyết liệt của Nga, Tàu.. nhưng vẫn không đủ thời gian để
cho Hoa Kỳ hành động theo chiến lược đã đề ra tại hai khu vực trên.
Và cũng nhờ vậy mà chúng ta mới thấm thía hơn về chuyện “ nhân quyền và tự
do dân chủ “ trong chính sách ngoại giao của Mỹ, ưu tiên vẫn là
quyền lợi của Hoa Kỳ trên hết. Đó là thái độ bao che cho Yemen và Bahrain
(đồng minh quan trọng của Hoa Kỳ), là những nước đã dùng bạo lực để đàn áp
phong trào đòi hỏi dân chủ. Nói chung người Mỹ khi ủng hộ “ dân chủ hay
nhân quyền “ đều theo bài bản chỉ thị và chọn lọc đối tượng vật chất,
chứ không phải hành động theo lương tâm.
Tình hình chính trị tại Miến Điện cũng thay đổi một cách bất ngờ, từ khi cựu tướng
Thien Sein lên làm tổng thống. Ông đã thả hằng loạt tù nhân , tiếp đãi phái
đoàn ngoại giao Mỹ do bà Ngoại trưởng Hilary Clinton cầm đầu và Ngoại Trưởng
Pháp Alain Juppé. Ông cũng cho phép bà Aung San Suu Kyi một lãnh tụ đối lập nổi
tiếng ra ứng cử nhưng quan trọng nhât là ra lệnh ngưng việc xây dựng đập
nước trên một con sông ở Bắc Miến do Trung Cộng thầu.
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment