Thế
giới đánh hội đồng đập đầu Tàu Cộng theo thế liên hoàn:
(Petrotimes)
- Sự cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc tại Biển Đông là điều đang
diễn ra và chắc chắn sẽ ngày một mạnh mẽ hơn, các nước tại khu vực sẽ cần
có những bước đi hợp lý để tránh rơi vào tình trạng “nhất biên đảo”, nghĩa
là không dựa vào một bên để chống một bên.
Về mặt địa lý, Biển Đông là
điểm kết nối của những con đường hàng hải huyết mạch vận chuyển năng lượng,
dầu thô và khí đốt tự nhiên đi từ bán đảo Ảrập và cao nguyên Iran qua Ấn Độ
Dương sang khu vực kinh tế đầy sôi động Đông Á. Có thể thấy rằng, ngày nay
con người đang sống trong kỷ nguyên thông tin và hàng không nhưng vẫn có tới
90% hàng hóa thương mại được vận chuyển giữa các lục địa là bằng các tàu chở
container, trong đó có 1/3 lượng hàng hóa tính theo giá trị được vận chuyển
qua Biển Đông, con đường hàng hải kết nối Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương.
Thêm vào đó, Biển Đông được đánh giá là có trữ lượng dầu khí khổng lồ, cửa
ngõ của thương mại thế giới, nơi tập trung những tuyến đường hàng hải quốc
tế quan trọng. Vì vậy, nó thu hút được sự quan tâm chú ý của nhiều nước và
dĩ nhiên không loại trừ các cường quốc trong khu vực và trên thế giới.
Biển
Đông là khu vực tập trung nhiều tuyến hàng hải tấp nập nhất trên thế giới
Sự chuyển dịch trọng tâm
chiến lược an ninh sang khu vực Thái Bình Dương của Mỹ được Ngoại trưởng
Hillary Clinton tuyên bố chính thức vào tháng 11 năm ngoái và tái khẳng định
nhiều lần trong thời gian gần đây bởi chính Tổng thống Obama cũng như Ngoại
trưởng Hilarry Clinton. Khẳng định của Mỹ diễn ra đồng thời với thời điểm
Washington cần tập trung nhiều hơn vào việc đối phó với những khó khăn của
nền kinh tế nội địa. Nhưng thực tế, sự chuyển dịch trọng tâm này là điều
không thể tránh khỏi trong chiến lược lâu dài của Mỹ. Khẳng định việc tăng
cường sự hiện diện của Mỹ tại khu vực Thái Bình Dương càng làm cho những
tranh chấp về chủ quyền trên Biển Đông giữa Trung Quốc với các nước láng giềng
trở nên nóng bỏng hơn.
Vai trò của Mỹ đối với sự ổn
định trên Biển Đông
Hải quân Mỹ đã duy trì sự
hiện diện trên Biển Đông từ nhiều thập kỷ qua kể từ sau Chiến tranh thế giới
thứ 2. Hải quân và Không quân Mỹ đóng vai trò khá quan trọng trong việc đảm
bảo an ninh hàng hải tại Biển Đông, điều này cho phép vận tải hàng hóa qua
Biển Đông an toàn và đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa kể từ sau Chiến tranh
lạnh. Đây là đóng góp có tính tích cực thực sự mà Mỹ đem lại cho thế giới.
Ngoại
trưởng Mỹ: "Châu Á là động lực chính của chính trị toàn cầu và rất
quan trọng với Mỹ"
Sự thờ ơ của Mỹ với khu vực
Biển Đông trong một thời gian dài đã tạo khoảng trống cho Trung Quốc củng cố
và mở rộng ảnh hưởng tại đây. Nhưng sự trỗi dậy của bất kỳ cường quốc mới nổi
nào cần được theo dõi chặt chẽ, đặc biệt là khi trỗi dậy này kéo theo cuộc chạy
đua quân sự và xung đột tranh chấp lãnh thổ trong khu vực. Thậm chí với cả
Nhật Bản và Hàn Quốc, những đồng minh thân cận của Mỹ tại Đông Á, cũng đang
ra sức hiện đại hóa các hạm đội không quân và hải quân với những trang thiết
bị tối tân nhất. Một điều hiển nhiên, các nước nằm ở vị trí quanh Biển Đông
đang rơi vào cuộc chạy đua vũ trang, điều này làm phức tạp thêm tình hình
an ninh hàng hải khu vực. Sự hiện diện của Mỹ ở Biển Đông đã tạo nên sự cân
bằng, tương quan lực lượng giữa các nước lớn-nhỏ trong khu vực và kiềm chế
khả năng Trung Quốc dùng sức mạnh của mình để lấn át các nước nhỏ hơn.
Nếu Mỹ không quay trở lại
khu vực Thái Bình Dương sẽ gây ra nguy hại cho trật tự quân sự đa cực trên
Biển Đông do những căng thẳng chính trị và kinh tế trước đó. Hệ thống quân
sự đa cực càng trở nên bất ổn hơn lưỡng cực và đơn cực vì có nhiều sự tương
tác hơn giữa các cực với nhau và phát sinh nhiều toan tính sai lầm hơn bởi
mỗi quốc gia đơn lẻ đều tự điều chỉnh cân bằng quyền lực để có lợi hơn cho
mình. Sức mạnh quân sự Mỹ tại Biển Đông không chỉ tạo ra sự điều chỉnh phù
hợp với sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc mà còn để ổn định khu vực với sự
gia tăng tiềm lực quân sự của các nước. Nếu sức mạnh của Mỹ bị suy yếu thì
quan hệ giữa Trung Quốc, Ấn Độ và các cường quốc khác có thể trở nên hiếu
chiến hơn bởi vì trong thời điểm hiện tại, lợi ích của tất cả các nước về
lưu thông tại khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương đều do sự đảm bảo an ninh của Hải
quân và Không quân Mỹ.
Sự gia tăng ảnh hưởng của
Trung Quốc
Biển Đông liên quan với
Trung Quốc dưới nhiều góc độ: địa lý, lịch sử, tài nguyên và nhất là việc đảm
bảo các tuyến đường vận tải biển. Các tuyến đường hàng hải qua eo Malacca
có ý nghĩa sống còn với nước này vì đây là tuyến đường huyết mạch cung cấp
năng lượng cho nhu cầu khổng lồ của Trung Quốc. Nếu như đường biển này bị
phong tỏa chỉ một ngày thì xã hội Trung Quốc ngay lập tức sẽ rơi vào tình
trạng bất ổn.
Theo đó, chính sách của
Trung Quốc đối với Biển Đông là tránh đụng độ, dùng “sức mạnh mềm” để kiểm
soát các lợi ích của Trung Quốc liên quan tới Biển Đông. Trong khi nền kinh
tế Mỹ đang gặp phải khủng hoảng trầm trọng thì tiềm lực kinh tế dồi dào của
Trung Quốc vào thời điểm hiện tại đang là vũ khí lợi hại để Trung Quốc gia
tăng ảnh hưởng với các nước ven Biển Đông. Thông qua con đường tăng cường sự
ràng buộc về kinh tế, Trung Quốc tìm cách dịch chuyển cán cân lực lượng
nghiêng theo phía mình để dần đẩy Mỹ ra xa khu vực Biển Đông. Điều này nhằm
thiết lập ảnh hưởng lên các nước khác trong khu vực, khiến các nước này phụ
thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc và loại trừ khả năng liên kết với Mỹ để đối
phó với Trung Quốc.
Tàu
sân bay Liêu Ninh của Trung Quốc
Không chỉ tăng cường vai
trò ảnh hưởng ở khu vực xung quanh Biển Đông mà Trung Quốc còn mở rộng tầm ảnh
hưởng ra xa hơn, lan tới khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương, nơi được cho là khu
vực mà Mỹ đang nỗ lực thiết lập một vành đai để kiềm chế sự trỗi dậy của
Trung Quốc. Với việc giúp đỡ các nước khu vực duyên hải Ấn Độ Dương xây dựng
các cảng biển hiện đại nhất, từ Myanmar, Sri Lanka, Bangladesh, Pakistan tới
Kenya, Trung Quốc ngày càng tạo ra sự gắn bó lợi ích chặt chẽ hơn với các
nước này. Tất cả các dự án này được đưa ra là để phục vụ cho các mục đích
thương mại đơn thuần và được tài trợ bởi chính các công ty Trung Quốc. Tuy
nhiên, cũng có một vài trường hợp việc tài trợ xây dựng các cảng không thực
sự phục vụ cho mục đích thương mại. Ví dụ như cảng Gwadar tại Pakistan, được
xây dựng ở khu vực đang bất ổn chính trị khiến cho việc đưa vào sử dụng gặp
phải phiền toái.
Có thể nhận thấy, bước đi của Trung Quốc cũng giống như tất
cả các cường quốc trước đây, trước tiên là mở rộng phạm vi ảnh hưởng, sẵn
sàng thông qua đầu tư mạo hiểm để thiếp lập quan hệ sau đó tăng cường ảnh
hưởng về kinh tế, chính trị và quân sự.
Những vấn đề xảy ra trong nội
tại xã hội Trung Quốc do sự phát triển kinh tế quá nóng có thể làm hạn chế
chính sách bành trướng của Trung Quốc. Nhưng điều này chưa hẳn đã kìm bước
Trung Quốc trên con đường tiếp tục hiện đại hóa quân sự và hải quân để củng
cố ý đồ vươn ra Biển Đông. Vì vậy, Mỹ bị đẩy vào tình huống bị ép buộc phải
đối phó với sự gia tăng nhanh chóng về tiềm lực kinh tế và thương mại của
Trung Quốc.
Áp lực với Mỹ
Bức tường Berlin sụp đổ vào
năm 1989 phát đi tín hiệu về sự sụp đổ của mô hình Chủ nghĩa xã hội ở châu
Âu, khi đó các chuyên gia an ninh đã đưa ra nhận định về sự chuyển hướng
trong chính sách ngoại giao và sức mạnh quân sự tại Thái Bình Dương. Nhưng
cuộc chiến xâm lược Kuwait của Saddam Hussein năm 1990 đã khiến mối bận tâm
của Mỹ với khu vực Trung Đông kéo dài hàng thập kỷ. Quân đội Mỹ phải triển
khai chiến dịch trên mặt đất chống lại Iraq trong năm 1991 và lực lượng Hải
Quân và Không quân Mỹ phải duy trì để áp dụng vùng cấm bay những năm tiếp
sau đó.
Tiếp đến, sự kiện 11/9 đẩy chính quyền Bush lao vào cuộc chiến tại
Afghanistan và Iraq như một động thái đáp trả. Sau một thập kỷ bị sa lầy ở
Trung Đông, cuộc chiến cũng đi đến hồi kết và hậu quả là Mỹ trở nên “tương
đối cô lập” và quan hệ giữa Mỹ với các đồng minh thân cận cũng bị rạn nứt.
Vai trò của Mỹ ở nhiều khu vực bị suy giảm nghiêm trọng, đặc biệt là tại
các khu vực được cho là lợi ích chiến lược của Mỹ như khu vực châu Á-Thái
Bình Dương. Trong 8 năm dưới sự điều hành của chính quyền Tổng thống Bush,
Mỹ đã bỏ lỡ nhiều cơ hội cho sựu quay trở lại khu vực và việc gần đây Mỹ
bày tỏ quyết tâm dành nhiều nỗ lực tập trung vào trung tâm của kinh tế toàn
cầu - khu vực châu Á -Thái Bình Dương đòi hỏi Mỹ cần có nhiều động thái chứng
tỏ cam kết của mình.
Trung
Quốc đang ra sức bành trướng trên Biển Đông
Nhưng hiện tại, vai trò của
Mỹ tại Biển Đông đang đối mặt với nhiều thách thức: sự trỗi dậy của Trung
Quốc với sức mạnh tổng lực – có vị trí tiếp giáp với Biển Đông và các nước
ven bờ khác; sức mạnh kinh tế khiến Trung Quốc trở thành đối tác kinh tế lớn
nhất của hầu hết các nước quanh Biển Đông; và hạm đội tàu ngầm Trung Quốc
ngày càng được hiện đại hóa. Bắc Kinh đang đầu tư vào tàu ngầm, tên lửa
hành trình và không gian vũ trụ và chiến tranh điện tử như một phần của kế
hoạch xây dựng quốc phòng.
Có thể nói, Trung Quốc
không hề có ý định tiến hành một cuộc chiến với Mỹ nhưng sự đầu tư này của
Trung Quốc đang gây nhiều trở ngại cho Mỹ tại thời điểm khủng hoảng kinh tế.
Với chính sách “bành trướng” của Trung Quốc tại Biển Đông, đang gây ảnh hưởng
tới quyền chủ quyền của các nước như Việt Nam, Malaysia, Phillipines và
Singapore, tất cả các nước này đều là đồng minh chính thức hoặc đối tác
quan trọng với Mỹ. Đường “lưỡi bò” của Trung Quốc gần như “liếm” hết diện
tích Biển Đông, không chỉ xâm lấn tới chủ quyền của các nước ven Biển Đông
mà còn ảnh hưởng tới lưu thông hàng hải quốc tế, đặc biệt là các hoạt động
hằng hải truyền thống của Mỹ tại vùng biển này.
Tất nhiên, chính sách ngoại
giao của Mỹ đã để mắt nhiều hơn tới các động thái này của Trung Quốc trong
những năm qua, nhưng các nhà ngoại giao Mỹ có thể bị coi là thiếu sự tin cậy
nếu họ không được hỗ trợ bởi sự tăng cường hiện diện quân sự trong tương
lai.
Chính vì thế, trọng tâm chiến lược được đưa ra là: Mỹ không có ý định
rời bỏ hải quân tại châu Á trong thời điểm họ cần đến. Bởi vậy, một quan chức
ngoại giao cấp cao của một nước Biển Đông đã nói rằng nếu Mỹ có ý định rút
một tiểu đoàn máy bay chiến đấu khỏi khu vực thì sẽ có sự thay đổi về người
làm chủ trong cuộc chơi tại đây, đẩy các nước nhỏ trong khu vực tới chỗ bị
bức bách.
Bước đi đối phó của Mỹ với
Trung Quốc
Ý đồ đưa châu Á trở thành
trọng tâm trong chiến lược của Mỹ đã có cách đây hàng thập kỷ - điều này thể
hiện rõ trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Mỹ Richard Nixon từ năm
1972. Một khi Mỹ giảm bớt những bận tâm vào cuộc chiến ở Trung Đông sẽ cho
phép giới quan chức Mỹ rảnh rang hơn để thực hiện các mục đích ở nơi khác
và Biển Đông sẽ nhận được nhiều sự quan tâm hơn từ Mỹ.
Những động thái gần đây của
Mỹ đã chứng tỏ rõ điều này. Những đề nghị và hứa hẹn mà Washington đưa ra với
Myanmar và các kế hoạch hỗ trợ quân sự cho Australia hay Philippines là một
động thái chính trị và quân sự khẳng định sự quay trở lại khu vực châu
Á-Thái Bình Dương của Mỹ. Ngoại trưởng Clinton sẽ không tiếp tục chấp nhận
quan niệm coi Myanmar đơn giản chỉ là một vệ tinh của Bắc Kinh.
Còn
Australia, một quốc gia nằm ở vị trí giao thoa giữa Ấn Độ Dương và Thái
Bình Dương chỉ có 23 triệu dân nhưng sẽ nâng chi tiêu quân sự lên mức 279 tỷ
USD trong 2 thập kỷ tới cho trang thiết bị và hiện đại hóa tàu ngầm, máy
bay chiến đấu và các trang thiết bị hạng nặng khác. Australia có thể trở
thành đồng minh quan trọng nhất của Mỹ trong thế kỷ 21, hơn cả Anh, nước đồng
minh quan trọng nhất của Mỹ trong thế kỷ 20.
Nhà
lãnh đạo dân chủ Myanmar Aung San Suu Kyi tại cuộc gặp lịch sử với Tổng thống
Barack Obama ở Nhà Trắng
Báo cáo của Trung tâm An
ninh Mới của Mỹ (CNAS) đưa ra nhận xét: “Mỹ cần xây dựng một mạng lưới các
nước đối tác trong khu vực làm đối trọng với sức mạnh hải quân của Trung Quốc
trong khu vực. Việt Nam, Philippines là các nhân tố chính.
Nếu Việt Nam
không dám đương đầu với Trung Quốc thì các nước yếu hơn như Philippines sẽ
không thể nào dám đương đầu với Trung Quốc. Nếu sức mạnh của Mỹ suy giảm,
Việt Nam không có lựa chọn nào khác là phải sống chung với Trung Quốc”.
Mỹ
đánh giá Việt Nam có vai trò quan trọng hàng đầu với Trung Quốc tại Đông
Nam Á vì Việt Nam án ngữ ở bờ Tây của Biển Đông và có nền kinh tế phát triển
nhanh chóng, với dân số 87 triệu người, với tiềm lực ngày càng lớn mạnh.
Quan hệ quân sự Việt - Mỹ từ chỗ là kẻ thù trong chiến tranh, hiện đang ấm
dần lên, với việc hải quân hai nước thường xuyên có các hoạt động giao lưu
thường kỳ để tăng cường hiểu biết và phía Việt Nam tạo điều kiện cho phép
tàu hải quân Mỹ tiến hành việc tìm kiếm quân nhân mất tích trong vùng lãnh
hải Việt Nam tại Biển Đông.
Có thể dễ dàng nhận thấy rằng,
sự thay đổi trọng tâm chiến lược của Mỹ không hoàn toàn là để ngăn chặn
Trung Quốc. “Chính sách ngăn chặn” là một khái niệm đặc trưng trong thời kỳ
Chiến tranh lạnh chỉ các chính sách thù địch Mỹ đưa ra để đối phó với Liên
Xô. Quan hệ Mỹ - Trung Quốc thời điểm hiện tại lại hoàn toàn khác biệt,
đang có hàng chục nghìn sinh viên và nhân viên điều hành các tập đoàn Mỹ có
mặt tại Trung Quốc chứng kiến sự đa dạng và sâu rộng trong quan hệ Mỹ -
Trung Quốc. Tuy nhiên, sự hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông buộc Mỹ
phải xích lại gần hơn với các láng giềng của Trung Quốc để bảo vệ lợi ích của
chính Mỹ trên Biển Đông.
Kinh tế Mỹ đang đối mặt với
nhiều khó khăn trong khi các nền kinh tế có sức sống nhất thế giới nằm ở
châu Á-Thái Bình Dương và thực lực kinh tế đang dần chuyển dịch từ phương
Tây sang phương Đông nên Mỹ sẽ làm hết sức để bảo vệ lợi ích của mình.
Cùng
với đó, Mỹ cũng được các nước trong khu vực chào đón vì sự xuất hiện với
vai trò gìn giữ hòa bình và ổn định cũng như có vai trò trong sự phát triển
về kinh tế, xã hội và chính trị của các nước trong khu vực, làm giảm bớt
các lo ngại về sự bành trướng của Trung Quốc với Biển Đông. Sự cạnh tranh
chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc tại Biển Đông là điều đang diễn ra và chắc
chắn sẽ ngày một mạnh mẽ hơn, các nước tại khu vực sẽ cần có những bước đi
hợp lý để tránh rơi vào tình trạng “nhất biên đảo”, nghĩa là không dựa vào
một bên để chống một bên.
Chiến lược tái cân
bằng của Mỹ đang mang lại một diện mạo mới cho tranh chấp tại Biển Đông,
đồng thời cạnh tranh giữa các cường quốc càng khiến cho nhiệm vụ của ASEAN
trở nên phức tạp hơn.
Lời bình luận
Chính quyền Obama đã
và đang tái tập trung ngoại giao và lực lượng quân sự hướng về Châu Á-Thái
Bình Dương như một phần của chiến lược “tái cân bằng” của Mỹ. Bên cạnh việc
thúc đẩy quan hệ quân sự về chiều sâu với Phi-líp-pin, Mỹ đã tuyên bố vào
cuối năm 2011 việc thiết lập hiện diện luân phiên 2500 lính thủy đánh bộ Mỹ
tại Darwin, Úc và triển khai lực lượng bốn tàu tuần duyên LCS tại
Xinh-ga-po.
Tháng 6/2012, Bộ trưởng
Quốc phòng Mỹ Leon Panetta cũng tuyên bố rằng Mỹ triển khai 60% lực lượng hải
quân tới Thái Bình Dương. Chiến lược tái cân bằng của Mỹ đang mang lại một
diện mạo mới cho tranh chấp tại Biển Đông.
Chính sách của Mỹ tại
Biển Đông
Theo truyền thống, Mỹ
thường không sẵn sàng tham gia vào vấn đề chủ quyền tại Biển Đông. Thật vậy,
nước này liên tục tuyên bố rằng những vùng lãnh thổ do Phi-líp-pin yêu sách
không nằm trong phạm vi điều chỉnh của Hiệp định phòng thủ chung ngày
30/8/1951 ràng buộc Mỹ và Phi-líp-pin. Mỹ chỉ tập trung ở vấn đề bảo vệ quyền
tự do hàng hải và đảm bảo cho sự di chuyển của Hạm đội 7.
Song, cuộc đụng độ
giữa tàu giám sát biển Impeccable của Mỹ với lực lượng hải quân Trung Quốc
và các tàu tuần tra dân sự phía Nam đảo Hải Nam hồi tháng 9/2009 đã gây ra
quan ngại nghiêm trọng đối với Oa-sinh-tơn. Phía Bắc Kinh lên án rằng Impeccable
đang tiến hành nghiên cứu khoa học biển tại vùng đặc quyền kinh tế của
Trung Quốc trong khi hoạt động này cần phải có sự chấp thuận của nước này.
Trong khi đó, Oa-sinh-tơn lập luận rằng các hoạt động của tàu giám sát là
chính đáng theo nguyên tắc tự do hàng hải.
Lập trường của Mỹ tại
Biển Đông đã không có nhiều thay đổi cơ bản kể từ vụ việc Impeccable.
Oa-sinh-tơn vẫn không thể hiện lập trường nghiêng về bên nào trong tranh chấp
chủ quyền và tiếp tục hạn chế lợi ích cốt lõi ở vấn đề tự do hàng hải tại
các vùng biển có tranh chấp. Hơn nữa, Mỹ ngày càng tỏ ra quan tâm tới việc
Trung Quốc nâng cao năng lực hải quân và không cảm thấy yên tâm với cam kết
của Trung Quốc về nguyên tắc tự do hàng hải tại các vùng biển có tranh chấp.
Ngoại giao chủ động
của Mỹ
Tại Đối thoại
Shangri-La năm 2010, Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates tuyên bố rằng
Oa-sinh-tơn không đứng về bên nào trong tranh chấp chủ quyền, tuy nhiên, Mỹ
phản đối bất cứ hành động nào đe dọa tự do hàng hải tại Biển Đông. Tuyên bố
của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tại Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) hồi
tháng 7/2010 đã thể hiện Mỹ có lợi ích quốc gia về tự do hàng hải tại Biển
Đông, điều này đã khiến Trung Quốc giận dữ. Bắc Kinh coi những bình luận của
Ngoại trưởng Mỹ giống như một hành động can thiệp từ bên ngoài. Bà Clinton
một lần nữa lại đề cập tới Biển Đông tại Hội nghị ARF tại Bali tháng
7/2011, khi đó, bà khuyến khích ASEAN và Trung Quốc sớm đạt được bộ quy tắc
ứng xử về vấn đề này.
Bản thân Tổng thống
Obama đã đẩy vấn đề Biển Đông tại Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS) tại
Bali vào tháng 11/2011. Ông đã khẳng định lại rằng Mỹ không đứng về bên nào
trong các tranh chấp nhưng lợi ích của Mỹ bao gồm tự do hàng hải và thương
mại không bị cản trở trong vùng biển nửa kín này. Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia
Bảo phản ứng qua việc khẳng định nguyên tắc tự do hàng hải và kêu gọi giải
quyết hòa bình các tranh chấp tại Biển Đông.
Sau khi Việt Nam và
In-đô-nê-xi-a nắm vai trò chủ tịch ASEAN, các nước tiếp theo giữ vai trò chủ
tịch luân phiên thường niên là Cam-pu-chia, Bru-nây và My-an-ma, là các quốc
gia được cho là sẽ đi theo Bắc Kinh bằng cách hạn chế tối đa việc quốc tế
hóa vấn đề Biển Đông.
Điều này đã từng có
tiền lệ tại Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (AMM) được tổ chức tại Cam-pu-chia
tháng 7/2012 khi các quốc gia Đông Nam Á thất bại khi không thông qua được
bản tuyên bố chung do những khác biệt quan điểm về Biển Đông. Mặc dù có mặt
trong Hội nghị ARF diễn ra ngay sau đó, Ngoại trưởng Mỹ cũng không can thiệp
vào công việc nội bộ của ASEAN.
Phản ứng của Trung Quốc
Trung Quốc coi chiến
lược tái cân bằng của Mỹ như là một nỗ lực bao vây sự trỗi dậy hòa bình của
Trung Quốc tại Châu Á. Từ quan điểm của Trung Quốc, Oa-sinh-tơn đang cố gắng
bao vây Trung Quốc bằng cách tăng cường các mối quan hệ đồng minh song
phương và triển khai nhiều quân lính và tiền của tới khu vực này. Đặc biệt,
Mỹ đang thúc đẩy việc can thiệp ở Biển Đông, do đó can dự vào những vấn đề
mà Bắc Kinh coi là song phương với các bên yêu sách Đông Nam Á. Trung Quốc
cũng nhận định những hoạt động gần đây của Phi-líp-pin tại các vùng biển
tranh chấp, chẳng hạn như trong vụ bãi cạn Scarborough năm 2012, chịu sự ảnh
hưởng của Oa-sinh-tơn.
Trung Quốc và Mỹ tìm
cách ngăn chặn khả năng quân sự hóa các tranh chấp. Bắc Kinh và Oa-sinh-tơn
coi Biển Đông là một vấn đề cần một giải pháp ngoại giao thay vì sử dụng
quân sự, và ít nhất trong thời điểm hiện nay, hai nước này đều sẵn sàng để
ASEAN định hướng quá trình quản lý xung đột.
Tuy nhiên,
Oa-sinh-tơn và Bắc Kinh đều không đồng thuận về việc tranh chấp Biển Đông
nên được bàn thảo ở cấp độ nào. Mỹ muốn vấn đề này được đặt ra tại các diễn
đàn quốc tế, tuy nhiên, điều này vẫn là vấn đề lớn đối với Trung Quốc. Bắc
Kinh càng ngày càng quan tâm tới bất cứ các nỗ lực quốc tế hóa tranh chấp,
thay vào đó, nước này muốn thảo luận các vấn đề theo kênh song phương với từng
bên yêu sách Đông Nam Á yếu thế hơn. Do đó, cuộc đối đầu và cạnh tranh giữa
các cường quốc tại Biển Đông càng khiến cho nhiệm vụ của ASEAN trở nên phức
tạp hơn trong tương lai.
Tiến
sỹ Ralf Emmers là Giáo sư liên kết và Điều phối Chương trình Chủ nghĩa đa
phương và khu vực hóa tại trường Quan hệ quốc tế Rajaratnam (RSIS), Trường
Đại học công nghệ Nanyang.
**************************************************************************************************
- Mỹ đang hiện thực hóa tuyên bố dồn 60% nguồn lực hải quân
đến châu Á-Thái Bình Dương khi điều lượng lớn tàu chiến, hàng không mẫu
hạm... đến khu vực này. Diễn biến này khiến Trung Quốc cảm thấy đứng ngồi
không yên.
Tháng 6/2012, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon
Panetta tuyên bố nước Mỹ sẽ chuyển trong tâm chiến lược sang khu vực châu Á
- Thái Bình Dương. Theo đó, nước này sẽ điều 60% lực lượng tàu hải quân đến
Thái Bình Dương trong thập niên tới.
Tính tới thời điểm này, nước Mỹ đã gấp rút
hiện thực hóa tuyên bố trên. Quan chức hải quân Mỹ hôm 30/9 xác nhận, cụm
tàu sân bay tấn công USS
George Washington
đã bắt đầu hoạt động ở Hoa Đông, không xa Điếu Ngư/Senkaku, quần đảo tranh
chấp giữa Trung Quốc và Nhật.
Mỹ vốn tuyên bố không đứng về phía nào
trong vụ tranh chấp. Tuy nhiên, các quan chức Mỹ đã nói rõ rằng quần đảo
Điếu Ngư/Senkaku nằm trong phạm vi Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật và Washington
có nghĩa vụ hỗ trợ Tokyo trong trường hợp quần đảo này bị tấn công.
Cụm hàng không mẫu hạm USS John C.Stennis
cũng cách Biển Đông không xa. Mỗi cụm tàu trên được vũ trang hơn 80 máy bay
chiến đấu, tàu tuần dương có trang bị tên lửa dẫn đường và tàu khu trục,
tàu ngầm và tàu tiếp tế.
Tại vùng biển Philippines gần đó, khoảng
2.200 lính thủy đánh bộ đang có mặt trên tàu USS Bonhomme Richard và hai
tàu hộ tống.
SS Bonhomme Richard cũng đem theo các
phương tiện tấn công lưỡng cư, các phương tiện hạng nhẹ, pháo, trực thăng
và chiến đấu cơ Harrie. Tàu sân bay này sẽ tham gia cuộc diễn tập chung với
lính thủy đánh bộ Philippines trong tháng này.
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Ashton Carter
tiết lộ rằng Lầu Năm Góc hiện đang đầu tư phát triển nhiều loại khí tài mới
phục vụ cho các chiến dịch tại châu Á - Thái Bình Dương, từ tàu ngầm lớp
Virginia mới, máy bay tiếp tế nhiên liệu loại mới đến máy bay ném bom tàng
hình.
Thời gian tới, Lầu Năm Góc sẽ triển khai
2.500 quân đến Úc, bốn tàu tuần duyên chiến đấu đến đồn trú tại Singapore
và đồng thời cũng sẽ hoàn tất việc chuyển quân từ Okinawa (Nhật) sang đảo
Guam.
Thứ trưởng Carter còn nói thêm rằng Mỹ đã
điều động chiến đấu cơ tàng hình F-22 đến Nhật...
... Loại tiêm kích phối hợp tác chiến thế
hệ mới F-35 cũng sẽ được đưa đến đây khi mẫu máy bay này được phát triển
xong.
theo pn
*****************************************************************************************************
Hàng loạt biện
pháp của Trung Quốc tung ra trong vấn đề Biển Đông đã thu hút sự chú đặc
biệt không chỉ của Mỹ và Nhật Bản, mà còn của cả Nga và Ấn Độ. Mỗi nước đều
có suy tính chiến lược riêng trong cuộc đọ sức giữa các cường quốc ở Biển
Đông.
Đối
với Mỹ, nếu Trung Quốc chỉ tìm kiếm trở thành một cường quốc trên đất liền,
từ bỏ tham vọng trở thành cường quốc trên biển, Trung Quốc sẽ không gây ra ảnh
hưởng mang tính thực chất đối với địa vị chủ đạo thế giới của Mỹ. Thứ nhất,
về vị trí địa lý, Trung Quốc lớn mạnh trên bộ cùng lắm chỉ trở thành một nước
lớn ở khu vực châu Á, sức ảnh hưởng toàn cầu của Trung Quốc không thể sánh
với Mỹ. Thứ hai, ảnh hưởng quân sự của Trung Quốc sẽ bị hạn chế trên đất liền,
không thể vươn xa ra đại dương, điều này khiến Trung Quốc trở thành một gã
khổng lồ què, đồng thời cũng không tạo thành mối đe dọa đối với ảnh hưởng
quân sự của Mỹ tại Biển Đông. Tuy nhiên, nếu Trung Quốc thực hiện thành
công tham vọng trở thành cường quốc trên biển, Trung Quốc sẽ trở thành một
gã khổng lồ đúng nghĩa, sẽ tạo thành mối đe dọa nghiêm trọng đối với địa vị
chủ đạo thế giới của Mỹ. Gần đây, các động thái của Mỹ trong vấn đề Biển
Đông hay quần đảo Điếu Ngư đã phản ánh rõ sự lo ngại cao độ của Mỹ trước
tham vọng trở thành cường quốc trên biển của Trung Quốc. Có thể khẳng định
rằng, nếu Trung Quốc tiếp tục áp dụng các biện pháp trên Biển Đông, đối
kháng Trung-Mỹ tại đây sẽ ngày càng quyết liệt.
Sau
Chiến tranh Thế giới Thứ II, lực lượng quân sự Nhật Bản tuy bị hạn chế,
song không thể phủ nhận vị trí cường quốc tại châu Á của Nhật Bản. Vì là
hai nước gần nhau nên nỗ lực trở thành cường quốc trên biển của Trung Quốc
bị Nhật Bản coi là một mối đe dọa nghiêm trọng từ bên ngoài. Thứ nhất, Nhật
Bản là một nước phụ thuộc nặng nề vào biển, nếu Trung Quốc xây dựng tại Biển
Đông một lực lượng trên biển mạnh, đây là điều Nhật Bản không thể chấp nhận.
Thứ hai, nếu Trung Quốc giải quyết vấn đề Biển Đông thành công, Trung Quốc
sẽ có ưu thế trong vấn đề quần đảo Điếu Ngư và tất nhiên Nhật Bản sẽ thất
thế trong cuộc tranh chấp này, đây cũng là điều Nhật Bản không thể chấp nhận.
Gần
đây, Nhật Bản đẩy nhanh xây dựng lực lượng quân sự, đưa ra Sách trắng Quốc
phòng nhằm vào Trung Quốc, không chịu nhượng bộ trong vấn đề quần đảo Điếu
Ngư và đổ thêm dầu vào ngọn lửa tranh chấp Biển Đông, thực tế là nhằm cản
trở các biện pháp phát triển lực lượng trên biển của Trung Quốc. Cùng với
việc Trung Quốc từng bước thực hiện chiến lược biển, cọ sát Trung-Nhật
trong lĩnh vực an ninh trên biển sẽ ngày càng gia tăng.
Hải
quân Nga gần đây có kế hoạch tái xây dựng một căn cứ hải quân tại cảng Cam
Ranh của Việt Nam, dồn dập ký kết các hợp đồng bán vũ khí cho các nước Đông
Nam Á, bán cho Việt Nam hàng loạt máy bay chiến đấu tiên tiến, tàu ngầm,
tàu chiến và hệ thống chống tên lửa. Động thái này đang gia tăng những nhân
tố bất ổn mới cho việc giải quyết vấn đề Biển Đông, đồng thời phản ánh mối
lo ngại sâu sắc trước khả năng Trung Quốc trở thành cường quốc biển. Tuy
Trung-Nga đã xây dựng mối quan hệ đối tác chiến lược, song Nga không hề hy
vọng Trung Quốc trở thành nhà lãnh đạo thực sự của khu vực châu Á-Thái Bình
Dương.
Về
phần Ấn Độ, chiến lược Ấn Độ Dương của Niu Đêli đòi hỏi nước này phải can dự
vào các sự vụ ở Biển Đông. Tuy xuất phát điểm của chiến lược Ấn Độ Dương nằm
ở việc xây dựng ưu thế của Ấn Độ trên Ấn Độ Dương, song cùng với sự phát
triển của chiến lược này và cùng với sự lớn mạnh của Hải quân Ấn Độ, Niu
Đêli ngày càng cảm thấy không thỏa mãn với vị trí người đứng đầu Ấn Độ
Dương. Mấy năm gần đây, Ấn Độ không ngừng tăng cường năng lực tác chiến viễn
dương, xây dựng Bộ Tư lệnh Hải quân Viễn Đông tại quần đảo Andaman cách
Đông Nam Á vài trăm cây số, mục đích của nó là quyết không chỉ tăng cường
năng lực kiểm soát đối với Ấn Độ Dương, mà là mở rộng tầm ảnh hưởng tới khu
vực Biển Đông rộng lớn.
Bên
cạnh đó, Ấn Độ có ý đồ thông qua can thiệp vào vấn đề Biển Đông để kiềm chế
Trung Quốc. Giới chiến lược Ấn Độ cho rằng Trung Quốc về lâu dài sẽ là mối
đe dọa nghiêm trọng đối với Ấn Độ, nhất là khi tiến trình hiện đại hóa quân
sự của Trung Quốc không ngừng được đẩy nhanh và chính sách ngoại giao ngày
càng cứng rắn. Do Trung Quốc và Ấn Độ có sự trùng hợp lợi ích về mặt chiến
lược địa chính trị nên quan hệ Trung-Ấn trong tương lai sẽ chịu càng nhiều
đối kháng địa chính trị. Trong bối cảnh này, Ấn Độ có ý đồ biến vấn đề Biển
Đông thành một điểm trong chính sách kiềm chế Trung Quốc. Với sự can dự vào
vấn đề Biển Đông, Ấn Độ không chỉ có điều kiện khai thác tài nguyên dầu khí
ở vùng biển này và gia tăng quan hệ kinh tế, quốc phòng với các nước ASEAN,
mà quan trọng hơn, với sự tăng cường hiện diện quân sự tại Biển Đông, Ấn Độ
có thể ngăn chặn việc Trung Quốc tiến vào Ấn Độ Dương. Ngoài ra, có học giả
Ấn Độ cũng chỉ ra rằng cần lợi dụng vấn đề Biển Đông để làm con bài chiến
lược trong đàm phán biên giới trên bộ Trung-Ấn.
Theo
mạng “Bình luận Trung Quốc” (Hồng Công)
|
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment