ĐẠI HỘI 18 ĐẢNG CSTQ:
VẤN ĐỀ & GIẢI QUYẾT
Giáo sư
Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva,
14.11.2012
Đại Hội đảng CSTQ tại Bắc Kinh khai mạc ngày 08.11.2012. Ngày 09.11.2012,
chúng tôi đọc báo xem phía Tây phương nhận định thế nào về Đại Hội 18 đảng
CSTQ. Cầm tờ LE FIGARO ngày 09.11.2012 lên, chúng tôi hớn hở với hàng chữ
lớn ở trang nhất bên cạnh tấm hình lớn chụp chung HỒ CẨM ĐÀO và TẬP CẨM BÌNH
“Socialistes
et Communistes !
RIEN
NE VA PLUS”
(Hỡi
những người theo Xã Hội Chủ Nghĩa và những người Cộng sản !
CUỘC
CHƠI CHẤM DỨT (chữ dùng ở Casino!))
Đọc xuống dưới cũng của tờ LE FIGARO cùng ngày, đầu đề của Bài Quan Điểm của
Paul-Henri du Limbert là:
“PS-PC:
LA FIN DE L’HISTOIRE !
(Đảng
Xã Hội-Đảng Cộng sản: NGÀY CUỐI CÙNG CỦA LỊCH SỬ !)
Tuy nhiên nếu đọc kỹ vào nội dung của hai bài này, thì LE FIGARO nói về những
người Xã Hội Chủ nghĩa và Cộng sản Pháp bên cạnh hình đăng Hồ Cẩm Đào và Tập Cẩm
Bình.
Đọc tiếp những báo khác cùng ngày 09.11.2012 xem việc thay nhân sự Lãnh đạo có
kèm theo những hướng thay đổi nào không cho những vấn đề khá nóng bỏng hiện nay
tại Trung quốc, nhất là tình trạng thối lui đã mấy năm nay về Kinh tế. Tờ LE
TEMPS (Thụy sĩ) đăng trang nhất đầu đề lớn nói về Bài Diễn Văn của Chủ tịch HỒ
CẨM ĐÀO: “EN CHINE, HU JINTAO DENONCE LA CORRUPTION, FATALE AU PARTI “ (Ở Trung
Quốc, Hồ Cẩm Đào tố cáo THAM NHŨNG, cú định mệnh cho Đảng). Tờ TRIBUNE DE
GENEVE chạy hàng chữ lớn 5 cột báo: “HU JINTAO LEGUE UNE CHINE AFFAIBLIE A SES
SUCCESSEURS” (Hồ Cẩm Đào để lại một nước Trung quốc bị yếu đi cho những người nối
tiếp ông). Tờ LE MONDE cũng chạy hàng chữ 6 cột báo: “HU JINTAO QUITTE LA
DIRECTION DU PCC SUR UN APPEL AUX REFORMES “ (Hồ Cẩm Đào rờ bỏ điều hành đảng
CSTQ với lời kêu gọi cải cách). Về phía báo Anh ngữ, tờ FINANCIAL TIMES nhận định
với hàng chữ :”HU RESSAERTS PARTY’S TIGHT GRIP “ (Hồ tái khẳng định việc nắm giữ
xiết chặt lại của đảng). Tờ THE WALL STREET JOURNAL đăng bài của Brian SPEGELE
& James T.AREDDY với đầu đề : “CHINA‘S ABILITY TO REFORM TESTED “ (Khả
năng cải cách của Trung quốc được thử nghiệm). Tờ INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE
viết với đầu đề: “WITH WARNING, HU SHAPES LEGACY “ (Với lời cảnh báo, Hồ để lại
di sản).
Hình ảnh được chọn đăng trên trang nhất của một số lớn các nhật báo là tấm hình
Tập Cẩm Bình đang đứng liền sau lưng của hai cựu Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Giang
Trạch Dân. Hồ Cẩm Đào và Giang Trạch Dân là hai người được lựa chọn trực tiếp bởi
Đặng Tiểu Bình. Một nhật báo nhận xét rằng con đường mà đảng CSTQ sẽ theo là
con đường đã được vạch ra từ Đặng Tiểu Bình: Lợi dụng Kinh tế Tự do Thị trường
của Tư bản nhưng giữ vững Chính trị độc tài của đảng.
Với những thông tin mới nhất của Truyền thông Tây phương như vừa nêu trên làm tỉ
dụ, với những nhận định tình hình Chính trị và chính yếu việc thối lui Kinh tế
của Trung quốc trong một số năm nay mà chúng tôi đã có nhiều lần viết ra, nhất
là về những khía cạnh có tính cách căn bản và thường xuyên về thực hành cũng
như về lý thuyết, chúng tôi muốn tìm hiểu đâu là những VẤN ĐỀ mà Trung quốc
đang gặp phải, đồng thời nhìn xem hướng cải cách, thay đổi mà những Lãnh đạo mới
của Trung quốc phải làm và có thể làm.
Trong bài này, chúng tôi sẽ đề cập đến những điểm sau đây:
=>
Lựa chọn một Hệ thống Kinh tế và Môi trường Chính trị-Luật pháp phù hợp cho Hệ
thống Kinh tế được lựa chọn
=>
Mô hình Kinh tế—Chính trị được lựa chọn từ thời Đặng Tiểu Bình mà cho đến nay vẫn
chưa có những Cải cách chính yếu.
=>
Hai cảnh báo và một lời khuyên của Hồ Cẩm Đào trong bài Diễn Văn mang tính cách
Định mệnh tàn phá hay cứu vãn Đảng và Nhà Nước TQ.
=>
Nan giải nội tại của đảng CSTQ đưa đến bất lực Cải cách Mô hình Chính trị-Kinh
tế hiện hành tréo cẳng ngỗng
Lựa chọn một Hệ thống Kinh tế và
Môi trường Chính trị-Luật pháp phù hợp
cho Hệ thống Kinh tế được lựa chọn
Giữa Kinh tế và Chính trị có những liên hệ mật thiết. Mỗi Hệ thống Kinh tế đòi
hỏi một Môi trường Chính trị—Luật pháp phù hợp thì nền Kinh tế quốc gia mới triển
nở đều đặn. Khi một cách thế Chính trị điều hành quần chúng không phù hợp với
sinh hoạt Kinh tế dân, nhất là còn nhằm bóc lột Kinh tế của dân, thì quần chúng
bị bóc lột trước sau gì cũng cũng bạo loạn chống lại những kẻ áp đặt Chính trị
cho Xã hội. Lịch sử những cuộc đại Cách Mạng cho thấy rằng cái động cơ cách mạng
là từ đời sống Kinh tế quần chúng: Cách Mạng Pháp 1789 do đời sống dân chúng
cùng cực trước những vua chúa và giáo sĩ giầu sang hoang phí; cuộc Cách Mạng
1917 tại Nga cũng do quần chúng chịu cảnh vô sản cùng cực; cuộc Cách Mạng đạp đổ
Chính trị độc tài tại Nga và Đông Au cũng từ quần chúng phải chịu hậu quả của một
Hệ thống Kinh tế Tập quyền Chỉ huy hoàn toàn tê liệt. Việc phát triển Kinh tế
ngày nay tại Trung quốc là dành cho lớp người nắm giữ Chính trị thủ lợi gọi
là Kinh tế Mafia nhóm đảng và gia đình đảng viên, trong khi ấy đại đa số dân
chúng Trung quốc vẫn sống trong cảnh nghèo.
Chính vì mối tương quan mật thiết giữa Kinh tế và Chính trị này mà chúng tôi phải
nói đến những Hệ thống Kinh tế mà những người nắm quyền hành Chính trị lựa chọn.
Việc lựa chọn một Hệ thống Kinh tế với Môi trường Chính trị—Luật pháp không phù
hợp sẽ đưa đến hậu quả bạo loạn của quần chúng. Đây là điều không phải chỉ được
nhấn mạnh đến trong bài Diễn Văn của Hồ Cẩm Đào ngày 08.11.2012 trong Đại Hội đảng
CSTQ mà là mối lo lắng của Lãnh đạo đảng đã nhiều năm nay khiến chính Oân Gia Bảo
báo động trước cuộc Họp Quốc Hội năm 2010.
Các Hệ thống Kinh tế chính thống được xây dựng trên căn bản:
1)
Tôn trọng TƯ HỮU những phương tiện sản xuất và những thành quả sản
xuất.
2)
Lấy quyền lực Chính trị thu tư hữu thành CÔNG HỮU, nghĩa là Truất
Hữu để những phương tiện sản xuất và những thành quả sản xuất trở thành CÔNG HỮU.
Hệ thống Kinh tế Tự do và Thị trường
Hệ thống này tôn trọng TƯ HỮU. Mà nếu tôn trọng TƯ HỮU thì phải có quyền TỰ
DO cá nhân sử dụng tư hữu bởi vì nếu không có quyền tự do sử dụng thì hai tiếng
TƯ HỮU không còn ý nghĩa nữa. Chính vì vậy Hệ thống Kinh tế Tự do Thị trường
cho TỰ DO KINH DOANH (Libre Entreprise). Mà nếu Tự do Kinh doanh, thì phải có tự
do Cạnh tranh (Libre Concurrence). Luật pháp được đặt ra để hạn chế và điều
hành sự va chạm giữa những cá nhân tự do Kinh doanh và Tự do Cạnh tranh. Vì tôn
trọng Tự do cá nhân trong việc sinh hoạt Kinh tế, nên Luật pháp phải do sự đồng
thuận giữa những tác nhân Kinh tế. Đây là quy tắc Dân chủ Kinh tế.Để đìều chỉnh
giữa CUNG và CẦU có THỊ TRƯỜNG (C’est le Marché qui régularise l’Offre et la
Demande )
Tóm lại: TƯ HỮU đưa đến Tự do Kinh doanh và Tự do Cạnh tranh trong một Luật
lệ có sự đồng thuận (Démocratie économique). Hệ thống Kinh tế Tự do và Thị trường
đòi buộc phải có một Mội trường Chính trị—Luật pháp DÂN CHỦ phù hợp
(Environnement Politico—Juridique DEMOCRATIQUE adéquat). Không thể có Hệ thống
Kinh tế Tự do Thị trường thực sự trong Môi trường Chính trị—Luật pháp ĐỘC TÀI.
Khi không còn tôn trọng TƯ HỮU nữa, nghĩa là Nhà Nước truất hữu để nắm trọn
những Phương tiện sản xuất và những thành quả sản xuất thành CÔNG HỮU, thì Nhà
Nước nắm lấy quyền Kinh tế để có Hệ thống Kinh tế Tập quyền Chỉ huy và một số Hệ
thống biến thể đôi chút sau này. Tỉ dụ Kinh tế khuynh hướng Xã hội cho quyền
Nhà Nước có những can thiệp vào Giá cả, Thuế… (Ecocomie de tendance socialiste)
Hệ thống Kinh tế Tập quyền Chỉ huy
Đối nghịch lại hoàn toàn Hệ thống Kinh tế Tự do Thị trường là Hệ thống Kinh
tế Tập quyền Chỉ huy. Đi từ Ý thức hệ Xã hội mà Cá nhân phải hy sinh phục vụ,
quyền lực Chính trị phế bỏ quyền TƯ HỮU. Tất cả những Phương tiện sản xuất đều
là CÔNG HỮU. Nếu là Công hữu, thì cá nhân không có quyền TỰ DO sử dụng, vì vậy
mà không có Tự do Kinh doanh (Libre Entreprise). Tác nhân Kinh tế SẢN XUẤT đều
nằm dưới quyền điều hành, chỉ định làm việc của quyền lực Chính trị NHÀ NƯỚC.
Ngay cả Tác nhân Kinh tế TIÊU THỤ cũng không có quyền Tự do mà phải theo quy hoạch
tiêu thụ do Nhà Nước. Tác nhân Kinh tế TIỀN TỆ cũng do Tác nhân Kinh tế NHÀ NƯỚC
nắm giữ.
Tóm lại : các Tác nhân Kinh tế SẢN XUẤT, TIÊU THỤ và TIỀN đều phải nằm dưới
quyền của Tác nhân Kinh tế NHÀ NƯỚC. Vì vậy Hệ thống Kinh tế gọi là Tập quyền.
Bằng những Kế hoạch Ngũ Niên, Tác nhân Kinh tế NHÀ NƯỚC hoạch định cho Sản xuất
và Tiêu thụ, ngay cả Vốn từ Tiền tệ lưu hành. Đó là Hệ thống Kinh tế Tập quyền
Chỉ huy vậy. Đồng Tiền trong hệ thống là đồng Tiền do chính Nhà Nước định giá,
chứ không phải là đồng Tiền do dân quyết định do chấp nhận hay không.
Vì chính Tác nhân Kinh tế NHÀ NƯỚC giữ toàn quyền chỉ huy Kinh tế từ SẢN XUẤT
đến TIÊU THỤ và TIỀN TỆ, nên không có THỊ TRƯỜNG là nơi cạnh tranh CUNG—CẦU tự
do. Thị trường trao đổi (Thương mại) được thay thế bằng những HỢP TÁC XÃ tiêu
thụ cũng do Tác nhân Kinh tế NHÀ NƯỚC hoạch định.
Hệ thống Kinh tế Tự do Thị trường đòi hỏi một Môi trường Chính trị-Luật
pháp DÂN CHỦ phù hợp. Tất nhiên Môi trường DÂN CHỦ này đi ngược lại Hệ thống
Kinh tế Tập quyền Chỉ huy. Hệ thống này đương nhiên chỉ có thể sống được với
Môi trường Chính tri-Luật pháp ĐỘC TÀI do độc đảng Chính trị tự đặt ra cho phù
hợp với Tập quyền Chỉ huy Kinh tế.
Hệ thống Kinh tế Tập quyền Chỉ huy đã làm tê liệt những sinh hoạt Kinh tế
quốc gia khiến dân chúng trở thành nghèo cùng cực nổi lên bạo loạn để Oâng
Mikhael GORBATCHEV phải khai tử nó vào thập niên 90:
*
Môi trường Chính trị-Luật pháp ĐỘC TÀI làm cho những hoạt động
Kinh tế thiếu sáng kiến cá nhân.
*
Thiếu cạnh tranh làm cho giảm hiệu lực Kinh tế thăng tiến
*
Khi những Phương tiện sản xuất không thuộc
tư hữu, thì tác nhân Khinh tế không chăm sóc, thậm chí còn cắt xén giấu cất cho
riêng mình. Cha chung không ai khóc. Tiêu Tiền chùa, thì Lãng phí.
*
Yếu tố quan trọng hơn cả là làm việc mà không có TƯ HỮU những kết quả cố gắng,
thì cá nhân mất hẳn yếu tố KÍCH THÍCH cố gắng làm việc.
Hệ thống Kinh tế Tự do Thị trường “định hướng XHCH”
Hệ thống Kinh tế Tập quyền Chỉ huy trên đây đưa đến những thất bại mà chúng
tôi đã liệt kê ra những lý do. Trước khi khai tử Hệ thống này, các đảng Cộng sản
Nga và chư hầu Đông Au đã làm những thử nghiệm cải cách bằng cách nới rộng một
chút TƯ HỮU:
*
Cho lấy một số kết quả sản xuất làm tư hữu như thưởng công cố gắng
Kinh tế
*
Cấp riêng cho nông dân mấy sào đất tư hữu để khai thác.
Nhà Nước độc tài Liên xô nhận xét thấy ngay rằng trên thuở đất tư hữu mấy
sào, thì rau cỏ mọc tốt tươi, trong khi ấy trên cánh đồng công hữu, rau cỏ héo
úa. Phân bón công hữu đã bị nông dân ăn cắp về bón rau cỏ tốt tươi tại mấy sào
đất tư hữu. Nhà Nước Liên xô chân nhận rằng chính TƯ HỮU và Tự do Kinh doanh mới
thúc đẩy phát triển hiệu năng Kinh tế.
Chúng tôi nói đến việc nới rộng ĐÔI CHÚT tưu hữu. Thực vậy, nếu nới rộng quá
nhiều TƯ HỮU và TỰ DO Kinh doanh thực sự, thì Nhà Nước không thể giữ được quyền
độc tài Chính trị nữa. Vì vậy phải đợi đến những năm 89-90, khi nền Kinh
tế hoàn toàn tê liệt với những nổi dậy của quần chúng, thì Nga và Đông Au mới
nhất quyết dứt bỏ Hệ thống Kinh tế Tập quyền Chỉ huy và nền Chính trị độc tài
kèm theo.
Cùng ở hoàn cảnh hoàn toàn tê liệt Kinh tế như vậy và quần chúng trở
thành nghèo cùng cực, nhưng đảng CSTQ và đảng CSVN vẫn cố thủ bám chặt lấy quyền
lực độc tài Chính trị của đảng.
Để tránh bạo loạn của dân nghèo, Trung quốc đành phải Mở cửa chìa tay ra thế giới
phát triển Kinh tế theo Hệ thống Tự do Thị trường. Việc mở cửa này chỉ là đi kiếm
ăn, nhưng Hệ thống Kinh tế vẫn Tập quyền Chỉ huy. Trung quốc gượng gạo đặt cho
Hệ thống một tên khác gọi là “Mô hình Kinh tế Khoa học với những đặc điểm của
Trung quốc”. Họ giữ chính yếu những đặc điểm then chốt Tập quyền Chỉ huy dưới
kiểu nói khác là Mô hình Kinh tế Tự do Thị trường do đảng “Chủ đạo“.
Việt Nam cũng rập đúng theo Mô hình Kinh tế của Trung quốc, nhưng với danh hiệu
Mô hình Kinh tế Tự do Thị trường “định hướng XHCN” và dưới quyền “Chủ đạo “ của
đảng CSVN.
Cả hai Mô hình Kinh tế Trung quốc và Việt Nam đều khởi đầu ở chỗ dân chúng
nghèo đói quá, phải Mở cửa để Hệ thống Kinh tế Tự do Thị trường cứu đói. Chứ việc
Mở cửa ở đây không phải là cởi mở Chính trị độc tài và cởi mở chủ trương Tập
quyền Chỉ huy Kinh tế. Dùng những từ Tự do Thị trường chỉ là lấy thiện cảm hoặc
đánh lừa Tây phương với Hệ thống Kinh tế Tự do Thị trường.
Đối với vấn đề TƯ HỮU và TỰ DO Kinh doanh, cả Trung quốc và Việt Nam có nới rộng
TƯ HỮU và TỰ DO Kinh doanh, nhưng lại hướng việc nới rộng ấy cho những đảng
viên và Gia đình, Thân thuộc của đảng viên. Chính vì vậy mà trong những thập
niên phát triển Kinh tế, Trung quốc và Việt Nam đã tạo nên Kinh tế Mafia nhóm đảng,
gia đình.
Nếu đã sử dụng Mô hình Kinh tế Tự do Thị trường thực sự, thì phải có Môi trường
CHÍNH TRỊ—LUẬT PHÁP DÂN CHỦ PHÙ HỢP (Environnement Politico—Juridique
DEMOCRATIQUE adéquat), nhưng cả hai nước đều giữ MÔI TRƯỜNG CHÍNH TRỊ—LUẬT PHÁP
ĐỘC TÀI (Environnement Politico—Juridique DICTATORIAL). Vì vậy mà chúng tôi gọi
Mô hình Kinh tế hiện hành của Trung quốc và Việt Nam là tréo cẳng ngỗng giữa
Chính trị và Kinh tế.
Khi Chủ tịch Ngân Hàng Thế Giới và Bà Tổng Giám Đốc Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế họp báo
tại Bắc Kinh cuối năm 2011 kêu gọi Trung quốc phải cứu nguy Kinh tế bằng Cải tổ
từ căn nguyên Cơ chế, chính là yêu cầu đừng làm tréo cẳng ngỗng giữa Kinh tế gọi
là Tự do Thị trường và Môi trường Chính trị—Luật pháp độc tài.
Mô hình Kinh tế-Chính trị được lựa chọn
từ thời Đặng Tiểu Bình mà cho đến nay
vẫn chưa có những Cải cách chính yếu
Như chúng tôi đã nói ở phần trên đây, Nga và các nước Đông Au đã nhất quyết dứt
bỏ Hệ thống Kinh tế Tập quyền Chỉ huy vào thập niên 90 và Lựa chọn Hệ thống
Kinh tế Tư do Thị trường với Môi trường Chính trị—Luật pháp DÂN CHỦ phù hợp
(Environnement Politico—Juridique DEMOCRATIQUE adéquat).
Năm 1989, nghĩa là cũng thập niên 90, trong hoàn cảnh tê liệt Kinh tế giống như
Nga và Đông Au, dân chúng nổi dậy tại Thiên An Môn đòi hỏi thay đổi Chính trị.
Nhưng chính Đặng Tiểu Bình đã đàn áp đẫm máu dân chúng vì nhất quyết giữ quyền
độc tài Chính trị cho đảng. Vì vậy việc Mở cửa đối với Tây phương là chỉ nhằm mục
đích kiếm cơm trong lúc bí đói, chứ không có ý nghĩa cởi mở Chính trị và Kinh tế
thực tình cho Trung quốc.
Việc cởi mở để kiếm cơm lúc ban đầu này dần dần trở thành một Mô hình Kinh tế
nhằm ba phương diện:
=>
Vì sự đói nghèo của dân chúng, nhất là nông dân từ những vùng xa trong nội địa,
Cơ chế tăng cường độc tài Chính trị để giữ dân ở thế phải câm miệng chấp nhận đồng
lương rẻ mạt.
=>
Kêu gọi Tư bản nước ngoài vào đầu tư để bán sức lao động của khối dân Trung quốc.
Phía Tư bản cũng lợi dụng khối lao động rẻ mạt này để làm giầu.
=>
Hoàn toàn hướng Kinh tế vào xuất cảng để khai thác Mãi lực của dân chúng của
hai Thị trường lớn Hoa kỳ và Liên Aâu.
Những thu nhập từ việc bán lao động rẻ mạt và và việc khai thác Mãi lực Hoa kỳ
và Liên Au chảy vào túi những đảng viên và gia đình đảng viên tạo thành Kinh tế
Mafia nhóm đảng.
Năm 2010, chúng tôi xuất bản cuốn sách DÂN CHỦ HÓA KINH TẾ (Nhà Xuất Bản DAY
& NIGHT, Ventura, California). Trong cuốn sách này, trang 204, dựa trên những
dữ kiện của LE FIGARO, ngày 07.06.2010, trang 8, chúng tôi đã viết như sau về
việc Mô hình Kinh tế của Đặng Tiểu Bình là chủ trương cấu kết với Tư bản để bóc
lột sức lao động:
Chế độ độc tài đảng trị của Thế giới Cộng sản sụp đổ. Nhưng Trung quốc, Việt
Nam, Cu ba và Bắc Hàn vẫn giữ nguyên chế động Cộng sản độc tài đảng trị.
Đứng trước những
thất bại Kinh tế, những chế độ này phải hướng về Thế giới Tự do được gọi là kẻ
thù Tư bản.
Cuộc mở cửa Trung Cộng chơi với Tư bản để kiếm cơm bắt đầu từ ĐẶNG TIỂU
BÌNH. Bắt tay với Thế giới Tư bản tôn trọng Tự do và Nhân quyền, nhưng Đặng Tiểu
Bình vẫn giữ Chế độ độc tài đảng trị tại Trung quốc. Theo LI PENG, Đăng Tiểu
Bình, người cha của những cải cách Trung quốc, nhưng cũng chính ông đã yêu cầu
quân đội quét sạch cuộc nổi dậy Thiên An Môn ngày 04.06.1989. Những cải cách của
Đặng Tiểu Bình chỉ là về Kinh tế trong thế bí chết đói, nhưng về mặt độc tài
Chính trị, thì không có cải cách gì.
Con đường mở cửa của Trung quốc vẫn tiếp tục cho đến ngày nay, nghĩa là bắt
tay với Thế giới Tư bản để thủ lợi Kinh tế nhưng quyền độc tài Chính trị để đàn
áp Dân chúng vẫn không thay đổi.
Kinh tế Trung quốc ngày nay là sự CẤU KẾT giữa TƯ BẢN NGOẠI LAI và QUYỀN
HÀNH ĐỘC TÀI TRONG NƯỚC để cùng hiệp lực KHAI THÁC TRIỆT ĐỂ VÀ VÔ NHÂN ĐẠO khối
Nhân lực khổng lồ Trung quốc.
Đặng Tiểu Bình Chủ trương Mô hình Kinh tế tréo cẳng ngỗng này và cũng chính Đặng
Tiểu Bình đã lựa chọn những người thay thế mình là Giang Trạch Dâ và Hồ Cẩm Đào
điều hành Cơ chế Kinh tế—Chính trị mà ông đã lựa chọn. Vì vậy chúng ta không ngạc
nhiên trong những thập niên đã qua, Mô hình Kinh tế, nhất là hệ thống Chính trị
cai trị của Trung quốc không những không có những thay đổi mà còn thắt chặt lại
hơn về kiểm soát đàn áp dân chúng. Những kêu gọi của Tây phương về Nhân quyền
giống như đàn gẩy tai trâu mà thôi. Truyền hình Trung quốc chỉ đưa lên hình lớn
của Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào ngồi bên nhau thảo luận để cho thấy rằng con
đường vạch ra cho Trung quốc từ Đặng Tiểu Bình sẽ vẫn giữ nguyên vẹn.
Trên trang nhất của tờ FINANCIAL TIME, ngày 09.11.2012, với đầu đề :”HU
RESSAERTS PARTY’S TIGHT GRIP “ (Hồ tái khẳng định việc nắm giữ xiết chặt lại của
đảng), Ký giả Jamil ANDERLINI từ Bắc Kinh viết:
“The outgoing head of the Chinese Communist Party has outlined a deeply
conservative vision for the future of the world’s most populous nation,
insisting that state dominance of economy and one-party rule will be
maintained.”
(Người đứng đầu đảng Cộng sản Trung quốc đã phác họa một cái nhìn bảo thủ sâu đậm
về tương lai của một nước được biết tới nhất thế giới, nhấn mạnh rằng việc nhà
nước nắm giữ Kinh tế và độc đảng cai trị (Chính trị) sẽ được giữ vững lại).
Hai cảnh báo và một lời khuyên của Hồ Cẩm Đào
trong bài Diễn Văn mang tính cách Định mệnh tàn phá
hay cứu vãn Đảng và Nhà Nước TQ.
Nếu Hồ Cẩm Đào nhấn mạnh là vẫn giữ nguyên Cơ chế Kinh tế—Chính trị mà Đặng Tiểu
Bình đã lựa chọn, thì trên thực tế Mô hình Kinh tế—Chính trị tréo cẳng ngỗng ấy
đã và đang tự nó làm nẩy sinh ra những VẤN ĐỀ được coi như Định mệnh tàn phá
chính Đảng và Nhà Nước Cộng sản Trung quốc. Đó là những vấn đề THAM NHŨNG và
PHÂN PHỐI KHÔNG ĐỒNG ĐỀU những thu nhập Kinh tế, nghĩa là Mô hình Kinh tế mà Đặng
Tiểu Bình đã chọn và được giữ vững bởi Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào đang biến
thành một Mô hình Kinh tế—Chính trị Mafia nhóm đảng và gia đình.
Về hai điểm cảnh cáo trong bài Diễn văn mang tính cách Định mệnh tàn phá này đã
được Thủ tướng Oâng Gia Bảo báo động cách đây hai năm. Thực vậy, chính Thủ tướng
Oân Gia Bảo đã phát biểu ngày 14.03.2010 trước Quốc Hội Nhân Dân nỗi lo lắng về
thực trạng của nền Kinh tế tập quyền chỉ huy của nhóm đảng Mafia:
“L’inflation, plus une redistribution inéquitable des revenus et la
corruption pourraient affecter la stabilité sociale et même la stabilité du
gouvernement”
(Lạm phát, thêm vào đó là một sự phân phối không đồng đều những thu nhập và
tham nhũng có thể tác hại đến sự ổn định xã hội và ngay cả đến sự ổn định nhà
nước” (Le Monde
16.03.2010, trang 16)
Tình trạng THAM NHŨNG và PHÂNPHỐI KHÔNG ĐỒNG ĐỀU thu nhập sẽ tạo hố sâu Giầu
–Nghèo và cách biệt Nông thôn—Thành thị. Đó là nguồn nổi dậy tạo bất ổn Chính
trị. Nhật báo LE MONDE, ngày 16.03.2010, trang 16, viết:
“La Chine est alarmée par le fait que le fossé ville-campagne va continuer à
se creuser dans la mesure òu le pays se focalise sur le développement urbain et
pas du monde rural.”
(Trung quốc bị báo động bởi sự việc là hố sâu thành phố—nhà quê sẽ tiếp tục
tự đào sâu thêm ở mức độ nước này đặt tiêu điểm phát triển thành thị và không
phải là lãnh vực nông thôn).
Nhật báo LE MONDE còn chú thích thêm rằng cách đây 6 năm, số người giầu từ
150 triệu Đo-la, liên hệ với đảng CSTQ, là 100 người. Ngày nay con số đó đã
tăng lên 1’000 người
Thú nhận những điểm như trên đây rồi, chính Ôn Gia Bảo tuyên bố một điều
làm cho những ai thường ca tụng “cường quốc Kinh tế Trung quốc” phải ngạc
nhiên:
“Cela prendra cent ans, même plus pour que la Chine devienne un pays
moderne” (Điều đó còn cần 100 năm, ngay cả lâu hơn nữa, để Trung quốc trở thành
một nước tân tiến) (Le Monde 16.03.2010, trang 16).
Mô hình Kinh tế—Chính trị mà Đặng Tiểu Bình lựa chọn, với những vấn đề mà Oân
Gia Bảo nêu ra trên đây, còn có những thiếu sót trầm trọng.
Hai năm sau những nhận định của Thủ tướng Oân Gia Bảo, chính Chủ tịch Hồ Cẩm
Đào, trong Diễn Văn khai mạc Đại Hội đảng 18 tại Bắc Kinh, buộc lòng phải cảnh
báo hai vấn đề định mệnh tàn phá đảng và nhà nước và một lời khuyên căn bản cho
Mô hình Kinh tế. Hai lời cảnh báo đó là THAM NHŨNG và BẠO LOẠN từ dân chúng. Lời
khuyên cho Tập Cẩm Bình là phải tăng MÃI LỰC NỘI ĐỊA để giữ độc lập cho Kinh tế
Trung quốc.
THAM NHŨNG
Tình trạng tham nhũng trở thành phổ quát trong Cơ chế Kinh tế—Chính trị hiện
nay của Trung quốc. Tham nhũng tự nó phát sinh và lan tràn trong một Mô hình
Kinh tế—Chính trị mà độc tài Chính trị nắm độc quyền Kinh tế. Chúng tôi đã thường
viết rằng Lòng tham của cải, tiền bạc là bẩm sinh, nó nằm trong mỗi cá nhân như
là tính dâm dục mà Freud đã nói. Nó nằm đấy bẩm sinh, chỉ đợi có môi trường thuận
lợi là nó nẩy nở ra và lan tràn. Cái môi trường thuận lợi ấy chính là Cơ chế chủ
trương Độc tài Chính trị nắm Độc quyền Kinh tế. Vì vậy phải quy tội tham nhũng
vào Cơ chế chứ không phải cá nhân. Hồ Cẩm Đào đã chứng kiến những vụ tham nhũng
khổng lồ không phải là tầng lớp đảng viên làng xã, tỉnh, mà tại thượng tầng
trung ương lãnh đạo: Bạc Hy Lai, Oâng Gia Bảo và chính Tập Cẩm Bình, người sẽ
lãnh đạo Cơ chế Kinh tế—Chính trị Trung quốc trong 10 năm tới.
Nhật báo TRIBUNE DE GENEVE ngày 09.11.2012, trang 3, đã viết:
“ Une corruption généralisée
“La corruption a attaint des niveaux insoupconnnables en Chine depuis trente
ans. Pour demander n’importe quelle autorisation, une entreprise doit désormais
débourser 60’000 francs, sinon le dossier retourne au bas de la pile. Les
témoignages abondent sur des petis ou gros dessous-de-table. Si on ne
paie pas, le dossier se balade de bureau en bureau. “
(Tham nhũng đã đạt tới những mức độ không thể nghi ngờ được đã từ 30 năm nay. Để
xin bất cứ sự cho phép nào, một công ty phải bỏ ra 60’000 quan, nếu không hồ sơ
sẽ trở xuống đáy chồng hồ sơ. Những nhân chứng có dồi dào về việc đút lót nhỏ
hay lớn ở dưới bàn. Nếu không trả, thì hồ sơ đi lang thang hết bàn giấy này tới
bàn giấy kia. “
PHÂN PHỐI KHÔNG ĐỒNG ĐỀU THU NHẬP
Việc phân phối không đồng đều thu nhập Kinh tế đã được On Gia Bảo nhấn mạnh và
việc phân phốn này sẽ tạo hố sâu Giầu-Nghèo càng ngày càng sâu đến chỗ khối dân
nghèo phải nổi dậy. Những đảng viên tham nhũng, gia đình đảng viên tham nhũng,
chỉ biết thu vào thật nhiều cho mình, không cần biết đến ai nghèo, ai khổ, ai
chết đói ! Hồ Cẩm Đào cảnh báo việc tham nhũng gây hố sâu Giầu-Nghèo, không phải
ở phương diện cá nhân, mà ở phương diện sẽ tạo bạo loạn Xã hội như một định mệnh
tàn phá chính toàn thể Đảng và Nhà Nước.
Tờ LE FIGARO, ngày 09.11.2012, trang 8, dưới đầu đề CHINE: LE TESTAMENT DE HU
JINTAO (Trung quốc: Lời trăn trối của Hồ Cẩm Đào), đã viết:
“Le président sortant a mis en garde contre le risque “fatal “ de la
corruption. La corruption pourrait se révéler fatale pour le Partie, provoquer
sa chute, ainsi que celle de l’Etat. “
(Chủ tịch ra đi đã cảnh báo chống lại rủi ro “định mệnh “ của tham nhũng. Tham
nhũng có thể trở thành định mệnh tàn phá đảng và tạo sự đổ vỡ của đảng cũng như
đổ vỡ của Nhà Nước.)
TẠO MÃI LỰC NỘI ĐỊA
Sau nhiều thập niên lợi dụng Mãi lực nước ngoài, nhất là Hoa kỳ và Liên Aâu, Mô
hình Kinh tế—Chính trị Trung quốc, chuyên chú về xuất cảng, đã phải khổ sở
lệ thuộc vào Kinh tế nước ngoài, nhất là từ cuộc Khủng hoảng Tài chánh/Kinh tế
từ năm 2008 cho đến nay. Tình trạng giảm thụt độ phát triển Kinh tế xuống từ
trên 10% xuống 7.5% đang làm nhiều Xí nghiệp Trung quốc phá sản và làm tăng vọt
Thất nghiệp. Ngoài vấn đề giảm Mãi lực nước ngoài do Khủng hoảng, Trung quốc
còn gặp tình trạng khuynh hướng Bảo Hộ Mậu dịch mỗi ngày mỗi tăng đối với hàng
hóa Trung quốc.
Trong những năm Khủng hoảng, nhiều nhà Kinh tế quốc tế đã nhấn mạnh cho Trung
quốc rằng phải tạo Mãi lực cho dân chúng quốc nội. Nhưng việc tạo Mãi lực quốc
nội có những trở lực tại chính Trung quốc:
=>
Tham nhũng quá ích kỷ khiến khó lòng phân phối đồng đều thu nhập cho dân
=>
Những xí nghiệp Trung quốc chỉ mong mang vốn ra đầu tư ở nước ngoài như việc chạy
trốn tình trạng bấp bênh Kinh tế tại chính nội địa. Phong trào trốn chạy vốn ra
nước ngoài của những người giầu mỗi ngày mỗi tăng vọt.
=>
Việc tạo Mãi lực cho khối dân nghèo gần 800 triệu người không phải là dễ dàng
và rất tốn kém.
=>
Một lưỡng nan cho chế độ Chính trị độc tài là nếu nâng cấp Mãi lực cho dân
chúng, dân chúng giầu lên, sẽ khó lòng giữ được Chính trị độc tài và độc quyền
Kinh tế của đảng. Dân chúng giầu lên sẽ đấu tranh được thêm TỰ DO !
Tờ LE MONDE ngày 09.11.2012, trang 17, viết:
“Le contrôle de l’Etat est trop fort. Contrairement aux slogans, la socíeté
est de moins en moins harmonieuse. C’est le problème le plus grave. Le pouvoir
dépense beaucoup d’argent pour acheter la paix sociale, mais plus il dépense,
plus il y a d’agitation.”
(Việc kiểm soát của Nhà Nước quá mạnh. Ngược lại những lời tuyên truyền, xã hội
mỗi ngày mỗi sút kém hòa nhịp cân bằng. Đó là vấn đề trầm trọng hơn cả. Quyền lực
tiêu nhiều tiền bạc để mua sự bình yên xã hội, nhưng khi càng tiêu, thì lại
càng có nhiều xáo động)
Để tạo được Mãi lực dân chúng nội địa tiến lên như những xã hội tân tiến Aâu-Mỹ,
chính On Gia Bảo đã than thở là phải mất chừng 100 năm nữa, trong khi đó việc
tiêu thụ những hàng hóa mà Trung quốc sản xuất là điều cấp bách để tránh phá sản
Kinh tế:“Cela prendra cent ans, même plus pour que la Chine devienne un pays
moderne” (Điều đó còn cần 100 năm, ngay cả lâu hơn nữa, để Trung quốc trở thành
một nước tân tiến) (Le Monde 16.03.2010, trang 16).
Nan giải nội tại của đảng CSTQ
đưa đến bất lực Cải cách
Mô hình Chính trị-Kinh tế hiện hành
Ong ZOELLICK, Chủ tịch Ngân Hàng Thế Giới và Bà LAGARDE, Tổng Giám Đốc Quỹ
Tiền Tệ Quốc tế đã nhấn mạnh về việc cấp bách Cải tổ Mô hình Kinh tế-Chính trị
Trung quốc bởi vì nó đang đi tới một ngõ quặt nguy hiểm cho Kinh tế nước Tầu. Mặc
dầu nhấn mạnh về việc cần phải cải tổ, nhưng cả hai người đều thấy cái trở ngại
lớn nhất khó lòng Cải tổ được đến từ chính đảng viên đảng CSTQ. Thực vậy, chính
những đảng viên , nhất là những lãnh đạo cấp cao trong đảng đang nắm giữ những
Tập đoàn Kinh tế Nhà Nước, đồng thời nắm quyền Chính trị. Cải tổ Mô hình Kinh tế—Chính
trị có nghĩa là tước đi những đặc quyền đặc lợi nhóm đảng mà chính những đảng
viên có quyền Chính trị đang nắm giữ. Không ai từ bỏ những đặc quyền đặc lợi
Kinh tế của mình. Sự phản kháng chống lại Cải tổ Mô hình đến từ chính những đảng
viên lãnh đạo, thì làm thế nào bắt họ phải quyết định Cải tổ được.
Khi mà THAM NHŨNG đã lan tràn từ mấy chục năm nay từ cấp đảng viên cao nhất
đến cấp thấp nhất, thì khi họp đảng lại để lấy quyết định cải tổ tận căn
nguyên, không thể nào có một quyết định chung để tự sát cả đảng.
Chính Mô hình Kinh tế—Chính trị mà Đặng Tiểu Bình đã lựa chọn là trái cẳng
ngỗng ngay từ lúc đầu và kéo dài trong những chục năm. Xin nhắc lại trái cẳng
ngỗng ở chỗ chọn Kinh tế Tự do Thị trường mà hệ thống Chính trị cai trị vẫn là
độc tài độc đảng. Mô hình tréo cẳng ngỗng ấy là môi trường phát sinh và lan
tràn THAM NHŨNG từ đời cha đến đời con. Khi mà THAM NHŨNG trở thành phổ quát , “une
corruption généralisée “ như lời khẳng định của Ký giả Virginie MANGIN từ Bắc
Kinh viết trong nhật báo TRIBUNE DE GENEVE ngày 09.11.2012, trang 3, thì nếu họp
toàn đảng viên tham nhũng ấy lại, Đại hội cũng không thể lấy quyết định Cải tổ
được tự căn nguyên gồm:
1)
Tôn trọng TƯ HỮU cho mọi người, nghĩa là mọi người có quyền TỰ DO KINH DOANH. Với
quyết định này, không còn dành cho các Tập đoàn Kinh tế Nhà Nước nắm “Chủ đạo“
Kinh tế với đặc ân cấp vốn dồi dào từ tiền thuế của dân chúng.
2)
Không còn quyền độc tài Chính trị chế tài những sinh hoạt Kinh tế TỰ DO của người
dân. Nói cách khác việc cải tổ tận căn nguyên phải thiết lập một Môi trường
CHÍNH TRỊ—LUẬT PHÁP DÂN CHỦ PHÙ HỢP (Environnement Politico-Juridique
DEMOCRATIQUE adéquat)
Hai quyết định trên đây là Cải tổ đi vào tận căn nguyên và tất nhiên cái cản lực
cho việc Cải tổ này đến từ chính những đảng viên tham nhũng từ trên xuống dưới
của đảng. Không cần nói hai điểm trên đây cho lớn lao. Ngay cả việc những đảng
viên cùng tham nhũng cũng không thể lấy một quyết định nhỏ trừng phạt một cá
nhân đảng viên làm tham nhũng cụ thể. Chúng tôi xin lấy một tỉ dụ để chứng minh
cho điều vừa nói. Đó là tỉ dụ Hội Nghị trung ương 6 CSVN mới đây.
Một thành viên X thuộc Bộ Chính trị phạm tham nhũng thực sự. Nhưng khi Hội Nghi
trung ương 6 gồm 175 đảng viên đại diện họp lại, họ đã không thể lấy được quyết
định trừng phạt đảng viên X vì mỗi thành viên Hội Nghị đều thấy mình cũng tham
nhũng, nên không dám quyết định phạt “đồng chí “ X tham nhũng.
Cách đây trên 2000 năm, tại xứ Do thái, những người Pharisiêu phạm tội nhưng giả
hình đạo đức và tôn trọng Luật pháp, dẫn một tội phạm đến trước mặt Chúa Giêsu
để hỏi ý kiến xem có nên ném đá trừng phạt tội phạm hay không. Chúa Giêsu không
thèm nói với đám Pharisiêu này, mà chỉ viết trên đất cát rằng “Nếu ai không phạm
tội, thì lấy đá ném người này đi.“ Ngài vẫn cúi mặt xuống đất. Đến khi ngẩng đầu
lên nhìn, thì thấy mọi người lần lượt rủ nhau đi hết, người già trốn đi trước
và người trẻ trốn đi sau. Chính những người Pharisiêu này là những người phạm tội
mà giả hình nhân đức, thì tự biết mình và tìm cách trốn đi nơi khác.
Cả bầy tham nhũng như nhau, thì không thể trừng phạt một đồng chí X tham nhũng
!
Kết Luận
Chỉ có những nạn nhân của THAM NHŨNG, của Mô hình Kinh tế—Chính trị tréo cẳng
ngỗng nuôi dưỡng tham nhũng, cùng nhau họp lại diệt trừ chính cái Cơ chế Kinh tế—Chính
trị téo cẳng ngỗng làm phát sinh THAM NHŨNG để lựa chọn Hệ thống Kinh tế Tự do
Thị trường đích thực với Môi trường Chính trị—Luật pháp DÂN CHỦ phù hợp.
Giáo sư Tiến
sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva,
14.11.2012
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment