Hiện tượng người
Bắc XHCN chiếm hữu toàn bộ phố xá thương mại quan trọng ở Sài gòn, khống chế
mọi lãnh vực trọng yếu ở miền Nam.
Cho dù núp dưới
cái hào quang chiến thắng “đánh Tây, đuổi Mỹ” – cho dù che giấu, lấp liếm, giải
thích thế nào chăng nữa – Thì dân miền Nam (gồm cả Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự
Do) vẫn thấy một sự thật.
Sự thật đó là
người Bắc XHCN tràn ngập, chiếm hữu toàn bộ phố xá thương mãi trọng yếu của Sài
gòn. Làm sao nói khác được khi đi một vòng quanh Sài gòn và các khu phố sầm uất
nhứt, vào những hiệu buôn lớn để mua hàng hay hỏi han chuyện trò thì thấy toàn là người
Bắc Cộng sản –
Từ cô bán
hàng đến bà chủ ngồi phía trong cũng toàn là người của xã hội chủ nghĩa miền
Bắc. Các tiệm buôn lớn trước 75- như các tiệm vàng Nguyễn thế Tài, Nguyễn thế
Năng, Pharmacie Trang Hai, tiệm Émile Bodin của bầu Yên, nhà hàng Bồng Lai,
Thanh Thế, Nguyễn văn Đắc, Phạm thị Trước.
Hiện nay, một số
đã đổi bảng hiệu hoặc xây cât lại nhưng đều do người miền Bắc XHCN làm chủ.
Các cơ sở khác
như nhà hàng ăn lớn, tiệm phở, công ty thương nghiệp, dịch vụ lớn, những tiệm
buôn bán đồ nhập cảng v. v. cũng đều do người Bắc XHCN chiếm giữ.
Tuy không có con
số thống kê chính xác nhưng tự mình đi đếm hàng trăm tiệm buôn sang trọng quanh
các khu phố lớn ở Sài gòn thì khám phá ra được chủ nhân là người Bắc XHCN (Tất
nhiên là vợ con, thân nhân cán bộ lớn).
Những gái Bắc
XHCN bán hàng là con cháu của chủ nhân người Bắc CS (do các cô tự nói ra).
Các cô chiêu đãi viên trên
phi cơ VNHK đều là người Bắc thân nhân hay con cháu cán bộ – dĩ nhiên – vẻ mặt
lạnh lùng, hách dịch với người Việt Nam và khúm núm lịch sự với khách
ngoại quốc. Cán bộ, công nhân viên trọng yếu – Cũng đều là người Bắc – Trừ một
số cán bộ gốc miền Nam ra Bắc tập kết – theo đoàn quân viễn chinh vào đánh
chiếm miền Nam, thì cũng kể họ là người XHCN miền Bắc cả.
Hệ thống quyền
lực từ trên đến dưới – Từ Trung ương đến địa phương – Từ Tỉnh thành đến quận
lỵ, thị trấn, làng xã gần – đều do đảng viên người miền Bắc XHCN – nắm giữ.
Những công Ty
dịch vụ có tầm cở, những công Ty thương mãi sản xuất lớn – điển hình là một
công Ty vận tải và du lịch có đến 10,000 xe hơi đủ loại, chủ nhân cũng là người
Bắc XHCN.
Từ chính trị đến
văn hóa, từ giáo dục đến truyền thông, từ nhà cầm quyền cai trị đến chủ nhân cơ
sở thương mãi, sản xuất – Cũng là do người miền Bắc XHCN nắm giữ. Đó là sự thật
trước mắt ai cũng thấy.
Còn những vàng
bạc, kim cương, đô la, tài sản tịch thu, chiếm đoạt được trong các cuộc đánh tư
sản, cải tạo công thuơng nghiệp – nhà cửa của tù cải tạo, của dân bị đuổi đi
kinh tế mới, những tấn vàng của VNCH để lại, những luợng vàng thu được từ những
người vuợt biên bán chánh thức – tài sản những người thuộc diện tư sản – toàn
bộ tài sản nầy từ Sài gòn đến các Tỉnh miền Trung, miền Nam – được đem đi đâu?
–
Không ai biết.
Thông thường – những của cãi nầy phải được sung vào công quỹ – để làm việc công
ích như các ông cộng sản thường rêu rao bằng những mỹ từ đẹp đẻ.
Thế nhưng – sự
thật trước nhứt – là các ông đem chia chác nhau. Chia nhau một cách hợp hiến và
hợp pháp theo Luật pháp XHCN (Đọc Đất đai-Nguồn sống và Hiểm Họa của Tiến sĩ
Nguyễn thanh Giang).
Ông lớn lấy tài
sản lớn. Ông nhỏ – nhà cửa nhỏ. Có ông cán bộ trung cấp chiếm hữu đến 4, 5 căn
nhà. Ở không hết… đem cho công Ty ngoại quốc thuê.
Điều phổ biến
nhứt là các ông cán bộ nầy – vì lo sợ cái gì đó – bèn đem “ bán non” những căn
nhà đó lấy tiền bỏ túi trước. Một căn nhà của một viên chức tù cải tạo đã sang
tay đến 3 đời chủ.
Nhà cửa thuộc
diện tù cải tạo là dứt khoát phải tịch thu – không ngoại lệ. Những trường hợp
con ruột có hộ khẩu chánh thức còn được phép ở lại – là những biện pháp vá víu.
Chủ quyền căn nhà
nầy là Nhà nước XHCN. Không chỉ có những người thuộc diện cải tạo công thương
nghiệp, tù cải tạo, vượt biên mà người dân thường có nhà cửa phố xá đều bị “
giải phóng” ra khỏi nhà bằng nhiều chánh sách: Đuổi đi kinh tế mới, dụ vào hợp
tác xã tiểu công nghiệp, mượn nhà làm trụ sở, cho cán bộ vào ở chung (chủ nhà
chịu không nổi… phải bỏ đi), đổi tiền để vô sản hoá người dân, khiến họ bắt
buộc phải bán tất cả những gì có thể bán để mua gạo ăn, cuối cùng chịu không
nổi, phải bán nhà với giá rẻ bỏ, để vô hẻm ở, ra ngoại ô hoặc về quê…
Cán bộ hoặc thân
nhân cán bộ miền Bắc XHCN tràn vào “mua” nhà Saigòn với giá gần như cho không…
và bây giờ là chủ những căn nhà mặt tiền ở Sài gòn.
Mang xe tăng T.
54, cà nông Liên xô, AK Trung cộng, đẩy hàng hàng lớp lớp thiếu niên “xẻ dọc
Trường Sơn” bằng máu, nước mắt và xác chết… vào xâm chiếm miền Nam. Chiêu bài
là “giải phóng” nhân dân miền Nam – nhưng sựthật khó chối cãi được – là vào để
chiếm đoạt tài sản, đất đai, của cải, đuổi dân Sài gòn (gồm cả người Nam lẫn Bắc
theo chế độ Tự Do) ra khỏi Thủ Đô bằng nhiều chánh sách khác nhau – để bây giờ
chính các ông đã trở thành những nhà tư bản đỏ triệu phú, tỉ phú đô la, vàng
bạc kim cương đầy túi – những ông chủ công Ty có tầm vóc, những địa chủ đầy
quyền lực. Trương mục ở nước ngoài đầy nhóc đô la. Con cái du học ngoại quốc. (Trường hợp con Thủ
Tướng CS Nguyễn tấn Dũng đang du học Mỹ là trường hợp điển hình).
Như vậy hành vi
nầy gọi là gì? Trong những lúc canh tàn rượu tỉnh – một mình đối diện với luơng
tâm thuần luơng của mình – các ông tự gọi mình đi. Đến thời “mở cửa” – cơ hội
hốt tiền còn nhiều hơn gấp bội. Tư bản ngoại quốc ồ ạt đầu tư, khai thác dầu
khí, thâu đô la Việt kiều về thăm quê hương – đô la khách du lịch ngoại quốc,
bán đất cho Công Ty ngoại quốc xây cất cơ xưởng, cấp giấy phép các công Ty
ngoại quốc, các dịch vụ đấu thầu xây cất cầu cống, làm đuờng xá, xây cất đại
công tác.
Những món
nợ kếch xù từ Ngân hàng thế giới, từ quỷ tiền tệ quốc tế – những món nợ trả đến
mấy đời con cháu cũng chưa dứt.
Những đại công
tác nầy mặc sức mà ăn, no bóc ké. Nhiều công trình vừa xây cất xong đã muốn sụp
xuống vì nạn ăn bớt vật liệu.
Một thí dụ diển
hình: Một bệnh viện gần chợ “cua” Long Hồ – quê hương của Phạm Hùng – nước vôi
còn chưa ráo đã muốn sụp. Hiện đóng cửa không sử dụng được.
Hiện tượng người
Bắc XHCN khống chế toàn bộ, làm chủ nhân ông mọi lãnh vực, chiếm hữu nhà cửa,
phố xá thương mãi ở những khu thương mãi quan trọng nhứt – là một sự thật không
thể chối bỏ.
Cán bộ lớn đã trở
thành những nhà tài phiệt đầy quyền lực – những ông chủ lớn giàu có nhứt lịch
sử. Trong khi dân chúng miền quê – nhứt là miền Nam – ngày càng nghèo khổ, thất
nghiệp kinh niên. Khoảng cách giàu nghèo càng lớn – đời sống cán bộ và dân
chúng càng ngày cách biệt. Giàu thì giàu quá sức. Nghèo thì nghèo cùng cực.
Nhà văn –
bác sĩ Hoàng Chính – gọi thời kỳ sau 75 là thời “Bắc thuộc”: – “Năm Bắc thuộc
thứ 2: Lưu vong tại quê nhà trong cái đói lạnh. – Năm Bắc thuộc thứ 6: Cầu cho
em nhỏ 10 tuổi đầu đủ cơm ăn giữa bầy thú hát điên cuồng chuyện thù oán. – Năm
Bắc thuộc thứ 12: Trong ngục thất quê hương ấy, có những bộ xương thôi tập khóc
cười. “ Miền Bắc XHCN đem quân xâm chiếm miền Nam để khống chế nơi đó bằng sự
đô hộ hà khắc và tinh vi.
Bộ mặt của thôn
quê miền Nam
Có nhìn tận mắt,
nghe tận nơi, mới hình dung được khuôn mặt miền Nam sau 37 năm dưới chế độ cọng
sản. Để được trung thực – người viết ghi những điều thấy và nghe – không bình
luận – tại những nơi đã đi qua.
Thôn quê miền Nam
– những làng xóm gần tỉnh lỵ quận lỵ đã có điện. Những làng xã xa xôi hẻo lánh
vẫn còn sống trong sự tăm tối.
Đường sá có
tu sửa phần nào. Đường mòn đi sâu vào thôn xóm được lót bằng những tấm dalle
lớn (đường xóm Cái Nứa, Cái Chuối xã Long Mỹ, VL), xe Honda và xe đạp chạy qua
được. “Cầu tre lắt lẻo”, cầu khỉ được thay thế bằng cầu ván, cầu đúc (vật liệu nhẹ).
Cầu tiêu công
cộng trên sông các chợ quận (Cái bè, Cái răng) nay không còn thấy nữa. Nhà cửa
dọc theo bờ sông Cần Thơ – chen vào những nhà gạch ngói, nhà tôn – còn nhiều
nhà lá nghèo nàn. Tương tự như vậy – dọc theo bờ sông Long Hồ – một số nhà gạch
nhỏ mới cất. xen kẻ những mái lá bạc màu. Vùng Trà ốp, Trà Cú (Vĩnh Bình), chợ
Thầy Phó (Vĩnh Long) nhiều nhà gạch mới xây nhưng vẫn không thiếu nhà lá, nhà
tôn. Đường mòn chạy sâu vào thôn xóm vẫn còn đường đất lầy lội vào mùa mưa nước
nổi. Hai bên đường xe chạy từ Mỹ Tho, Cao Lãnh, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá,
Cần Thơ.
Nhìn chung – có
một sự thay đổi rõ rệt. Nhà cửa, hàng quán dầy đặc, động cơ ồn ào, người ta
chen chúc. Cảm giác chung là ngột ngạt, khó thở. Những vườn cây xanh um bên
đường đã biến mất hoặc thụt sâu vào trong, không còn thấy nữa. Không còn vẻ đẹp
thiên nhiên ngày nào của vườn xoài cát sai oằn, mát mắt vùng Cái Bè, An Hữu,
vườn mận Hồng Đào chạy dài hàng mấy cây số ở Trung Lương. Dưới sông – từ kinh
Vỉnh Tế chảy dài ra sông Tiền Giang – hai bên bờ toàn là nhà sàn, phía sau
chống đở sơ sài bằng những trụ cây tràm. Mỗi nhà hoặc 2, 3 nhà đều có cầu tiêu
tiểu bắc phía sau. Tắm rửa giặt giũ, múc nước lên uống, phóng uế – cũng cùng
trên một dòng sông. Không có gì thay đổi. Làng Chàm còn gọi là chà Châu Giang
cũng còn đó. Cũng nghèo như trước. Những chiếc ghe vừa dùng làm nhà ở, vừa là
hồ nuôi cá Basa, cá điêu hồng v. v. ở dọc bờ sông khá dài. Dường như ngành nầy
hoạt động khá mạnh.
Dọc trên những
nhánh phụ lưu của 2 con sông Tìền và sông Hậu – người ta không còn thấy bóng
dáng của những cô gái thướt tha trong chiếc áo bà ba và chiếc quần lãnh Mỹ A,
chèo ghe tam bản, bơi xuồng như thời trước 75 nữa. Hỏi một ông già tên Ph. tại
Cái Răng, được trả lời:
“ Đi lấy
Đại Hàn, Đài Loan hết rồi ông ơi! “
Tôi hỏi thêm: “
Các cô gái có nghe nhiều người bị gạt bán vào ổ mãi dâm, nhiều cô gái bị chồng
bắt làm lao động khổ sai, bị ngược đãi, đánh đập. các cô gái nầy không sợ sao
ông? –
“ Biết hết – mấy
cổ biết hết, báo Tuổi trẻ đăng hàng ngày. Nhưng cũng có những cô có
chồng Đại Hàn, cho tiền cha mẹ xây nhà gạch. Cô khác thấy vậy ham. Phần
nghèo, phần không có việc làm kinh niên. Họ liều đó ông, biết đâu gặp may.
“Câu chuyện gái
Việt lấy chồng Đại Hàn, Đài Loan hiện không ai là không biết. Tờ Tuổi trẻ – số
ra ngày mùng 1 Tết năm Đinh Hợi – trong bài:
“ Nỗi đau
từ những con số”- có nói đến số phận của 65.000 phụ nữ đang làm vợ những ông
chồng Đài Loan già, tàn tật đui mù, làm vợ tập thể cho cả gia đình cha lẫn con.
Cũng do tờ báo nầy:
“Tại một tổ chức
kết hôn lậu, hàng chục cô gái đang “bày hàng” để 2 ông Hàn quốc tuyển chọn làm
vợ và 118 cô gái khác đang nằm, ngồi, lố nhố chờ đến luợt mình “ Và cũng do tờ
Tuổi Trẻ số phát hành ngày 25-04-2007, viết:
“Hơn 60 cô
gái, tuổi từ 18 đến 20 từ miền Tây Nam bộ lên Sài gòn để dự tuyển. Các chàng rể
Hàn Quốc được quyền soi xem kỷ, chú ý đến cả từng vết thẹo trên thân thể cô
gái.Dich vụ môi giới hôn nhân lậu có chiều hướng gia tăng. Chỉ trong vòng nửa
tháng mà Công An đã phát hiện 3 vụ môi giới hôn nhân trái phép ở quận 6, 10 và
Tân Bình với gần 400 lượt cô gái hiện diện.
Thậm chí – những cô gái được
xe ôm chở tới địa điểm dồn dập gây náo loạn cả xóm”.
Người viết có lần
lang thang trên đường Nguyễn tri Phương tìm quán ăn cơm trưa, có chứng kiến tại
chỗ: Từng cặp trai gái lố nhố xếp hàng đôi trước cửa một trường học, để lần
luợt vào trong. Hỏi một người trung niên lái xe Honda ôm, được anh trả lời: ‘
“Đó là những
người con gái đi lấy chồng Đài Loan và Đại Hàn. Hàng bên trong là những đang
làm thủ tục xuất ngoại theo chồng. Hàng bên ngoài là những người đang vào ký
giấy hôn thú sau khi đã qua các cửa ải môi giới và thủ tục tuyển lựa”.
Tôi nhìn kỷ các cô
gái nầy tuổi rất trẻ khoản chừng 18 đến 20, đứng cặp với những anh Tàu già sồn
sồn- có một người tàn tật. Không thấy có thanh niên trẻ. Nhìn cách ăn mặc và
nghe họ nói chuyện – tôi đoán chừng họ đến từ miền Tây Nam Bộ. Đây là tổ chức
môi giới chánh thức có giấy phép hành nghề.
Song song với tổ
chức chánh thức, còn có một tổ chức “ môi giới hôn nhân lậu”- sự thật là một tổ
chức buôn người, chuyên đi dụ dỗ trẻ em và gái, nói gạt là đi bán hàng hay đi
làm việc tại các cơ xưởng ngoại quốc nhưng là để bán thẳng vào các ổ mãi dâm ở
Kampuchia, Thái Lan, Ma Cau để nơi đây huấn luyện trẻ em làm nô lệ tình dục,
các cô gái làm điếm, hoặc bán cho người Tàu bỏ tiền ra mua nô lệ. Tất nhiên là
phải có sự tiếp tay che chở ăn chia của Công An. Nói là lậu nhưng thật ra là
nhan nhãn xảy ra hằng tuần – thậm chí hằng ngày trước mặt dân chúng tại các
quận Bình Thạnh, quận 11, Sàigòn. Cho dù chánh thức hay lậu, hậu quả cũng gần
giống nhau. Chánh thức thì có giấy phép, có công an làm thủ tục, chánh phủ thu
tiền lệ phí. Lậu thì lén lút với sự che chở của Công An.
Hậu quả gần giống
nhau. Nhiều cô gái về làm vợ mấy tên Đài Loan, Đại Hàn bị ngược đãi, đánh đập
tàn nhẫn – ban ngày làm nô dịch, ban đêm phục vụ tình dục rồi bán vào động
mãi dâm lấy tiền gở vốn lại. (Trại cứu giúp nạn nhân của cha
Hùng ở Đài Bắc là một bằng chứng) Còn lậu thì bán thẳng vào ổ điếm.
Biết bao nhiêu
thảm cảnh, biết bao nhiêu bi kịch thương tâm làm rúng động lương tâm nhân loại.
Cựu Quốc Trưởng Sihanouk không giấu được nỗi xót xa trước thảm cảnh người phụ
nữ Miên làm vợ mấy thằng Tàu, lên tiếng kêu gọi họ trở về nước. Không thấy Việt
Nam nói nửa lời!
Những cô
gái nầy có biết những thảm kịch đau thương, những sự hành hạ, ngược đãi, đánh
đập. nầy khi lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn không?
Có bị cưỡng bức,
bị dụ dỗ hay tự nguyện? Cha mẹ có đồng ý hay cản trở? Nguyên nhân nào đã thúc
đẩy họ dấn thân vào con đường hiểm nguy, tương lai mù mịt?
Trừ những trường
hợp bị dụ dỗ qua đường dây buôn người – những người con gái này thật sự là họ
TỰ NGUYỆN. Họ còn phải vay tiền mua sắm, ăn diện, hối lộ để đuợc giới thiệu.
Nhưng nguyên nhân
nào thúc đẩy họ đi lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn? Có thể có nhiều nguyên nhân
phức tạp. Phó thường dân tôi chỉ đưa ra vài nhận định thiển cận như sau: Quá
nhiều chương trình ngăn chống lũ lụt, chương trình công nghiệp hóa, đô thị hoá
bừa bãi, không được nghiên cứu cẩn trọng, đất đai canh tác bị thu hẹp, Dân số
gia tăng. Khối lượng đông đảo người miền Trung, Bắc XHCN tràn vào. Nông dân
miền Nam thiếu đất canh tác.
Các cô gái miền
Tây quẩn bách vì không có việc làm kinh niên – cuộc sống vô vọng mịt mờ – có
nhiều trường hợp bị thúc đẩy vì cha mẹ mắng nhiếc, đay nghiến khi so sánh con
gái mình với cô con gái làng bên có chồng Đại Hàn mang tiền về xây nhà gạch cho
cha mẹ. Và cũng vì hấp thụ một nền giáo dục của chế độ CS (sinh sau 75) – những
người trẻ tuổi không có ý niệm về luân lý đạo đức cũ, thang giá trị bị đảo lộn
nên họ không đặt nặng danh dự, sĩ diện như thời trước. Do vậy – khi bị dồn vào
đường cùng họ đành đánh liều nhắm mắt đưa chưn. Nhưng động lực chánh là nghèo.
Nghèo Là nguyên
nhân chánh đưa đẩy các cô gái miền Tây Nam Bộ đi lấy chồng Đại Hàn và
Đài Loan… để hy vọng thoát khỏi cảnh đời cơ cực, vô vọng không lối thoát. Thế
nhưng tại sao đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) – vựa lúa nuôi sống cả nước – sau
32 năm dưới chế độ CS lại trở nên nghèo như vậy – nghèo hơn cả đồng bằng sông
Hồng (ĐBSH) ?
Theo tiêu chuẩn
nghèo từng vùng của Tổng cục thống kê Việt Nam – thì tỷ lệ ĐBSCL năm 1998:
ĐBSC: 37%. ĐBSH: 29% . Năm 2002: ĐBSCL: 13 %. ĐBSH: 9%. (Nhà x. b Thống kê –
Hànội, trang 13 – LVB trích dẫn) Dù theo tiêu chuẩn nào: tiền tệ (tính bắng
tiền hay bằng gạo) – mức sống (bao gồm lương thực, nhà ờ, mức sống văn hóa) –
ĐBSCL vẫn nghèo hơn ĐBSH – bởi lẽ khi nghèo về lương thực – thì khó có thể giàu
về nhà ở và đời sống văn hoá. Đó là cái nghèo mà anh Lâm văn Bé đã nhìn qua
những con số có giá trị của những chương trình nghiên cứu thống kê khoa học. Và
sau đây là cái nghèo miền Nam qua cái nhìn tận mắt, nghe tận nơi của người
viết:
Cái nghèo ở Việt
Nam bao gồm cả thành thị lẫn thôn quê là cái nghèo thiếu trước hụt sau, ăn bữa
sáng lo bữa chiều – cái nghèo của một nông dân, nhà dột nát. khi trời mưa lúc
ban đêm, không có chỗ để nằm phải tìm một góc nhà, phủ cái mền rách lên người
ngồi run cằm cặp, trước từng cơn gió lạnh buốt lùa vào căn nhà trống hốc…
Cái nghèo của một
người đi mượn tiền, muợn gạo. tới ngày hẹn không tiền trả. Cái nghèo của một
thanh niên thất nghiệp, cha bị lao phổi không tiền mua thuốc nằm ho sù sụ, mẹ
bơi xuồng đi bán bắp nấu không đủ gạo cho một đàn con 4 đứa, mũi dãi lòng thòng
đang bốc đất cát chơi ngoài sân. Tục ngữ bình dân có câu:
Ít ai giàu 3 họ,
khó 3 đời. – Có. Tôi quen biết ông Sáu S. làm nghề chày lưới. ở sông Long Hồ.
Đời con là anh Tư Te tiếp nối nghề nầy: nghề đi nhủi tép. Và trên bờ sông Long
Hồ năm nay (2011) tôi thấy vợ chồng một cậu thanh niên tên M. vừa cặp xuồng vào
bến, đem miệng nhủi còn dính đầy rong rêu phơi trên mái nhà lá đã nhuộm màu
thời gian bạc thếch. Hỏi thăm thì té ra là con của Tư Te. Đời ông nội – nghèo!
Đời cha nghèo! Đời cháu cũng nghèo! Khó 3 đời đó. Cọng Sản đổi đời cho người
giàu thành nghèo – không đổi đời cho người nghèo thành giàu.
Người nghèo vẫn
tiếp tục nghèo. Nói chung thì nông dân Việt Nam chiếm 85% dân số mà đất không
đủ để canh tác – còn công nghiệp không có khả năng biến nông dân thành thợ
thuyền. trong khi dân số lại gia tăng quá tải. Cho nên thất nghiệp không thể
tránh. Nghèo là hiện thực. Tiến sĩ Lê đăng Doanh trong một bài phổ biến trên
mạng, viết : “Nông dân đã nghèo, đất đã kém đi, nhưng mỗi năm thêm 1 triệu
miệng ăn, lấy đâu ra mà ăn. Lao động vất vả mỗi ngày trên 8m2 đất thì lấy gì mà
giàu có được? “
Miền Nam – 37 năm
dưới chế độ Cộng sản
Kinh tế Việt Nam
– trong đó có miền Nam – có chút tiến bộ – so từ thời kỳ bao cấp đến thời kỳ mở
cửa. Nhưng chỉ là tiến bộ với chính mình. Đối với các nước khác trong vùng thì
còn lẹt đẹt, cầm lồng đèn đỏ… Và điều quan trọng là sự phát triển nầy có đem
lại phúc lợi cho dân chúng qua sự tái phân lợi tức quốc gia, để tài trợ các
chương trình y tế, giáo dục (hiện nhiều người nghèo không có tiền đóng học phí
bậc Tiểu học cho con) – các chương trình tạo công ăn việc làm, phát triển nông
nghiệp, xây dựng hạ tầng cơ sở hay không? Hay là phát triển bằng những con số
báo cáo rổng tuếch? Lợi tức tạo được đã bị cả hệ thống của những con virus tham
nhũng đục nát cơ thể. Và hiện tại – muốn phát triển công nghiệp – nhà cầm quyền
địa phương – theo lệnh Đảng – mở rộng khu công nghiệp, khu du lịch, đã quy
hoạch lấy đất, phá mồ phá mả, chiếm nhà dân một cách bạo ngược. Lòng dân phẩn
uất, kêu la than khóc. Oán hận ngút trời xanh! (19 Tỉnh miền Nam biểu tình
khiếu kiện trước trụ sở quốc hội 2 Sàigòn). Như vậy có gọi là phát triển không?
Kết luận
- 37 năm nhìn
lại:
Người ta thấy
miền Bắc đã “giải phóng” dân Sài gòn ra khỏi đất đai, nhà cửa của họ. Họ phải
rút vô hẻm, ra ngoại ô hay về quê bằng nhiều chánh sách khác nhau. “Giải phóng”
miền ĐBSCL ra khỏi sự trù phú do thiên nhiên ưu đãi từ nhiều thế kỷ. “Giải
phóng” quân nhân, viên chức chế độ cũ ra khỏi nhà, để đưa họ vào các trại tù
cải tạo hoặc đẩy họ ra biển… “ Giải phóng” phụ nữ miền Tây, để họ được tự do đi
làm “vợ nô lệ”, đi làm điếm ở Kampuchia, TháiLan.
- 37 năm nhìn
lại:
Người ta thấy
Việt Nam trở lại thời kỳ mua bán nô lệ như thời Trung cổ. Phụ nữ Việt Nam bị
bán đấu giá trên E-bay Taiwan website (2010) – bị trưng bày trong lồng kính,
cũng để bán đấu giá như một con súc vật ở Singapour (2011). Chỉ trong năm 2011
– có khoản 400.000 phụ nữ và trẻ em bị bán ra ngoại quốc. (Theo UNI CEF – LHQ
và Bộ Tư Pháp Việt Nam)
- 37 năm nhìn
lại:
Mượn lời nhà báo
Claude Allegre, báo L’expresse ngày 29-8-2011: “Người ta không thể cho qua một
cách im lặng những Khơ me đỏ, những trại tập trung ở Cambodia và những cuộc tàn
sát man rợ ở đó. Và Việt Nam không được biết đến như là một chế độ nhân đạo
hơn. Dưới cái cớ là dân tộc can đảm nầy đã chiến thắng các siêu cường quốc –
người ta đi đến chỗ quên đi một nền độc tài đẫm máu đang thực thi trên xứ sở”
- 37 năm nhìn
lại:
Miền Bắc XHCN rõ
ràng đã thiết lập một nền đô hộ miền Nam – khắc nghiệt, tinh vi hơn cả thời
Pháp thuộc. Và điều quan trọng trên hết là Việt Nam đang đứng trước hiểm họa
mất nước. Một trí thức Việt Nam lên tiếng cảnh cáo: “Việt Nam đang đứng trước
hiểm họa mất nước. Mất cả đất đai, sông núi và dân tộc. Việt Nam sẽ trở thành
một tỉnh lẻ của Tàu.” (Trích Người việt hải ngoại – Nguyễn văn Trấn)
© Trần Thế Phong
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment