Saturday, March 1, 2014

Trận chiến chính trong thế kỷ 21


Nguyễn Hưng Quốc - Trận chiến chính trong thế kỷ 21

Thứ Ba, ngày 18 tháng 2 năm 2014

Hình: internet
Nếu mâu thuẫn chính xuyên suốt gần như toàn bộ thế kỷ 20 vừa qua là mâu thuẫn ý thức hệ mà hình ảnh tiêu biểu nhất là cuộc Chiến tranh lạnh giữa hai khối tư bản chủ nghĩa – đứng đầu là Mỹ - và khối xã hội chủ nghĩa – đứng đầu là Liên Xô – với hai điểm nóng bùng nổ ở Triều Tiên trong ba năm 1950-53 và ở Việt Nam trong hai mươi năm 1954-1975 thìmâu thuẫn chính trong thế kỷ 21 này là gì?


Có nhiều câu trả lời. Sớm, gây tiếng vang lớn và có nhiều ảnh hưởng nhất có lẽ là quan điểm của Samuel P. Huntington, được trình bày trong một bài giảng tại American Enterprise Institute năm 1992, sau đó, được viết lại dưới hình thức tiểu luận mang nhan đề “The clash of civilization” đăng trên tạp chí Foreign Affairs vào năm 1993; và, cuối cùng, phát triển thành hẳn một cuốn sách dày cả gần 400 trang, được xuất bản lần đầu tiên năm 1996 (bản tôi đang dùng được in năm 2011).

Luận điểm chính của Huntington là: sau sự sụp đổ của khối xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, tức là sau thời Chiến tranh lạnh, thế giới bước vào một kỷ nguyên hoàn toàn mới với ba đặc điểm chính: Một, lần đầu tiên trong lịch sử, nền chính trị toàn cầu trở thành đa cực (multipolar) và đa văn minh (multicivilizational); hai, trong kỷ nguyên ấy, yếu tố quan trọng nhất phân biệt các dân tộc không phải là vấn đề ý thức hệ, chính trị hay kinh tế mà là văn hóa; và ba, cũng trong kỷ nguyên ấy, chính trị địa phương là chính trị của sắc tộc, chính trị mang tầm vóc toàn cầu lại là chính trị của văn minh (“In this new world, local politics is the politics of ethnicity; global politics is the politics of civilization”, tr. 28).

Tại sao? Theo Huntington, trước xu hướng hiện đại hóa và toàn cầu hóa hiện nay, khi ranh giới giữa các quốc gia càng ngày càng trở nên mờ nhạt, ý niệm bản sắc càng ngày càng trở nên bức bối. Câu hỏi chính mỗi dân tộc tự đặt ra cho mình là: Mình là ai? Trả lời câu hỏi ấy, người ta không phải chỉ cần biết mình không phải là ai mà, quan trọng hơn, cần biết mình đang chống lại ai. Việc định nghĩa dựa trên cái không và cái chống ấy hình thành nên một thứ chính trị mới, thứ chính trị không phải chỉ nhắm đến lợi ích mà còn để khẳng định bản sắc. Bản sắc ấy được cắm rễ sâu xa ở tổ tiên, tôn giáo, ngôn ngữ, lịch sử, giá trị và các thiết chế, Huntington gọi chung là “văn minh”.

Hệ quả là, theo Huntington, thế giới bây giờ không phải chỉ được chia thành ba khối (thế giới thứ nhất gồm các nước phát triển; thế giới thứ hai gồm các nước xã hội chủ nghĩa và thế giới thứ ba gồm các nước đang hoặc kém phát triển) mà là bảy hoặc tám nền văn minh khác nhau, bao gồm:

Thứ nhất, văn minh Trung Quốc (Sinic) với nét chủ đạo là ảnh hưởng thống trị của Nho giáo, gồm, ngoài Trung Quốc, còn có các nước: Việt Nam và Hàn Quốc (có thể kể thêm Đài Loan, nếu xem Đài Loan là một nước).

Thứ hai, văn minh Nhật Bản tuy chịu ảnh hưởng khá nhiều của Trung Hoa thời cổ đại nhưng sau, phát triển thành một nền văn minh riêng.

Thứ ba, Ấn Độ giáo chủ yếu ở Ấn Độ,Bhutan và Nepal.

Thứ tư, Hồi giáo, chủ yếu ở Trung Đông (trừ Armenia, Cyprus, Ethopia, Georgia, Israel, Malta và Nam Sudan), Bắc Phi, phía nam của Tây Phi, Albania, Bangladesh, Brunei, Comoros, Indonesia, Malaysia, Pakistan và Maldives.

Thứ năm, Chính thống giáo,bao gồm các nước thuộc khối Liên Xô cũ, Yugoslavia, Bulgaria, Cyprus, Hy Lạp và Romania.

Thứ sáu, văn minh Tây phương, bao gồm Bắc Mỹ, Tây Âu và Trung Âu, Úc và Tân Tây Lan.

Thứ bảy, văn minh châu Mỹ La Tinh, bao gồm vùng Trung Mỹ, Nam Mỹ (trừ Guyana, Suriname và French Guiana), Cuba, Cộng hòa Dominican và Mexico.

Thứ tám, có thể kể thêm văn minh châu Phi. Nói “có thể” vì nhiều học giả không công nhận châu Phi có một nền văn minh riêng. Lý do là vì châu Phi chịu ảnh hưởng nặng nề của nhiều nền văn minh khác, ví dụ, phía Bắc của châu Phi chịu ảnh hưởng nặng nề của Hồi giáo, phía Nam châu Phi chịu ảnh hưởng của Tây phương (hoặc từ Pháp hoặc từ Anh) với đặc trưng chính là Thiên chúa giáo.

Yếu tố đóng vai trò trung tâm của các nền văn minh kể trên là tôn giáo.

Thật ra, nhận định này cũng đã được nhiều người nêu lên. Theo Christopher Dawson, “các tôn giáo lớn là nền tảng trên đó các nền văn minh được xây dựng”. Theo Max Weber, trong năm tôn giáo có tầm vóc thế giới, trừ Phật giáo, bốn tôn giáo còn lại – Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo và Nho giáo đều gắn liền với các nền văn minh lớn. Tại sao Phật giáo lại không gắn liền với nền văn minh nào? Có nhiều lý do: Một, ngay từ đầu Phật giáo đã bị phân hóa thành hai, Đại Thừa và Tiểu Thừa; hai, nó không phát triển mạnh ở mảnh đất nó được khai sinh mà lại được phát triển ở những nơi khác, ví dụ, một nhánh phát triển ở Trung Hoa, Triều Tiên, Việt Nam, Nhật Bản; một nhánh khác, phát triển ở Sri Lanka, Miến Điện, Thái Lan, Lào và Campuchia; và ba, ở mỗi nơi, Phật giáo ít nhiều đều được nội địa hóa, hòa lẫn với các tín ngưỡng khác, do đó, tuy vẫn là một tôn giáo lớn, nó lại không đóng vai trò nền tảng của một nền văn minh nào cả (tr. 47-8).

Trước đây, trong nhiều thế kỷ, kể từ khi Tây phương nổi lên như những đế quốc mang quân đi chinh phạt khắp nơi, thế giới được chia thành hai: Tây phương (West) và phi-Tây phương (non-West), trong đó, cái gọi là phi-Tây phương bao gồm sáu hoặc bảy nền văn minh còn lại. Bây giờ, các nền văn minh ấy càng lúc càng phát triển, trước, về phương diện kinh tế, sau, về phương diện chính trị, trở thành những nền văn minh độc lập, họ muốn thách thức lại Tây phương. Ngay chính cái gọi là Tây phương ấy cũng bị phân hóa với một bên là Hoa Kỳ và một bên là châu Âu. Bởi vậy, Henry Kissinger mới cho hệ thống quyền lực thế giới trong thế kỷ 21 tập trung vào sáu trung tâm: Hoa Kỳ, Âu châu, Trung Quốc, Nhật, Nga và có lẽ, Ấn Độ (tr. 28).

Quan điểm của Samuel Huntington mặc dù gặp nhiều sự phê phán, nhưng càng lúc rõ ràng là càng có ảnh hưởng. Gần đây nhất, nó được tái khẳng định bởi Tony Blair, cựu Thủ tướng Anh, người được xem là một nhà chiến lược sắc sảo của Tây phương.

Trong một bài báo đăng trên tờ The Observer ngày 26 tháng 1 năm 2014, Tony Blair khẳng định: không phải ý thức hệ mà chính là những sự dị biệt về tôn giáo mới là những trận chiến quyết định trong thế kỷ 21 này.

Để chứng minh, ông nêu lên một số ví dụ từ các cuộc tấn công khủng bố ở Syria, Libya, Iraq, Lebanon, Ai Cập, Yemen, Tunisia và Pakistan cũng như ở một số vùng thuộc Nigeria, Trung Phi, Nga, Trung Á, Miến Điện, Thái Lan và Philippines. Tất cả, với những phạm vi và mức độ khác nhau, gắn liền với những lý do lịch sử và chính trị khác nhau, đều có một bản chất: xuất phát từ những niềm tin mang tính tôn giáo. Nhân danh tôn giáo, người ta ném bom vào nhau. Nhân danh tôn giáo, người ta mang bom vào người để vừa tự sát vừa giết chết người khác, ngay cả những thường dân vô tội trong các khu thương mại hay các nhà thờ, kể cả trong bệnh viện và trường học. Nhân danh tôn giáo, người ta chống lại dân chủ, phần lớn là các nền dân chủ còn non trẻ, để dựng lên các chế độ toàn trị mới châu tuần chung quanh tôn giáo của chính mình. Theo Tony Blair, đó là điều các chính phủ nên nhìn nhận và tìm cách giải quyết.

Trong bài “The New Age of Nationalism”, Zachary Keck, phụ tá chủ bút của tờ The Diplomat, phản bác lại ý kiến của Tony Blair. Theo Keck, Tony Blair vấp phải một số sai lầm. Thứ nhất, ông xây dựng quan điểm của mình chung quanh các sự kiện đang diễn ra tại Trung Đông, nhưng như Hillary Clinton, nguyên Ngoại trưởng Mỹ, nhận định: “Tương lai của chính trị sẽ được quyết định ở châu Á, chứ không phải ở Afghanistan hay Iraq”. Thứ hai, Tony Blair không chú ý đúng mức đến vai trò của các cường quốc: Tất cả các ví dụ ông nêu lên đều giới hạn trong các nước nhỏ, ít có khả năng làm thay đổi cục diện chính trị của thế giới.

Zachary Keck quan niệm, để hình dung tình hình chính trị và chiến tranh trên thế giới ở thế kỷ này, chúng ta phải nhìn vào các cường quốc, những kẻ có thể tác động lên xu hướng vận động hay phát triển của lịch sử. Trong thế kỷ 19, vai trò đó thuộc về Anh và châu Âu. Trong thế kỷ 20, vai trò đó thuộc về Mỹ, người lãnh đạo khối Tự do trong suốt cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, thời chiến tranh lạnh cũng như thời hậu-chiến tranh lạnh. Còn bây giờ, ở thế kỷ 21, vai trò ấy thuộc về vùng Thái Bình Dương, ngoài các cường quốc ở châu Á, còn có những cường quốc mới nổi như Brazil, Turkey và có thể cả Iran. Tất cả đều có một đặc điểm giống nhau: tinh thần quốc gia cực kỳ mạnh mẽ.

Zachary Keck kết luận: Thế kỷ 21 là thế kỷ của chủ nghĩa quốc gia. Chứ không phải của tôn giáo. Ngay ở những nước tôn giáo phát triển mạnh, hơn nữa lại là thứ tôn giáo khá cực đoan, như ở Trung Đông, chủ nghĩa quốc gia cũng thường là một yếu tố nổi bật nhất. Ở tận cùng của các cuộc chiến ở Trung Đông hay châu Phi là tinh thần quốc gia, nhằm tranh đấu cho quyền lợi quốc gia. Tôn giáo chỉ là một chiêu bài.

Ở trên là ba quan điểm khác nhau về các mâu thuẫn chính sẽ quy định diện mạo chính trị và chiến tranh trong thế kỷ 21: Với Samuel Huntington, đó là văn minh; với Tony Blair, đó là tôn giáo, hơn nữa, thứ tôn giáo cực đoan nhất (hàm ý chỉ Hồi giáo); và với Zachary Beck, đó là chủ nghĩa quốc gia.

Khác nhau, nhưng cả ba, cũng như hầu hết các học giả có uy tín khác trên thế giới, đều đồng ý với nhau ở một điểm: thời đại của ý thức hệ đã qua rồi.

Viết vậy, tôi biết ít nhất có một người, ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam, sẽ nhảy nhổm lên cãi: Không phải. Trận chiến trong thế kỷ này, và có khi, cả thế kỷ sau nữa, vẫn là trận chiến ý thức hệ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội.

Ối giời!


Hãy biết quyền của mình (4): An ninh quốc gia vs. Nhân quyền


Đoan Trang - Không riêng gì Việt Nam, ở tất cả các quốc gia trên thế giới, an ninh quốc gia luôn là một lý do cực kỳ xác đáng để nhà nước can thiệp và hạn chế quyền tự do của người dân. Điểm khác biệt là mức độ nhà nước lợi dụng vấn đề ''an ninh quốc gia'' để giới hạn quyền của dân chúng và trấn áp những người dám đối đầu với chính quyền (hay là những người bất đồng chính kiến). Chính quyền càng độc tài thì càng sử dụng ngón võ ''an ninh quốc gia'' này một cách tùy tiện, vô tội vạ hơn.

Để minh họa khái niệm ''an ninh quốc gia''...

Cuối tháng 1 vừa qua, anh Nguyễn Hồ Nhật Thành, 28 tuổi, lên đường đi Mỹ tham dự một cuộc vận động nhân quyền nhân phiên Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (UPR) của Việt Nam, theo lời mời của một số tổ chức phi chính phủ quốc tế. Chú ý rằng UPR là một cơ chế bảo vệ nhân quyền của Liên Hợp Quốc, được coi như một sáng kiến bởi nó cho phép khối xã hội dân sự của một quốc gia tham gia đánh giá và báo cáo về tình hình nhân quyền của nước mình cho Liên Hợp Quốc.

Visa đã được cấp và vé máy bay đã mua, nhưng anh Thành lại bị an ninh cửa khẩu chặn lại ở sân bay Tân Sơn Nhất với lý do chung chung là ''vì an ninh quốc gia...'' (có dấu ba chấm).

Sau khi anh Thành có đơn đề nghị làm rõ tại sao anh không được xuất cảnh, Cục Quản lý Xuất Nhập Cảnh (ở nước ta thì nó trực thuộc Bộ Công an) có thư trả lời vào ngày 21/2, rằng đó là ''vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội''.

Trước đó bốn tháng, vào ngày 21/10/2013, Tòa án Nhân dân TP. Hà Nội ra quyết định đình chỉ giải quyết một vụ án hành chính sơ thẩm mà người kiện là bà Bùi Thị Minh Hằng, khởi kiện Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Nguyễn Thế Thảo vì ông này đã tống bà vào ''cơ sở giáo dục'' 5 tháng. Tòa án cũng nại lý do nội dung khiếu kiện của bà Bùi Thị Minh Hằng ''có liên quan đến lĩnh vực an ninh''.

Trước đó nữa, năm 2009, một số blogger ở Việt Nam (trong đó có người viết bài này) bị bắt giam theo Điều 258 Bộ luật Hình sự (lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm hại lợi ích của Nhà nước). Không rõ quyền tự do dân chủ nào đã bị lợi dụng và mức độ thiệt hại của Nhà nước đến đâu. Còn hành vi mà cơ quan an ninh căn cứ vào đó để khép tội là ''in áo chống dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên''. Hành vi in áo này được coi là xâm phạm an ninh quốc gia, hoặc có lúc lại được gọi là xâm hại lợi ích Nhà nước.

Sơ sơ ba trường hợp trên đủ cho ta thấy tính chất thoáng rộng và bao trùm của khái niệm ''an ninh quốc gia'', ''lợi ích Nhà nước'' ở Việt Nam. Đó chỉ mới là ba trong hàng trăm vụ việc từ trước đến nay, khi cơ quan công quyền sử dụng lý do ''an ninh quốc gia'' để thực hiện một mục đích gì đấy. Điều kỳ lạ là trong các vụ việc, đương sự chỉ bị xử lý theo các điều luật trong Bộ luật Hình sự, còn chính Luật An ninh Quốc gia của Việt Nam (ban hành năm 2004) thì lại không được đề cập đến.

An ninh quốc gia mâu thuẫn với nhân quyền như thế nào?

Quả thật, an ninh quốc gia có những lúc mâu thuẫn với quyền con người. Một ví dụ cơ bản là mâu thuẫn giữa việc giữ gìn bí mật quốc phòng, bí mật công tác điều tra (chẳng hạn trong hoạt động chống khủng bố) và việc bảo đảm quyền tự do thông tin, quyền được biết của người dân. Rõ ràng, những thông tin về bản đồ hệ thống phòng thủ tên lửa của Hà Nội (nếu có) không phải là cái mà công dân Việt Nam nào cũng được tiếp cận, nhân danh ''quyền được biết''.

Nhưng trên thực tế, an ninh quốc gia luôn luôn là cái cớ để các nhà nước độc tài xiết chặt quyền tự do của người dân, đàn áp tự do thông tin và báo chí, tiêu diệt tính độc lập của tòa án, phá hoại pháp quyền. Do đó, các chuyên gia luật pháp trên thế giới đã khuyến cáo: ''Khái niệm an ninh quốc gia phải được định nghĩa chính xác trong luật pháp của mỗi quốc gia, theo một cách phù hợp với các nhu cầu của một xã hội dân chủ''; ''luật pháp phải rõ ràng, không mơ hồ, định nghĩa cụ thể và chính xác, để ai ai cũng có thể tiếp cận được và hiểu được điều gì bị cấm...''.

Luật An ninh Quốc gia của Việt Nam cũng có định nghĩa về an ninh quốc gia, rằng đó là ''sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước CHXHCN Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc''. Định nghĩa này mơ hồ, không cụ thể (cho nên hoặc là không áp dụng vào đâu được, hoặc là ngược lại, áp dụng vào đâu cũng được, tùy ý thích của lực lượng an ninh). Ngoài ra, có vẻ như nó không phù hợp với các nhu cầu của một xã hội dân chủ, mà chỉ phù hợp với chính quyền trong chế độ xã hội chủ nghĩa.

Có lẽ do vấp phải những ''bất cập'' đó, cho nên trong các vụ án chính trị, liên quan đến an ninh quốc gia, đương sự lại chỉ bị xử lý do bị kết tội vi phạm các điều khoản trong Bộ luật Hình sự. Một số điều khoản trong Bộ luật Hình sự cũng mơ hồ không kém, ví dụ Điều 258 về ''lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm hại lợi ích Nhà nước''.

Biểu tình là xâm hại an ninh quốc gia? 
Hay đàn áp biểu tình mới là xâm hại an ninh quốc gia
và an ninh của người khác?

An ninh quốc gia, lợi ích Nhà nước phải chính đáng

Ý thức được rằng khái niệm ''an ninh quốc gia'', ''lợi ích nhà nước'' luôn được diễn giải tùy tiện theo ý nhà cầm quyền mà đại diện là cơ quan an ninh, nên các chuyên gia luật pháp quốc tế đã chỉ rõ cả những trường hợp chính quyền nại ra các lý do chẳng liên quan gì đến an ninh quốc gia để trấn áp quyền tự do của người dân. Khi đó thì không còn là an ninh quốc gia, lợi ích nhà nước chính đáng nữa.

''Không phải là chính đáng... nếu bảo vệ chính quyền và/hoặc quan chức khỏi bị phát hiện tham nhũng; nếu che giấu thông tin về tình hình vi phạm nhân quyền, về bất cứ hành vi vi phạm pháp luật nào, hoặc về hoạt động của các cơ quan nhà nước; nếu củng cố hoặc kéo dài một lợi ích chính trị, củng cố hoặc kéo dài thời gian tại vị của một đảng phái hay ý thức hệ; nếu đàn áp các cuộc biểu tình được tổ chức đúng luật''.

Bản Nguyên tắc toàn cầu về an ninh quốc gia và quyền được biết (Nguyên tắc Tshwane), ban hành ngày 12/6/2013 sau quá trình tham vấn hơn 500 chuyên gia luật pháp ở 70 quốc gia trên thế giới, đã xác định rõ như vậy.

Lẽ nào Đảng và Nhà nước huy động lực lượng an ninh vào bảo vệ những cái không chính đáng như vậy sao?

Cũng thật may cho Đảng và Nhà nước là Nguyên tắc Tshwane này chỉ có giá trị tham khảo chứ không ràng buộc về mặt pháp lý. 


__._,_.___

No comments:

Post a Comment

Thanks for your Comment

Featured Post

Bản Tin buổi sáng22/4/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link