From: <witness
Date: 2014-07-01 2:10 GMT-07:00
Subject: Ban nguyet san Tu do Ngon luan so 198 (01-07-2014)
To: Lien Minh Viet Nam Tu Do <paris
Date: 2014-07-01 2:10 GMT-07:00
Subject: Ban nguyet san Tu do Ngon luan so 198 (01-07-2014)
To: Lien Minh Viet Nam Tu Do <paris
Kính gởi đến Quý Ân nhân,
Quý Ủng hộ viên và Quý Độc giả
Bán nguyệt san Tự do ngôn
luận và bài xã luận số 198 (ra ngày 01-07-2014).
Xin vui lòng giúp phổ
biến rộng rãi, nhất là ngược về cho Đồng bào trong nước.
Chúng tôi chân thành cảm
ơn.
Ban biên tập.
Chưa có gì nghiêm trọng !?!
Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số
198 (01-07-2014)
Hôm
19-06-2014, Dân Làm Báo đưa tin: “Nóng ruột trước tình hình căng thẳng tại
Biển Đông, đại biểu quốc hội Trương Trọng Nghĩa đã phải đột ngột 'chiếm diễn
đàn' nghị trường nhằm lên tiếng kêu gọi quốc hội Việt Nam ra một nghị quyết
tuyên bố chính thức về Biển Đông, thể hiện rõ thái độ trước các hành vi xâm lược
của Trung Quốc. Ý kiến của vị đại biểu đoàn Sài Gòn được nêu lên vào sáng ngày
19/6, giữa lúc quốc hội Việt Nam với 500 ông nghị, bà nghị đang mải mê thảo luận
về dự án Luật Căn cước công dân. Phiên họp lần thứ 7 năm nay sẽ
kéo dài trong 28 ngày, quốc hội chủ yếu bàn những việc tào lao mà không có
chương trình nói về tình hình Biển Đông hiện đang hết sức nguy cấp. Đơn cử như
việc bỏ phiếu tín nhiệm, cả 500 ông bà nghị sau khi bàn tới bàn lui mới thống
nhất việc chuyển từ 3 mức tín nhiệm xuống thành... 2 mức. (Còn 'tín nhiệm' và 'tín
nhiệm thấp')”.
Sau đây là trích đoạn trong bài phát biểu đầy thổn thức của ông
Nghĩa: “Nếu Quốc hội lần này không có tuyên bố hay nghị quyết chính thức gì
cả về biển Đông, tôi tin rằng nhân dân ta sẽ rất thất vọng, thậm chí hoang
mang. Các đại biểu Quốc hội chắc chắn sẽ nghẹn lời trước những ý kiến chất vấn
của cử tri. Còn dư luận thế giới thì chắc chắn sẽ bình luận rằng hành vi xâm phạm
và đe dọa chủ quyền của Việt Nam trắng trợn đến thế mà Quốc hội nước này lại
không có phản ứng chính thức thì việc gì các nghị sĩ và nhân dân các nước khác
phải lên tiếng? Đây có thể mà một cái cớ để phía Trung Quốc tiến hành những việc
làm hiếu chiến và nguy hiểm hơn nữa”.
Sở dĩ ông Nghĩa bức xúc nói thế là vì 20 ngày sau khi giàn khoan Tàu cộng đã được
cắm xuống vùng biển của đất nước (01-05-2014), Quốc hội Việt cộng mới lên tiếng
phản đối gọi là trong một “thông cáo báo chí” đơn giản do văn phòng Quốc
hội soạn thảo, bày tỏ lo ngại và xin xỏ Tàu cộng rút giàn khoan ra khỏi vùng
biển của Việt Nam. Thế nhưng, đáp lại đề
nghị tha thiết của ông dân biểu
còn ý thức dân tộc cũng như đòi hỏi mạnh mẽ của mọi người Việt còn tinh thần ái
quốc, khi kết thúc kỳ họp thứ Bảy hôm 24-06-2014, Quốc
hội Việt cộng, qua miệng Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng (vốn
câm họng trong gần 2 tháng), đã công khai “lên án” việc Tàu cộng đưa giàn khoan HD-981 vào vùng biển của
Việt Nam trong… diễn văn bế mạc, thay vì qua một nghị quyết hay một tuyên bố riêng biệt
mà cái gọi là cơ quan quyền lực cao nhất nước
này có bổn phận phải làm như thông lệ tại mọi quốc gia gặp hoàn cảnh tương tự.
Biện minh cho thái độ lạ lùng, gây phẫn nộ và gieo thất vọng này, ông Trần Quốc
Thuận, cựu Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội đã nói trong cuộc cuộc phỏng vấn với
BBC cùng ngày: “Quốc hội Việt Nam chưa ra nghị quyết riêng về Biển Đông vì
tình hình chưa 'đặc biệt nghiêm trọng”. Trong khi đó, truyền thông
Việt Nam tiếp tục đưa tin về các vụ đụng độ trên biển giữa tàu chấp pháp hai nước.
Chẳng hạn báo cáo của Cục Kiểm ngư cho biết lúc 9g30 sáng ngày 23-06, tàu KN
951 của lực lượng kiểm ngư Việt Nam đã bị '5 tàu Trung Quốc vây ép'. VnExpress
ghi nhận: "Trước tiên tàu Hải Tuần 11 ngăn cản. Sau đó, tàu Hữu Liên 09 và
Tân Hải 285 đâm vào mạn chiếc KN 951". Sau cú va chạm, mạn phải và mạn
trái con tàu Việt bị "móp méo, biến dạng hoàn toàn, một số thiết bị lan
can hư hỏng". Mới đây, ông Hà Lê, Phó Cục trưởng Cục kiểm ngư, được báo
trong nước dẫn lời cho biết từ khi căng thẳng lên cao, Tàu Cộng đã đâm hỏng 19
tàu Việt. Hồi cuối tháng Năm, một tàu cá của ngư dân Đà Nẵng đã bị tàu Trung Quốc
cố ý đâm chìm.
“Chưa/không
đặc biệt nghiêm trọng!” Đó là câu nói cửa miệng hay ý nghĩ trong lòng của các
lãnh đạo Việt cộng từ xưa tới nay. Gần đây nhất là lời của đại tướng (chưa
đánh đã đầu hàng) Phùng Quang Thanh tại Đối thoại Shanghi-La (Singapore) hôm
31-04. Sau khi ví von chuyện Trung Quốc xâm phạm chủ quyền lãnh hải Việt Nam
(mà chính Thủ tướng Nhật và bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ vừa phản đối kịch liệt
giùm) như mâu thuẫn nội bộ gia đình và cần giải quyết song phương (chứ không đa
phương như khôn ngoan của thiên hạ), tướng Thanh nói: “Quan hệ giữa Việt Nam
và nước BẠN láng giềng Trung Quốc (dùng từ BẠN của ngành Tuyên giáo) về
tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp, chỉ còn tồn tại vấn đề TRANH CHẤP
chủ quyền trên Biển Đông nên đôi khi cũng có những VA CHẠM gây căng thẳng như sự
việc ngày 1-5-2014”. Xa hơn chút nữa, cách đây vài năm (2010), là tuyên bố
của TBT Nguyễn Phú Trọng trong kì họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội: “Tình
hình biển Đông không có gì mới”, giữa lúc Trung cộng cho đủ loại tàu quân sự
trá hình ngang dọc vùng biển này, ra lệnh cấm đánh cá trong mấy tháng mùa hè,
ngăn chặn, tấn công, bắn giết hay bắt bớ ngư dân và ngư thuyền Việt Nam… Nay
thì Trọng Lú vẫn thủ khẩu như bình, bình chân như vại, bất chấp “Thư yêu cầu
nhà nước VN kiện TQ ra tòa án quốc tế” của mấy trăm nhân sĩ ký hôm 19-06, bất
chấp “Thư yêu cầu TBT Nguyễn Phú Trọng trả lời kiện (hay không kiện)
Trung Quốc về biển Đông” của luật sư Trần Vũ Hải và đại tá Nguyễn
Đăng Quang gởi ngày 22-06, bất chấp lời khuyên của Giáo sư Carl Thayer,
một chuyên gia Úc về Việt Nam (VOA 26-06): “Đây là một trường hợp phải
lên tiếng bây giờ, nếu không sẽ mất cơ hội mãi mãi. Trung Quốc muốn tăng mức độ
uy hiếp các nước ở Á Châu, bằng cách trừng phạt và áp lực các nước này, để họ đừng
lên tiếng phản đối những gì mà Trung Quốc đang làm. Nếu ngoan ngoãn im lặng thì
có thể làm ăn hợp tác với Trung Quốc, nhưng đây không phải là một quan hệ ngang
hàng giữa hai quốc gia ngang nhau, mà phải trở về quan hệ giữa một nước lớn và
chư hầu như thời phong kiến khi xưa”.
Não trạng
“không có gì nghiêm trọng” (cho Tổ quốc và Quốc dân) này bắt nguồn từ chính đầu
đảng Cộng sản là Hồ Chí Minh chứ không ai khác. Dù biết nhiều qua Việt sử (hay
biết ít vì bị đuổi khỏi trường Quốc học quá sớm?) rằng Trung Hoa là kẻ thù truyền
kiếp của Dân tộc, rằng Mao là hiện thân số một của đầu óc bành trướng Đại Hán,
Hồ Chí Minh đã thản nhiên rước giặc vào nhà sau khi nắm được quyền lực: rước cố
vấn của chúng, quân đội của chúng, rước chính sách giết nông dân, diệt trí thức,
tàn sát đối lập của chúng, còn rước cả kế hoạch mở rộng lãnh thổ và lãnh hải của
chúng nữa… khiến đời sống nhân dân điêu linh, nguyên khí quốc gia tàn lụi, biên
giới đất tổ thu hẹp… Rồi đang khi các nước cũng bị qua phân vì 2 chế độ chính
trị đối lập như Đức Quốc, Đại Hàn chẳng hề gây chiến với nhau (nhất là từ phía
Cộng) để bảo toàn giang sơn chung của tiên tổ, thì Hồ Chí Minh quyết “đốt cả
dãy Trường Sơn”, gây ra cuộc chiến xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa, khiến hao người
tốn của cả hai bên, tiêu diệt hàng triệu mầm mống nhân tài của đất nước… “Không
có gì nghiêm trọng” nên y đã ra lệnh (hay để mặc) cho đám “ăn cơm quốc gia, thờ
ma cộng sản” tại Huế giết hàng ngàn thường dân và viên chức vô tội trong Tết Mậu
Thân…
Não trạng “không có gì nghiêm trọng” (cho Tổ quốc và Quốc dân) tiếp tục chi phối
các thế hệ lãnh đạo CS đàn em và học trò của Hồ. “Đánh Mỹ cho Liên Xô, Trung Quốc
tới người VN cuối cùng cũng được” như Lê Duẩn tâm niệm. Tống cổ vào trại cải tạo
cả triệu “binh lính Ngụy, viên chức Ngụy”, dùng sức lực cơ bắp của chúng để sản
xuất của cải thay vì dùng khả năng trí tuệ của chúng để xây dựng đất nước cũng
được. Cứ hãy dâng Trung Quốc ải Nam Quan, thác Bản Giốc, núi Lão Sơn, 1000km2
trên đất, 10.000km2 trên biển… Cứ hãy cho Trung Quốc thuê trong nửa thế kỷ
300ha rừng quốc phòng, rừng đầu nguồn; cứ hãy để Trung Quốc xây trong cả trăm
năm những thôn làng phố thị kiểu tô giới, biệt khu ở vành đai biên giới, ở yếu
huyệt Tây Nguyên, ở trung tâm đồng bằng Nam Bộ, ở mũi cực nam Cà Mâu, xây những
hải cảng dân sự (nhưng sẽ trở thành quân sự) ở Vũng Áng, ở Quảng Trị…; cứ hãy
cho Trung Quốc trúng thầu 90% công trình xây dựng và kỹ nghệ thiết yếu như điện,
đường, khoáng sản…. Cứ hãy thỉnh thoảng đưa lá cờ 6 sao (1 lớn 5 nhỏ) lên màn ảnh
truyền hình quốc gia, dúi vào tay các em bé đón quốc khách nước bạn, in trong
sách giáo khoa mẫu giáo hay tiểu học; cứ hãy ghi lên sách địa lý, lên bản đồ quốc
gia hai chữ Tây Sa và Nam Sa thay cho Hoàng Sa và Trường Sa “lạ lẫm”. Cứ hãy
gây khó khăn cho các cuộc nghiên cứu thảo luận về chủ quyền đất nước, các cuộc
triển lãm tư liệu về chủ quyền biển đảo; cứ hãy trấn áp các cuộc biểu tình chống
nước bạn, giam nhốt các tên phản kháng quan thầy Bắc Kinh… Không có gì nghiêm
trọng cả!
Cũng không có gì nghiêm trọng việc lừa gạt toàn dân để ra một Hiến pháp mới rập
theo Cương lĩnh đảng, trong đó đảng tiếp tục là lực lượng lãnh đạo duy nhất của
xã hội đất nước, là sở hữu quản lý duy nhất của tài nguyên quốc gia, là chủ
nhân lớn nhất của kinh tế, thủ lãnh cao nhất của công an quân đội, bất chấp
công an quân đội phản bội bản chất của mình, kinh tế phản bội nguyên tắc tự do
của mình, tài nguyên phản bội ý nghĩa của mình là chia ra cho tất cả, để nhân
dân sống ấm no, đất nước phát triển và Tổ quốc yên lành…
Vì đối với đảng CS (cụ thể là giới lãnh đạo), chỉ có một điều nghiêm trọng,
đó chính là sự sống còn của đảng, là quyền lực tuyệt đối và muôn niên của đảng,
là quyền lợi toàn diện và dài lâu của đảng. Trước “giá trị tối thượng” này, thì
sinh mạng của đồng bào (ngay cả đồng chí, đồng đảng) đều vô nghĩa, có chết hàng
triệu cũng không sao. Trước “giá trị tối thượng” này, thì đất nước của tổ tiên
(lãnh thổ, lãnh hải) bị Tàu cộng chiếm dần hay nuốt hết cũng không sao, miễn là
đảng còn được đàn anh che chở và cho tiếp tục cai trị như thái thú đất Việt.
Trước “giá trị tối thượng” này thì cứ nói to, nổ lớn, tuyên bố lên gân là sẽ
“chống Tàu, kiện Tàu” nhưng phải “lựa chọn thời điểm thích hợp” để rồi sẽ chẳng
làm gì cả và để mặc cho kẻ truyền kiếp tha hồ làm mọi chuyện.
Thế nhưng nhân dân đang nhắc nhở đảng Cộng sản những điều nghiêm trọng như
sau: Hồ Chí Minh và mọi lãnh đạo CS từng hại dân bán nước, giết người cướp
của mà đã về chầu tổ Mác-Lê của chúng thì đã được ghi bia đá trăm năm và bia miệng
ngàn năm là bọn tội đồ dân tộc tệ hại nhất, hơn cả Trần Ích Tắc, Mạc Đăng Dung,
Lê Chiêu Thống và những hôn quân bạo chúa của Việt sử. Còn đám lãnh đạo đang từng
ngày cướp đất của nông dân, cướp lương của công nhân, cướp tài sản của công
dân, cướp tự do của giáo dân, đang từng ngày dùng luật pháp, tòa án, công an,
côn đồ để trấn áp dân lành, khủng bố người yêu nước, đang từng ngày làm ăn với
giặc, mở cửa rước giặc, nhượng bộ cho giặc thì nếu không sớm từ bỏ quyền lực đã
chiếm đoạt, tài sản đã cướp bóc thì cũng đoán được số phận đích đáng mà nhân
dân và lịch sử sẽ dành cho các người.
BAN BIÊN TẬP
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment