Sức mạnh của chủ nghĩa
ngu dân
© Dương Thu Hương
Vốn thích nhạc không lời nhưng đôi khi tôi vẫn nhớ về một câu hát cũ, “Anh ở đầu sông, em cuối sông. Chung nhau dòng nước Vàm Cỏ Đông…” Lãng mạn sao, những cặp tình nhân cùng uống chung một dòng nước. Và hạnh phúc thay những kẻ có thể sống cả đời bên một con sông êm đềm, qua những mùa lúa chín không tiếng súng, những trưa hè có thể nép mình dưới bóng các rặng cây. Nhưng đó là chuyện cổ tích.
Lịch sử cận đại của người Việt Nam đã diễn ra trong khói bom và
tiếng nổ của đạn pháo. Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ chia cắt đến tận lòng sâu của
mỗi gia đình. Sự nhầm lẫn, cự bất khả tri không chỉ xẩy ra giữa hai nền văn hoá
Đông-Tây mà còn xẩy ra ngay giữa lòng dân tộc Việt, giữa các thành viên trong
một gia đình, một dòng họ, giữa miền Bắc và miền Nam, giữa bên thắng cuộc và
bên thua cuộc, giữa người trong nước và những người sống ngoài biên giới… Tóm
lại, những người Việt cũng bị chia cách bởi những con sông. Những con sông
thiếu vắng những cây cầu
Khoảng cách giữa người với người có thể còn dài rộng hơn sông, sâu
hơn vực thẳm, thế nên, dù trên địa hạt văn chương, tôi coi Albert Camus cao hơn
hẳn Jean Paul Sartre, tôi vẫn phải công nhận câu nói nổi tiếng của Sartre là
một nghiệm sinh có tính nhân loại, “Tha nhân là địa ngục của ta.”
Đây là kinh nghiệm của chính tôi.
Năm 1994, tôi sang Pháp lần đầu, được một nhóm “Việt kiều yêu
nước” đón tiếp. Có lẽ tên ấy được đặt ra khi nhóm này tham gia vào phong
trào chống chiến tranh và người cầm đầu nhóm ấy đã từng là phiên dịch cho ông
Lê Đức Thọ trong các hội nghị đàm phán hưu chiến ở Paris. Khoảng năm 1990, cũng
nhóm này đứng lên lấy chữ ký của Việt kiều trí thức ở Mỹ, Đức, Úc và Pháp trong
bản kiến nghị yêu cầu nhà nước và đảng cộng sản Việt Nam mở rộng dân chủ. Sau
bản kiến nghị ấy, họ bị cấm về nước một thời gian khá dài, thậm chí còn bị gọi
là “các phần tử phản động”.
Như thế, phải hiểu là giữa nhóm Việt kiều này với tôi có chung mục
đích tranh đấu cho quyền sống của người dân Việt Nam. Có lẽ cũng vì lý do ấy,
họ đón tôi, ít nhất đấy là điều tôi nghĩ. Cuộc đón tiếp diễn ra nồng nhiệt,
dường như mang mầu sắc bạn hữu. Tuy nhiên, chỉ một thời gian sau, tôi nhận thấy
giữa họ với tôi có rất nhiều điểm bất đồng, đặc biệt là sự nhìn nhận về cuộc
chiến tranh Việt-Mỹ.
Tôi tự nhủ,
“Người ta sống trên đời, thường tụ thành bè, còn bạn là thứ quý hiếm, nó còn quý hiếm hơn tình yêu vì không có bệ đỡ tình dục. Tình bạn đòi hỏi một sự cảm thông sâu sắc, những phẩm chất tương đồng, và cơ duyên để có thể cùng nhìn về một hướng, cùng đi theo một ngả. Vì lẽ đó, tình bạn không thể có được một cách dễ dãi. Không có thứ tình cảm nào không cần thử thách, cho dù là tình yêu, tình bạn hay tình đồng đội, tất thảy đều cần phải nung qua lửa mới biết vàng thau”.
Nghĩ thế, tôi chọn thái độ im lặng, lảng tránh các cuộc tranh cãi,
vì nếu không là bạn, hà tất phí nước bọt để đôi co?
Tôi biết rõ rằng, đối với nhóm Việt kiều này cuộc chiến tranh
chống Mỹ là cần thiết, là niềm kiêu hãnh, là đài vinh quang của dân tộc Việt
Nam. Đối với tôi, đó là sự nhầm lẫn lớn nhất trong lịch sử, là cuộc chiến tranh
ngu xuẩn nhất, tàn khốc nhất đã xảy ra trong một tình thế đen trắng lẫn lộn,
các khái niệm bị đánh tráo, kẻ tham gia cuộc chiến ở phía Bắc nhầm lẫn do trói
buộc bởi ngôn từ, kẻ tham chiến ở phương Nam bị cuốn vào dòng chảy của cuộc
Chiến tranh Lạnh, và cả hai bên đều bị đặt vào thế đã rồi.
Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ là bài học đau đớn nhất, nhục nhã nhất
cho dân tộc Việt Nam, mà kẻ chịu trách nhiệm không chỉ là người Mỹ mà còn là
chính những người lãnh đạo cộng sản phía Bắc. Trong cuộc chiến tranh ấy, dân
tộc Việt tự biến mình thành vật đệm giữa hai toa tầu, là đám lính đánh thuê cho
hai hệ thống tư tưởng trái chiều đang tiến hành cuộc chiến tranh Lạnh.
Trong
suốt một thập kỷ, nước Việt Nam đã thực sự biến thành cái cối xay thịt khổng lồ
nhất trong lịch sử của toàn thể loài người. Vì lẽ ấy, theo tôi, cả người thắng
lẫn người thua phải biết sám hối, và nếu muốn lật trang cho lịch sử đất nước,
trước hết kẻ thắng phải biết câm mồm lại đừng huyênh hoang nữa; còn kẻ thua
cũng phải biết câm mồm lại, thôi chửi rủa, cả hai phía không nên tiếp tục đào
bới cái thây ma lên mà ngửi.
Nếu không đủ can đảm nhìn nhận vấn đề như nó vốn thế,
họ chỉ còn là đám thú rừng bị lọt xuống một cái bẫy của lịch sử và không bao
giờ có thể nhẩy lên khỏi hố sâu.
Năm 2005, tôi trở lại Pháp.
Nhóm “Việt kiều yêu nước” chủ động mời tôi đến ăn cơm tối với họ
để trao đổi tình hình. Tôi nhận lời. Bữa cơm ấy diễn ra ở một quán ăn thuộc
quận 13. Trước khi đến Paris, tôi đã ở Turin (Ý) một tuần. Trong tuần lễ đó,
khá nhiều báo Ý đã phỏng vấn tôi và đã đăng bài tức khắc. Một trong số các bài
báo ấy, có đề tựa “Mười triệu người chết trong cuộc chiến Việt Nam”.
Trong các cuộc phỏng vấn tại Turin, tôi đã kể lại hai điều:
- Thứ nhất, khi làm người viết thuê cho các ông tướng, tôi được
nghe họ nói với nhau: Chúng ta chỉ công bố con số thật sự khi người Mỹ bồi
thường chiến tranh. Như thế, con số phía Mỹ đưa ra (khoảng 5 triệu tử vong) lẫn
con số chính quyền Việt Nam đưa ra (hai triệu rưỡi) đều là số sai sự thật.
- Thứ hai, chỉ khi đến Turin tôi mới biết lính các nước chết ra
sao và nhờ có sự so sánh ấy, tôi mới biết thân phận người lính và người dân
Việt Nam đau khổ đến mức nào. Năm 2005, cuộc chiến tranh đang xảy ra ở Iraq.
Báo mỗi ngày đều đăng tin bao nhiêu lính Mỹ, bao nhiêu lính Iraq tử vong. Nếu
con số đó chạm tới năm chục đã khiến các nhà báo làm rộn lên, chất vấn tổng
thống.
Khi số tử vong chạm đến số 100 thì sự căng thẳng trong chính trường đã
khiến Nhà Trắng điên đầu. Trong chiến tranh Việt-Mỹ, mỗi lần B52 bay qua, chỉ
hai ba phút, dân thường, thanh niên xung phong chết hai trăm, ba bốn trăm, thậm
chí nơi đông hơn sáu trăm người nhưng không có một dòng trên báo, không một câu
trên đài phát thanh. Không ai hay biết, kể cả người Việt lẫn người nước ngoài.
Tôi nói với các nhà báo Ý:
“Tới tận năm nay, gần sáu mươi tuổi tôi mới thấm thía sự khác biệt
giữa kiếp người. Nhờ đọc báo phương Tây, tôi mới biết là người Mỹ và người Iraq
chết như người, chết theo kiểu người. Chúng tôi, những người Việt Nam, chúng
tôi chết như kiến, chúng tôi chết như ruồi, chúng tôi chết như lá khô rụng, cái
chết của chúng tôi hoà lẫn bùn đen, và tan trong câm lặng.”
Vì ở Turin có những Việt kiều liên hệ chặt chẽ với nhóm “Việt kiều
yêu nước” ở Paris và gửi báo cho họ nên trong bữa cơm tối hôm ấy, tôi bắt buộc
phải bàn cãi với họ về chủ đề chiến tranh Việt-Mỹ. Tôi đã thuật lại cho họ nghe
sự tổn thất to lớn của dân tộc khi những người lãnh đạo mắc chứng vĩ cuồng. Rất
nhiều trận xảy ra khi lực lượng trinh sát thăm dò địa hình địa vật không kỹ, bộ
phận hậu cần chuẩn bị khí tài chưa đủ nhưng cấp chỉ huy ham lập thành tích nên
cứ đẩy lính ra chiến trường, kết quả là đại bại. Trong khi ở chiến trường xác
lính chết ngập suối, nước không chảy được, chim cắt chim kền kền ăn thịt no đến
mức không bay lên nổi, lệnh ở Hà Nội vẫn tiếp tục giục tấn công. May mắn là còn
có những vị tướng biết thương dân, thương lính, khóc đỏ mắt, quyết định rút
quân và làm báo cáo giả để gỡ tội.
Hồi ấy, tổng tư lệnh của cuộc chiến là Lê Duẩn, đã đưa ra khẩu hiệu:
“Dân tộc chúng ta là dân tộc anh hùng, chỉ có thắng không có thua.
Quân đội chúng ta là quân đội anh hùng, chỉ có tiến không có lùi.”
Điều đó có nghĩa: Chỉ tiến công, không phòng thủ!
“Dân tộc chúng ta là dân tộc anh hùng, chỉ có thắng không có thua.
Quân đội chúng ta là quân đội anh hùng, chỉ có tiến không có lùi.”
Điều đó có nghĩa: Chỉ tiến công, không phòng thủ!
Xưa nay, trong lịch sử ngàn năm chống ngoại xâm của dân tộc, bao
giờ chúng ta cũng lùi về rừng núi để chờ thời gian mài mòn lòng kiêu ngạo lẫn ý
chí quân địch, cũng là để khí hậu nhiệt đới khắc nghiệt quật ngã chúng, cũng là
để củng cố quân đội rồi chờ thời cơ thuận lợi mới huy động binh lính và dân
chúng tổng tấn công. Khẩu hiệu của ông Lê Duẩn đưa ra là một sự sáng tạo thuần
tuý, một ý thơ bay bổng, xuất phát từ tham vọng và lòng kiêu mạn cộng sản.
Nhưng thơ phú là thứ chỉ để ngâm ngợi khi gió mát trăng thanh, thơ mà trà trộn
với chiến tranh nó biến thành núi xương sông máu.
Đám tướng lĩnh không dám tuyên bố thẳng thừng, nhưng đều hiểu ngầm
rằng lãnh tụ của họ là một kẻ vĩ cuồng.
Nhóm “Việt kiều yêu nước” ở Paris nghe tôi nói xong thì hai nhân
vật chủ chốt phản ứng dữ dội. Ông X bảo:
- Mục tiêu biện minh cho phương pháp. Muốn thắng cuộc trong chiến
tranh thì phải chấp nhận tất cả.
Ông Y phản ứng với con số Mười triệu:
- Con số đó không thật. Ở nước Pháp chúng tôi có các biện pháp khoa học về dân số để chứng mình là con số ấy sai. Làm sao chị có thể nghe theo mấy thằng tướng ngu ấy được?
- Con số đó không thật. Ở nước Pháp chúng tôi có các biện pháp khoa học về dân số để chứng mình là con số ấy sai. Làm sao chị có thể nghe theo mấy thằng tướng ngu ấy được?
Tôi im lặng không đáp. Nhưng hôm sau, tôi có nhờ ông Phan Huy
Đường, lúc đó còn dịch sách của tôi, nói lại với ông Y:
- Nhờ Đường nói với ông bạn của Đường là về Việt Nam chớ mở mồm mà
bảo mấy ông tướng là ngu.
Bởi vì, rất nhiều hạ sĩ quan thời đó (trung uý, đại
uý, thiếu tá…) biết rõ rằng sinh mạng họ được bảo tồn là nhờ những ông tướng
thực sự thương lính và không ham thành tích như tướng Vũ Lăng. Bây giờ, nếu
không giải ngũ họ cũng đã leo lên đại tá hoặc thiếu tướng. Nếu ông Y mở mồm bảo
tướng của họ là thằng ngu hẳn họ sẽ cho một báng súng vào đầu, hiền hoà nhất họ
cũng khạc vào mặt.
Đấy là phản ứng duy nhất của tôi. Trong thâm tâm, tôi quyết định
chia tay.
Tôi nghĩ, đám người này cần cuộc chiến tranh chống Mỹ như người
đàn bà cần son phấn. Giữa họ với ta chẳng còn điều gì đáng nói. Một cuộc chia
tay vĩnh viễn là điều hợp lý hơn cả. Không cần kiệt xuất thông minh, chỉ cần
chịu khó quan sát sẽ thấy ngay rằng cộng đồng người Việt ở nước Pháp là một
cộng đồng không bản sắc, sống co cụm, một bầy thỏ ngoan ngoãn đối với chính
quyền. Họ không gây ra các vụ lộn xộn như người da đen và người Arab theo đạo
Hồi, nhưng họ cũng chẳng có tiếng nói, chẳng có một gương mặt nào trên các diễn
đàn quyền lực.
Vì bản chất nhẫn nhịn, chịu thương chịu khó nên họ thành công ở
mức trung bình, trở thành kỹ sư, bác sĩ, nha sĩ, giáo viên đã là giấc mơ tột
đỉnh. Hội nhập vào xã hội Pháp chưa lâu, sự tự tin vào bản thân chưa đủ, họ lại
bị ám ảnh bởi thân phận lớp người Việt Nam nhập cư trước họ, những người lính
thợ bị thực dân cưỡng bức rời quê hương sang Pháp phục vụ tại một số nhà máy
làm thuốc súng để thay thế cho các công nhân Pháp ra chiến trường.
Năm 1937, để dự phòng chiến tranh, bộ trưởng Bộ Thuộc Địa và Quân
Đội (ministre de la Colonie et de la Défense) Georges Mandel dự tính tuyển
80.000 người Đông Dương. Tháng 6 năm 1940 đám thanh niên Việt Nam được dẫn đến
hải cảng Pháp gồm: 10.750 người trung kỳ, 7.000 người miền Bắc, 2.000 người
miền nam. Đám lính thợ này đã bị đối xử như những con vật, bị dồn vào sống
trong những khu nhà tồi tàn, không điện và thiếu nước, không nơi vệ sinh, không
lò sưởi và thức ăn không đủ nửa khẩu phần.
Mùa đông, những kẻ khốn khổ ngủ trên
sàn, đại tiểu tiện ngay bên ngoài cửa, người nọ dẫm vào phân người kia. Đói
khát, họ phải đào rễ củ và hái rau dại về ăn. Cái sự thật tàn nhẫn này bị vùi
trong câm lặng. Cho đến đầu thế kỷ XXI, mới có vài nhà báo Pháp lên tiếng. Sau
đó, Bernard Kouchner, vốn là một ngôi sao cánh tả nhưng sau thất bại của
Ségolen Royal trong cuộc tranh cử 2007, đã nhận lời làm bộ trưởng bộ ngoại giao
cho chính phủ Sarkozy mới chính thức lên tiếng xin lỗi vì: “Nước Pháp đã đối xử
với những người lính thợ Việt Nam như đối với súc vật.”
Trong thực tiễn, nước Pháp đã đối xử với đám lính thợ Việt Nam còn
tệ hơn súc vật bởi khi cưỡng chế thanh niên Việt Nam sang Pháp, họ dồn đám
người này xuống hầm tầu còn tầng trên, thoáng mát hơn thì để dành cho… những
con bò. Cái kinh nghiệm tồi tệ ấy được cấy trong tim như một quá khứ sầu thảm,
cộng đồng người Việt không thể tránh khỏi mặc cảm của những kẻ vừa là dân nhập
cư, vừa mang nhãn hiệu “Được lôi ra từ vùng đất thuộc địa”. Thế nên, cuộc sống
tinh thần của họ dường như đột ngột khởi sắc, bừng bừng ánh sáng khi cuộc chiến
tranh Việt-Mỹ xẩy ra. Tại sao?
Dễ hiểu thôi, tinh thần „Bài Mỹ“ là chất xi-măng gắn kết một số
đông quốc gia trên thế giới, không chỉ các nước thuộc phe Xã hội chủ nghĩa
nhưng ngay cả các nước phương Tây. Hành vi của nước Mỹ không chỉ gợi lên lòng
căm thù nhưng kèm theo đó cả sự sợ hãi. Nếu có tiền lệ một nước nhược tiểu bị
Mỹ chà nát thì sẽ đến lượt các nước khác theo thành ngữ, “Không bao giờ có lần
thứ nhất, lần thứ hai mà lại không có lần thứ ba”.
Vả chăng, về mặt lý, cuộc chiến này không thể biện minh, “Không
một người Việt Nam nào mang bom sang giết người Mỹ.”
Dù cộng sản hay không cộng sản thì sự thực là không có một người
Việt Nam nào cầm dao hoặc cầm súng sang tận nước Mỹ để giết một người Mỹ, hoặc
ngay đến một con bò trong trang trại Mỹ cũng không.
Vì thế, lương tâm nước Mỹ phải thức tỉnh. Các vụ biểu tình phản
đối chiến tranh trước toà Nhà Trắng của Mỹ điệp với các cuộc biểu tình trước sứ
quán Mỹ tại các nước khác. Tiếng hát và ngọn lửa tự thiêu của trí thức Mỹ đốt
nóng cả châu Mỹ La-tinh và châu Âu.
Vào thời điểm ấy, người Việt Nam nhập cư chống chiến tranh được
hưởng một sự ưu đãi vô tiền khoáng hậu. Đi đến đâu họ cũng được thăm hỏi, giúp
đỡ, được coi là người của “một dân tộc anh hùng”. Và, trên các diễn đàn chống
chiến tranh, đại diện của “tổ chức Việt kiều yêu nước” được xuất hiện bên cạnh
những nhân vật quan trọng bản xứ mà nếu không nhờ ân sủng của cuộc chiến này,
không bao giờ họ có cơ hội và có tư thế tiếp xúc. Để ví von, có thể nói rằng:
Những con chim vốn nép mình trong bóng tối nhờ ánh đạn lửa mà được nhô đầu ra
và há mỏ cất tiếng kêu.
Thế nên, họ cần cuộc chiến tranh Việt-Mỹ.
Lòng ích kỷ, cái kiêu ngã của con người quả là vô giới hạn. Những
kẻ sống ở một phương trời, cần máu đồng bào phải đổ ở một phương trời khác để
tô điểm cho cuộc sống tinh thần của chính mình.
Chiến tranh thật đẹp khi nó được tạo bằng máu xương kẻ khác!
Từ đây, tôi nghi ngờ hai từ “yêu nước”. Phía sau danh từ này có vô
vàn tâm trạng, có vô số động cơ, hoặc xác thực, hoặc ngầm ẩn, hoặc có ý thức,
hoặc vô thức.
Danh từ nào cũng lập lờ và cũng có khả năng phản lại nghĩa chính
thống.
Như thế, giữa người Việt với người Việt cũng bị chia cách bởi
những con sông vô hình. Chắc chắn cũng còn khá lâu mới bắc được cầu qua những
con sông ấy.
Chiến tranh Việt-Mỹ đã qua, nhưng sau đó không lâu cái tên Việt
Nam lại dội lên trên các kênh thông tin quốc tế. Lần này, là một thứ ồn ào dơ
dáy.
Chẳng còn là người anh hùng bé nhỏ dám đương đầu với đế quốc Mỹ mà là tác
giả của Khổ nạn Thuyền nhân. Ở châu Âu, phái đoàn Việt Nam không còn được chào
đón bằng cờ và hoa mà bằng cà chua và trứng thối.
Tôi nhớ rằng lần đi châu Âu,
ông Võ Văn Kiệt đã hứng trọn một quả trứng thối vào giữa mặt còn đến lượt ông
Phan Văn Khải thì thoát nạn nhờ sự bố trí, dàn cảnh công phu của cảnh sát Pháp.
Sự đời vốn đổi thay như các lớp tuồng. Điều khốn khổ cho người Việt Nam là
dường như họ chỉ được biết đến trong các tình huống đau khổ. Kể từ khi làn sóng
“Thuyền nhân” dịu đi, Việt Nam gần như chẳng còn gì để nhớ.
Cứ nghe đài phương
Tây thì biết, người ta chỉ nhắc tới hai từ Việt Nam khi nhắc tới cuộc chiến
tranh Việt-Mỹ, bởi rất nhiều trí thức phương Tây, đặc biệt là các văn nghệ sĩ
đã tham gia vào phong trào chống chiến tranh và tuổi trẻ của họ gắn bó với
những kỷ niệm của một thời sôi động. Tuy nhiên, ngay cả những người kiên nhẫn
nhất và hiểu biết Việt Nam nhiều nhất cũng chưa dám quả quyết rằng họ nắm được
sự thực về cuộc chiến tranh này. Điều đó, quá khó khăn.
Một lần, một nhà văn Pháp hỏi tôi:
- Cái gì tạo nên sức mạnh của chúng mày trong cuộc chiến tranh Việt-Mỹ?
Tôi đáp:
- Một nửa là thói quen của hàng ngàn năm chống xâm lược. Nửa kia là sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân.
Anh bạn chưng hửng:
- Mày không đùa đấy chứ? Ai có thể tin nổi một thứ lý thuyết quái gở như thế.
Tôi cười:
- Rất nhiều thứ quái gở ở phương Tây lại là sự thực đơn giản ở phương Đông. Và ngược lại.
Bây giờ, tôi xin giải thích “thứ lý thuyết quái gở” này.
- Cái gì tạo nên sức mạnh của chúng mày trong cuộc chiến tranh Việt-Mỹ?
Tôi đáp:
- Một nửa là thói quen của hàng ngàn năm chống xâm lược. Nửa kia là sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân.
Anh bạn chưng hửng:
- Mày không đùa đấy chứ? Ai có thể tin nổi một thứ lý thuyết quái gở như thế.
Tôi cười:
- Rất nhiều thứ quái gở ở phương Tây lại là sự thực đơn giản ở phương Đông. Và ngược lại.
Bây giờ, tôi xin giải thích “thứ lý thuyết quái gở” này.
Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ được đảng cộng sản phát động với lời
tuyên bố: Đánh đuổi quân xâm lược Mỹ.
Năm 1964, tôi mười bẩy tuổi. Vào tuổi ấy, tất thảy thanh niên ở
miền Bắc không có quyền nghe đài nước ngoài, không có ti-vi, không có máy quay
đĩa, không có bất cứ nguồn thông tin nào ngoài báo chí cộng sản và đài phát
thanh trung ương. Lần đầu tiên, tôi được nghe những bài hát nước ngoài là năm
tôi mười sáu tuổi. Mùa hè năm 1963, anh họ tôi là phiên dịch tiếng Nga dẫn tôi
cùng đứa em trai đến nhà ông chuyên gia mỏ thiếc Tĩnh Túc ở Hà Nội.
Ông bà ấy
đón tiếp rất tử tế, ngoài việc chiêu đãi bánh ngọt và nước trà chanh, còn mở
máy quay đĩa cho chúng tôi nghe. Cảm giác của tôi lúc đó là choáng váng, như
muốn chết. Đó là cảm giác thật sự khi con người lạc vào một thế giới mà họ vừa
cảm thấy ngây ngất vừa cảm thấy như ngạt thở. Đĩa nhạc đó là của Roberto…
(không nhớ họ), một giọng ca Ý tuyệt diệu nhưng chết trẻ. Những bài hát tôi
nghe là các bài nổi tiếng cổ truyền: Ave Maria, Santa Lucia, Paloma, Sérénade,
Histoire d’amour, Besame Mucho…
Ra khỏi cửa nhà ông chuyên gia Nga nọ, tôi bước đi loạng choạng.
Lần đầu tiên, tôi hiểu rằng cuộc sống của chúng tôi là cuộc sống của những kẻ
bị nhốt dưới hầm. Những bài hát kia là một thứ ánh sáng mà lần đầu tiên tôi
được thấy. Ánh sáng đó rọi từ một thế giới khác, hoàn toàn ở bên ngoài chúng
tôi. Kể lại chuyện này, để hậu thế nhớ rằng, thời đại của chúng tôi là thời đại
của một thứ chủ nghĩa ngu dân triệt để. Một thứ chủ nghĩa ngu dân tàn bạo, nó
buộc con người sống như bầy súc vật trong một hàng rào được xây nên bằng đói
khát, hà hiếp và tối tăm.
Khi con người bị điều khiển cùng một lần bằng tiếng gào réo của dạ
dầy và cái bỏng rát của roi vọt thì họ không thể là người theo nghĩa thực sự.
Chủ nghĩa ngu dân là thứ lá chắn mắt ngựa, để con vật chỉ được quyền chạy theo
chiều mà ông chủ ra lệnh. Khi tất cả những con ngựa đều chạy theo một hướng, ắt
chúng tạo ra sức mạnh của “bầy chiến mã”, nhất là khi, trong máu chúng đã cấy
sẵn chất kích thích cổ truyền “chống xâm lăng”.
Với lũ trẻ là chúng tôi thời ấy, danh từ Xâm lăng dùng để chỉ:
quân Nguyên, quân Minh, quân Thanh, và bây giờ là quân Mỹ. Danh từ ấy đồng
nghĩa với Tô Định, Mã Viện, Thoát Hoan… Tóm lại, Mỹ là lũ giặc phương Bắc nhưng
mũi lõ, mắt xanh, tóc vàng.
Ngôn ngữ vốn là một nhà tù, mà chúng tôi không có điều kiện để
tiếp cận với các nguồn thông tin khác, các ngôn ngữ khác, nên hiển nhiên chúng
tôi là đám tù binh ngoan ngoãn sống trong nhà tù ấy, đinh ninh rằng mình ra đi
là để bảo vệ non sông.
Bởi vì, tổ tiên chúng tôi đã quen chết hàng ngàn năm để chống lại
những kẻ thù mạnh hơn họ bội phần, chúng tôi cũng sẵn sàng ra chiến trường
chống quân xâm lược Mỹ theo đúng cách thức ấy.
Đó là lý do tôi nói, “sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân”.
© Dương Thu Hương
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment