Việt Nam cần 'thoát
Trung' hay không?
VIỆT
NAM TRONG CĂNG THẲNG ĐÔNG Á DIỄN GIẢ ĐỖ THÔNG MINH (Sanjose)P1
VIỆT NAM TRONG CĂNG THẲNG
ĐÔNG Á DIỄN GIẢ ĐỖ THỔNG MINH (SanJose)p2
Người biểu tình hô khẩu
trong cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội.
Tin liên hệ
Ðường dẫn
CỠ CHỮ
25.06.2014
Nhiều nhà quan sát tình
hình Việt Nam hồi gần đây cho rằng việc Trung Quốc đặt giàn khoan gần quần đảo
Hoàng Sa đã làm tan vỡ ảo tưởng của một số người có lẽ không nhiều ở Việt Nam
về mối quan hệ “bốn tốt” với nước láng giềng khổng lồ ở phương bắc. Sự tan vỡ
đó xảy ra đồng thời với sự hình thành của một cuộc vận động tư tưởng trong giới
trí thức Việt Nam nhằm thoát khỏi sự lệ thuộc của Trung Quốc trong các lãnh vực
văn hóa, chính trị và kinh tế. Ban Việt Ngữ đài VOA đã tiếp xúc với Giáo sư
Đoàn Viết Hoạt, cựu Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, để tìm hiểu thêm về diễn
tiến đáng chú ý này. Mời quí thính giả theo dõi cuộc phỏng vấn do Duy Ái thực
hiện sau đây.
VOA: Thưa
giáo sư Đoàn Viết Hoạt, trước hết chúng tôi xin cám ơn ông đã có nhã ý dành
thời giờ cho chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn này. Và câu hỏi thứ nhất chúng
tôi xin hỏi là nội dung chính của chủ trương Thoát Trung là gì.
Đoàn Viết Hoạt: Đây
là vấn đề thời sự và đang được cả trong nước lẫn hải ngoại cũng như quốc tế
quan tâm. Xét trên vấn đề thời sự như vậy, vấn đề Thoát Trung nó khá rõ về nội
dung. Tức là, hiện nay chúng ta thấy quan hệ giữa Đảng Cộng Sản Việt Nam với
Đảng Cộng Sản Trung Quốc rất là chặt chẽ; nhất là từ khi Liên Xô và Đông Âu sụp
đổ, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã quyết định gắn chặt với Đảng Cộng Sản Trung Quốc.
Thành ra, Thoát Trung
đầu tiên là thoát ra khỏi cái sự gắn chặt đó. Cái mà bình dân người ta gọi là
“cái vòng kim cô Thành Đô.” Tôi nghĩ đấy là cái quan trọng nhất, và làm sao
Thoát Trung thì là vấn đề khác, nhưng Thoát Trung đầu tiên là phải có tư tưởng
độc lập và tìm cách ra khỏi những trói buộc mà chính Đảng Cộng Sàn Việt Nam đã
tự đặt mình vào sự trói buộc đó với Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Như vậy là thoát
về đường lối, chính sách và về tư tưởng. Và điều đó đặt đến rất nhiều về những
nội dung cụ thể về luật pháp, hành chánh và những vấn đề khác, nhất là vấn đề
kinh tế.
VOA: Thưa
giáo sư, chắc ông cũng biết là trong bài viết “Thoát Trung Luận” của ông Giáp
Văn Dương, ông ấy đã kết thúc bài viết bằng khẩu hiệu “Thoát Trung hay là
chết”. Nhưng, trong một bài viết “phản biện” bài viết đó của ông Dương, Bác sĩ
Phạm Hồng Sơn, một nhà tranh đấu dân chủ ở Hà Nội, có nói rằng “nếu nhìn ở phạm
vi ngay trước mắt thì Việt Nam cần phải xa rời Trung Quốc để hướng đến và thắt
chặt với phương Tây, nhưng nếu nhìn ở phạm vi dài hạn thì vấn đề không phải là
“Thoát Trung” hay không “Thoát Trung” mà vấn đề là đất nước phải có sự sáng
suốt, tỉnh táo để nhận ra được cần phải du nhập cái gì, tránh cái gì...Mà để có
sự sáng suốt, tỉnh táo đó thì dân chúng và đặc biệt là giới trí thức phải có
suy nghĩ độc lập, khoa học và có khả năng ảnh hưởng, tham gia vào các quyết
định liên quan đến mọi vấn đề của quốc gia, xã hội. Khi đó mọi vấn đề “thoát”
hay “nhập” với bất cứ cái gì không còn là vấn đề khó khăn, mông lung hay bế tắc
nữa.” Ngoài ra, một nhà sử học có uy tín ở Việt Nam, ông Dương Trung Quốc, mới
đây cũng nói với báo chí trong nước là Việt Nam “không cần thiết phải ‘thoát
Trung’, mà phải biết cách để sống cạnh Trung Hoa như thế nào.” Ông nghĩ sao về
các nhận định đó?
Đoàn Viết Hoạt: Tôi
có đọc cả ba bài này. Tôi chia sẻ cái nhìn của anh Phạm Hồng Sơn cũng như là
của ông Dương Trung Quốc. Tôi cũng nghĩ rằng ông Giáp Văn Dương muốn đề cập đến
vấn đề một cách thời sự trước mắt, còn hai vị kia, nhất là Bác sĩ Phạm Hồng
Sơn, nói đến cái vấn đề căn bản hơn. Tôi nghĩ rằng cũng cần phải chia sẻ với
rất nhiều người, đặc biệt là giới trí thức và những người làm chính trị, về nền
tảng lâu dài cho sự độc lập của Việt Nam. Thoát Trung chỉ là một dịp để chúng
ta thấy sự lệ thuộc của Việt Nam nói chung vào nước ngoài – trước đây là Pháp,
Mỹ rồi đến Liên Xô và giờ đây đến Trung Hoa. Thành ra, những vị có suy nghĩ lâu
dài, muốn tìm ra một giải pháp bền vững cho nền độc lập của Việt Nam thì cần
phải suy nghĩ xa hơn một chút về Thoát Trung.
Thật sự là đúng như Bác
sĩ Phạm Hồng Sơn đã nói, không phải chỉ vấn đề Thoát Trung mà chúng ta phải
thoát ra khỏi tất cả những sự lệ thuộc vào nước ngoài, nhất là vấn đề về tư
tưởng và đường lối. Thành ra việc Thoát Trung hiện nay đòi hỏi một cái lớn, đó
là Thoát Cộng; và đòi hỏi một cái lớn hơn nữa là chấp nhận một hệ thống xã hội,
chính trị như thế nào để chúng ta có thể thật sự độc lập và phát huy sức mạnh
của người dân. Đây là vấn đề mà tôi nghĩ là các vị như ông Phạm Hồng Sơn hay
ông Dương Trung Quốc muốn đề cập tới.
VOA: Thưa
giáo sư, qua những gì mà giáo sư vừa nói, chúng tôi nhận thấy dường như “Thoát
Trung” chỉ là một cái tên mới của những nỗ lực hiện đại hóa hay Tây hóa mà sĩ
phu Việt Nam đã thực hiện hay hô hào từ rất lâu. Xin ông cho biết cuộc vận động
Thoát Trung hiện nay có gì khác với những nỗ lực của trí thức Việt Nam từ Nguyễn
Lộ Trạch, Nguyễn Trường Tộ cho tới Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lý Đông A …
để hiện đại hóa Việt Nam? Và phải chăng cuộc chiến đấu của Việt Nam Cộng Hòa
chống lại quân đội Bắc Việt cũng chính là một nỗ lực Thoát Trung?
Đoàn Viết Hoạt: Nếu
chúng ta đặt vấn đề Thoát Trung không thì nó có thể là khác. Nhưng nếu ta nhìn
như là thoát ra khỏi tất cả những ảnh hưởng ngoại lai, những gì đến với đất
nước chúng ta bằng hình thức áp đặt, hay bị lệ thuộc, thì chúng ta thấy rằng nó
là một cuộc đấu tranh lâu dài của dân tộc và của đất nước, có lẽ là cả trăm năm
nay rồi. Đặc biệt là từ khi bắt đầu tiếp cận với Tây Phương qua việc người Pháp
đến và đô hộ nước ta. Cuộc đấu tranh đã bắt đầu từ đó, và nó tìm cách bắt đầu
phục hồi niềm tin vào dân tộc và tìm ra con đường phát triển dân tộc mà không
phải lệ thuộc ảnh hưởng quốc tế hay ngoại lai hay siêu cường nào, kể cả Á Đông
lẫn Âu Mỹ. Con đường đó bắt đầu từ trăm năm nay và vẫn chưa hoàn tất.
Thoát Trung, theo tôi,
là giai đoạn cuối cùng trong tiến trình này và chúng ta phải tìm cho được lời
giải đáp căn bản. Những người đi trước chúng ta mà tôi đặc biệt chú ý tới là Lý
Đông A, bởi vì ông đã nêu ra vấn đề đối với Tàu này từ năm 1943 và ông đã cảnh
giác chúng ta về “Đại Họa Hán” sẽ đến trong những thập niên mà chúng ta đang
thấy bây giờ, và ông cho đó là cái “đại địch cuối cùng” mà chúng ta phải thoát
khỏi thì may ra mới vươn mình lên được. Nhưng mà có lẽ ông còn nói hơn nữa là
tinh thần độc lập mà ông gọi là “độc lập siêu nhiên”, tức là thoát ra khỏi mọi
cái ảnh hưởng. Không có nghĩa là chúng ta cô lập, bởi vì thời đại hiện nay
chúng ta không thể cô lập được, nên phải độc lập cùng với các dân tộc khác
trong khu vực và trên toàn thế giới. Nhưng mà mình phải phát huy bản sắc của
mình. Nếu không thì mình Thoát Trung nhưng lại lệ thuộc vào Mỹ chẳng hạn; cũng
như trước đây lệ thuộc vào Liên Xô ở Miền Bắc và Miền Nam lệ thuộc vào ảnh
hưởng của Mỹ. Chúng ta cần phải thoát khỏi những cái đó để vươn mình lên, đồng
thời tổng hợp được tất cả những tinh hoa để giúp cho đất nước phát triển. Tôi
nghĩ đó là vấn đề căn bản mà nếu có thời giờ chúng ta có thể đề cập thêm.
VOA: Giáo
sư vừa nói tới lời cảnh cáo ông Lý Đông A đưa ra năm 1943 về “hiểm họa nòi
Hán”. Xin giáo sư nói rõ thêm.
Đoàn Viết Hoạt: Lý
Đông A là người có thể nói là người chưa được nhiều người biết đến. Đặc biệt là
vì những tài liệu của ông bị cấm đoán trong tất cả các chế độ, nhất là chế độ
độc tài và đặc biệt là chế độ Cộng Sản. Chưa kể rằng bản thân ông cũng như
nhiều nhà yêu nước khác như Trương Tử Anh hay Huỳnh Phú Sổ đã bị Cộng Sản giết
hoặc thủ tiêu. Những người nào đọc tài liệu của ông Lý Đông A sẽ biết ông đã
nói từ năm 1943 về tình hình thế giới hậu Đệ Nhị Thế Chiến. Ông đã tiên liệu
Nhật và Đức sẽ thua trong vòng 45, 46. Và ông nói rằng sau đó, hiểm họa hiện
nay của Anh, Mỹ là Nhật, Đức, nhưng hiểm họa, “đối địch”, sau đó là nước Nga và
sau nước Nga là nước Tàu. Và ông nói rất rõ trong những tài liệu đó và mong
rằng quí vị tìm đọc cái đó. Nhưng mà riêng về Việt Nam thì ông nói điều mà ông
gọi là “đại địch tối hậu”, tức là cuối cùng, là Tàu; Ông viết khá dài về hiểm
họa đó và ông nói rằng nó đang bộc lộ bằng chính những tuyên bố của Tưởng Giới
Thạch tại hội nghị quốc liên khi Thế Chiến Thứ Hai chưa thật sự chấm dứt. Tưởng
Giới Thạch đã đòi lại những vùng đất mà Trung Hoa cho rằng trước đây thuộc họ.
Ông Lý gọi đó là “chủ nghĩa Đại Hán mới” và chúng ta cần phải cảnh giác. Rõ
ràng là bây giờ chủ nghĩa này đang trở lại.
Việt Nam cần 'thoát Trung' hay không
- Danh
mục
- Tải
VOA: Giáo
sư nghĩ như thế nào về cuộc chiến đấu của Việt Nam Cộng Hòa chống lại quân đội
Bắc Việt trước đây? Phải chăng đó cũng là một nỗ lực Thoát Trung, thoát khỏi sự
kềm kẹp hay sự xâm lăng của Trung Quốc?
Đoàn Viết Hoạt: Tất
nhiên, trước hết là sự xâm lăng của Bắc Việt. Bởi vì Hiệp định Geneve chia đôi
đất nước không cho phép việc xâm chiếm Miền Nam bằng quân sự. Do đó, quyền bảo
vệ và tự vệ là đương nhiên. Đặc biệt là Việt Nam Cộng Hòa là nước đã bắt đầu
phát triển chế độ tự do và chế độ dân chủ. Cho nên nó hoàn toàn ngược lại chế
độ Miền Bắc. Đó là điểm thứ nhất. Điểm thứ hai là vì nó nằm trong cuộc chiến
tranh Lạnh giữa hai ý thức hệ tư bản với cộng sản quốc tế. Thứ ba là rõ ràng
lúc đó Trung Quốc hậu thuẫn cho Miền Bắc, cùng với Liên Xô, để phát triển chủ
nghĩa Cộng sản cũng như ảnh hưởng của Trung Quốc. Như chúng ta biết, Trung Quốc
có mục tiêu riêng của họ là phát triển tiếp cái Đại Hán của họ. Và vì vậy, quả
nhiên là cuộc chiến đấu của Việt Nam Cộng Hòa có nhiều mục tiêu: thứ nhất là
bảo vệ tự do dân chủ, thứ hai là chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng
Sản và thứ ba là chống lại sự bành trướng của Trung Quốc.
VOA: Cám ơn giáo sư rất nhiều. Chúng tôi rất mong có dịp hầu chuyện thêm với giáo sư về “Thoát Trung.”
VOA: Cám ơn giáo sư rất nhiều. Chúng tôi rất mong có dịp hầu chuyện thêm với giáo sư về “Thoát Trung.”
Đoàn Viết Hoạt: Cám
ơn anh.
Bán phụ nữ Việt Nam sang Trung Quốc : Thêm một báo động
DR
Trọng Thành
Hãng thông tấn AFP, ngày 25/06/2014 có bài tố cáo tệ nạn buôn phụ
nữ vùng biên giới phía bắc Việt Nam sang Trung Quốc, một thực trạng nhiều năm
nay liên tục được báo chí và giới bảo vệ nhân quyền báo động. Đường biên giới
dài hơn 1.300 km giữa Việt Nam và Trung Quốc, cũng như nhiều nước láng giềng Đông
Nam Á, là nơi hoành hành của các đường dây « buôn người ». Nạn buôn
người qua biên giới dường như vượt khỏi khả năng kiểm soát của chính
quyền Việt Nam, dù trong thời gian gần đây thực trạng nhức nhối này được chú ý
nhiều hơn.
Theo một con số thống kê
của chính quyền Việt Nam, được Unicef dẫn lại, trong 10 năm gần đây, có đến
22.000 phụ nữ và trẻ em là nạn nhân của các đường dây « buôn người »
sang Trung Quốc, do bị lừa đảo hay cưỡng ép, để ép buộc làm vợ, đưa vào nhà
chứa hay vì các mục tiêu khác. Một bộ phận lớn nạn nhân là người các dân tộc
thiểu số. Một nghiên cứu năm 2011 củaChild Exploitation and Online Protection Center, phối hợp
với đại sứ quán Anh tại Việt Nam cho thấy, trong khoảng thời gian từ 2005 đến
2009, tới 60% số người bị bán ra nước ngoài là sang Trung Quốc. Báo cáo về thực trạng buôn người
2014 mới công bố của chính phủ Hoa Kỳ, ghi nhận những nỗ lực
đáng kể của Việt Nam, nhưng tiếp tục khẳng định hiện tượng "Phụ nữ và
trẻ em Việt Nam bị bán sang các nước ở châu Á vì mục đích cưỡng ép tình dục – đặc
biệt là Trung Quốc, Cam-pu-chia, Malaysia, và Nga".
Nhiều nhà quan sát cho
rằng khó biết được chính xác con số thực tế phụ nữ bị đưa bất hợp pháp sang
Trung Quốc là bao nhiêu, vì tại nhiều vùng nghèo khó, xa xôi, nhiều trường hợp
bị bắt cóc hay bị lừa sang Trung Quốc không được ghi nhận.
Theo giới chuyên gia và
hoạt động nhân quyền, không chỉ Việt Nam, mà các phụ nữ Lào, Cam Bốt, Miến Điện
hay Bắc Triều Tiên cũng là các nạn nhân của những đường dây buôn người đưa sang
Trung Quốc, quốc gia đang ở trong tình trạng mất cân bằng dân số nghiêm trọng.
Chính sách ép buộc mỗi gia đình chỉ được có một con và hủ tục trọng nam khinh
nữ, khiến hàng triệu đàn ông Trung Quốc hiện nay không tìm được vợ, là hai
trong số những nguyên nhân chính của tệ nạn này.
Ông Michael Brosowki,
người sáng lập và chủ tịch Quỹ trẻ em Rồng Xanh (Blue Dragon Children's
Fondation), một tổ chức phi chính phủ hoạt động tại Việt Nam, các phụ nữ
Việt Nam thường bị bán sang Trung Quốc để làm vợ hay vào các động mại dâm, với
khoản tiền lên tới 5.000 euro. Kể từ năm 2007, Hiệp hội Rồng Xanh đã giải cứu 71 phụ nữ, là
nạn nhân « buôn người ». Một nỗ lực lớn nhưng ắt hẳn còn rất
nhỏ so với số lượng nạn nhân.
Trong một thời gian dài,
nạn buôn phụ nữ và trẻ em sang Trung Quốc không được chú ý thích đáng tại Việt
Nam, trong khi đó, theo ông Phil Robertson, Giám đốc khu vực Châu Á của tổ chức
Human Rights Watch : “Chính quyền Trung Quốc đã dìm vấn đề này trong im
lặng”. Theo ghi nhận của một nhà hoạt động xã hội tại Việt Nam, chính
quyền Trung Quốc rất ít hợp tác trong việc hỗ trợ tìm kiếm những người « bị
bán » sang Trung Quốc.
Nghèo đói, bần
cùng và sự lừa dối của người thân
Những lời kể của các nạn
nhân được giải cứu trở về Việt Nam cho thấy, phụ nữ đặc biệt tại các vùng hẻo lánh
thường là nạn nhân của các đường dây đưa người qua biên giới, bởi họ « thiếu
thông tin » về hiểm họa đáng sợ này. Theo các nhà hoạt động xã hội,
những kẻ mang lại tai họa cho các thiếu nữ rất thường khi là thân nhân hay bạn
bè của chính nạn nhân.
AFP đã tiếp xúc với một
số nạn nhân, trong đó có Kiab, một thiếu nữ H’mông, người vừa trở về Việt Nam,
sau khi trải qua một tháng tại nhà « chồng », cho biết chính
người anh trai đã lừa cô sang Trung Quốc để bán.
Hiện tại, rất nhiều gia
đình các khu vực miền núi phía bắc Việt Nam nơm nớp sống trong nỗi lo sợ con
gái, cháu gái trong gia đình bị bắt sang Trung Quốc.
Theo AFP, chính quyền
Việt Nam cho biết đã tiến hành nhiều chương trình giáo dục tại các vùng nông
thôn gần biên giới, để cảnh giác các em gái không nên tin vào những người lạ.
Nhiều nhà hoạt động xã hội chống nạn buôn người tại Việt Nam ghi nhận, trong
hiện tại, cảnh sát và chính quyền Việt Nam đã nhìn nhận « một cách rất
nghiêm túc » về vấn đề này.
Ông Nguyễn Tường Long,
Chi cục trưởng Chi cục Phòng chống tệ nạn xã hội Lào Cai, cho biết cuộc sống
bần cùng, tình trạng thiếu đói là hoàn cảnh của hơn mười em gái các dân tộc
thiểu số, vừa được giải cứu từ Trung Quốc, hiện đang được chăm sóc tại một
trung tâm hỗ trợ của tỉnh.
Một số nhóm xã hội chống
nạn buôn người tại Việt Nam cho rằng, thật khó mà báo động được các thiếu nữ về
các nguy cơ rình rập họ, khi như chính thân nhân và bạn bè lại thường là những
kẻ cố tình « bán » đứng con em mình hay tiếp tay cho các
đường dây buôn người. Nhiều người cho rằng cần có các trừng phạt nặng hơn đối
với thủ phạm các đường dây buôn người, thậm chí cần truy tố và xét xử ngay tại
địa phương, để nâng cao ý thức của cộng đồng.
Nạn buôn bán phụ nữ và
trẻ em rất trầm trọng tại Việt Nam, nhất là sang Trung Quốc, cần đến những
phối hợp từ nhiều phía để có thể được ngăn chặn và đẩy lùi, đặc biệt những nỗ
lực để nhận thức sâu hơn, chính xác hơn và đầy đủ hơn về thực trạng này.
|
TAGS: CHÂU Á - THEO DÒNG THỜI SỰ - VIỆT NAM - TRUNG QUỐC - HÔN NHÂN - BUÔN NGƯỜI - TỘI PHẠM - BIÊN GIỚI
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment