Việt
Nam không cần đồng minh?
Việt gian phát biểu giữa
nghị trường quốc hội
Posted by adminbasam on
01/07/2014
30-06-2014
Tống Văn Công
Cuộc họp báo sau kỳ họp thứ 7 Quốc
hội do ông Nguyễn Hạnh Phúc Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội chủ trì.
Có phóng viên
đặt câu hỏi:
- “Trong cuộc điện đàm mới đây
với ngoại trưởng Mỹ, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh có nói, Việt Nam sẵn sàng
phối hợp với Mỹ triển khai các biện pháp cụ thể nhằm tiếp tục thúc đẩy quan hệ
Việt Nam – Mỹ theo tinh thần quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước. Quan điểm
của ông thế nào?”.
Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn
Hạnh Phúc trả lời:
- “Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta
là quan hệ với tất cả các nước trên thế giới. Vừa qua, với Mỹ hay Trung Quốc
cũng thế. Sau 1975 thì quan hệ của chúng ta đã dần dần cải thiện và ngày càng
tốt đẹp. Nhưng Việt Nam cũng là một nước độc lập, không liên minh, liên kết,
đồng minh với nước nào, không dùng nước thứ ba, để chống lại nước khác. Quan
điểm này đã được công khai nhiều lần”.
Đúng là quan điểm này đã được công
khai nhiều lần, nhưng đó là ở thời đoạn mà Trung Quốc chưa đưa giàn khoan Hải
Dương 981 cắm sâu vào trong vùng đặc quyền kinh tế của nước ta, đưa hàng trăm
tàu, có cả tàu chiến, máy bay có cả máy bay quân sự ngày đêm uy hiếp tàu cảnh
sát biển và tàu cá ngư dân ta. Đó là thời đoạn chưa có chuyện Dương Khiết Trì
sang Việt Nam mà theo Hoàn Cầu thời báo là nhằm răn dạy Việt Nam, “đứa con
hoang đàng biết trở về”!
Mới đây, Trung Quốc vừa công bố bản đồ mới “10 đoạn”
bao gồm Hoàng Sa, toàn bộ Trường Sa và 80% Biển Đông. Vậy là họ chỉ còn chực
chờ thời cơ để dùng vũ lực chiếm trọn những vùng biển đảo của Việt Nam. Đó là
thủ đoạn ngàn đời của bọn bành trướng phương Bắc, từ Tàu Hoàng đế cho đến Tàu
Tưởng, Tàu Mao. Hãy nhớ: Năm 1946 lợi dụng lúc chúng ta phải đối phó với Pháp,
Tàu Tưởng chiếm đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa, đảo Ba Bình thuộc Trường Sa. Năm
1950 Tưởng thua chạy rút bỏ cả hai nơi.
Năm 1956, lợi dụng quân Pháp rút đi,
Tàu Tưởng chiếm lại Ba Bình, Tàu Mao chiếm lại Phú Lâm. Tháng 1-1974, lợi dụng
Việt Nam Cộng hòa suy yếu, Tàu Mao chiếm toàn bộ phần còn lại của Hoàng Sa. Năm
1988 lợi dụng chúng ta giúp bạn Campuchia, chúng tấn công Trường Sa giết 64 hải
quân ta, chiếm 7 đảo và bãi đá thuộc Trường Sa.
Sau thỏa hiệp Thành Đô 1990, chúng ta
cứ tưởng đã cầm chắc “16 chữ vàng” và “4 tốt” sẽ đảm bảo “Sau kiếp nạn anh
em còn đó. Trông nhau cười thù oán sạch không” (Thơ Giang Vĩnh đời Thanh.
Giang Trạch Dân đọc tặng Nguyễn Văn Linh tại Thành Đô).
Quá vui mừng, Nguyễn
Văn Linh đáp lại cả bốn câu thơ tiếng Tàu, câu thứ tư là: “Thiên tải tình
nghị hựu trùng kiến”. (Tình nghĩa ngàn năm xây dựng lại). Nào hay đã bị
chúng cho một quả lừa! Năm 2007, Trung Quốc bắt đầu bắn giết, bắt ngư dân ta
đòi tiền chuộc. Ngày 26-5-2011, một bước ngoặt mới, chúng cắt cáp tàu Bình Minh
2 của Việt Nam đang thăm dò trong vùng biển đặc quyền kinh tế của mình. Tân Hoa
Xã còn lớn tiếng: “Việt Nam láo xược xâm phạm vùng biển của Trung Quốc”. Thời
báo Hoàn Cầu dọa sẽ “lấy máu Việt Nam tế cờ cho cuộc Nam tiến”.
Phản ứng hành động láo xược của Bắc
Kinh, ngày 10 tháng 7-2011, hàng ngàn người Việt Nam, gồm các lão thành cách
mạng, trí thức, đảng viên và nhân dân trong, ngoài nước ký “Bản kiến nghị về
bảo vệ và phát triển đất nước trong tình hình hiện nay.” Đề mục thứ nhất của
Bản kiến nghị là “I- Độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ đang bị đe dọa nghiêm
trọng”. Câu kết của Đề mục là: “Việt Nam càng nhân nhượng, Trung Quốc càng lấn
tới!”.
Bản kiến nghị, đã mô tả rất rõ bộ mặt
của kẻ thù. Tiếc thay, đám mây mù ý thức hệ vẫn che mắt nhiều người. Từ đó đến
nay có thể kể không biết bao nhiêu lời hay ý đẹp của nhiều nhà lãnh đạo Việt
Nam ca tụng mối quan hệ Việt – Trung. Đáng lo nhất là từ năm 2009, mỗi năm Bộ
Quốc phòng đều cử một đoàn sĩ quan cao cấp sang học tập ở Học viện chính trị
Tây An của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
Bởi đặt hết lòng tin vào “16 chữ
vàng” và “4 tốt”, cho nên ngày 1-5-2014, khi Trung Quốc đưa giàn khoan khổng lồ
đặt xuống vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam thì chúng ta hoàn
toàn bất ngờ! Phải mất đến 5 ngày sau, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh mới
có cuộc điện đàm với Bộ Ngoại giao Trung Quốc. Mất 6 ngày sau, chiều ngày 7-5,
mới có cuộc họp báo của Bộ Ngoại giao. Từ đó đến nay, báo chí và các phương
tiện truyền thông đã có những lời vạch rõ mưu đồ xâm lược của Trung Quốc, mà
chỉ mấy tháng trước đây thôi, nếu nói như vậy đã bị coi là có tội.
Tuy vậy,
lòng dân vẫn chưa yên, bởi còn quá nhiều âu lo chưa được giải tỏa:
Phát ngôn của những người có trọng
trách rất so le nhau. Trong khi Thủ tướng nói rõ ràng, mạnh mẽ về chủ quyền bị
xâm phạm thì Bộ trưởng Quốc phòng cho rằng “trong quốc gia, hay mỗi gia đình
cũng còn có những mâu thuẫn, bất đồng huống chi là các nước láng giềng […] Việt
Nam và nước bạn Trung Quốc về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp,
chỉ còn tồn tại vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển đảo, nên đôi khi cũng có
va chạm […]”.
Người dân không khỏi đoán già đoán non: Liệu lãnh đạo
nước ta có thống nhất với nhau, thực tâm kiện Trung Quốc, hay chỉ chống đỡ
trước sự phẫn uất của nhân dân và bảo vệ tính chính danh của Đảng? Chuẩn đô đốc
Lê Kế Lâm, Chủ tịch Hội Khoa học, Kỹ thuật và Kinh tế biển TP HCM, đặt câu hỏi
với Chủ tịch nước: “Nhân dân, đặc biệt là trí thức, đặt vấn đề Đảng, Nhà
nước ta nhìn nhận quan hệ thực chất với Trung Quốc như thế nào?
Có còn là đồng
chí tốt, bạn bè tốt, láng giềng tốt, đối tác tốt nữa không? Hay đây là chiêu
bài được nêu lên nhưng thực tế họ, Trung Quốc không có cái gì tốt đối với chúng
ta cả?”. Chủ tịch nước có nhiều ý kiến tích cực khẳng định chủ quyền đất nước,
nhưng cử tri chờ đợi và bị hẫng hụt bởi ông không trả lời câu hỏi rất quan
trọng đó. Chủ tịch nước nhận định rất đúng rằng “tình hình sẽ còn gay gắt,
phức tạp hơn chỉ trừ khi nào họ nói họ từ bỏ đường chín đoạn hoặc chúng ta từ
bỏ chủ quyền – mà điều này chắc chắn không người dân Việt Nam nào chấp nhận”.
Nhưng sau đó ông lại cho rằng: “Phải kiên trì đấu tranh, năm nay không xong
thì năm tới, 10 năm này không xong thì 10 năm sau, đời ta không xong thì đến
đời con cháu”.
Thưa Chủ tịch, nói như vậy chỉ chứng tỏ được sự kiên trì,
chứ không thực tế, do đó không đem lại hi vọng và niềm tin. Ông bà chúng ta có
câu “Để lâu cứt trâu hóa bùn”. Và luật pháp quốc tế cũng thế, chúng ta chỉ còn
10 năm nữa là hết thời hiệu để kiện Trung Quốc đòi chủ quyền Hoàng Sa. Mọi
người Việt Nam đang sống phải nhận lấy trách nhiệm của thế hệ mình đúng như lời
dạy của Đức Trần NhânTôn: “Một tấc đất của tiền nhân để lại, quyết không để
lọt vào tay kẻ khác”! Chúng ta không được phép trao gánh nặng lại cho con
cháu đời sau để chúng phải bó tay, không thể giải quyết! Mới đây giáo sư Thayer
cảnh báo: “Việt Nam phải lên tiếng ngay bây giờ, nếu không sẽ mất cơ hội mãi
mãi”.
Chúng ta quá chừng mực, thậm chí e dè
khi lên án hành động gây hấn, xâm lược của Trung Quốc, trong khi đó lại muốn các
nước ASEAN, Mỹ và phương Tây phải lớn tiếng lên án Trung Quốc bênh vực Việt
Nam. Ngày 5-6, tạp chí Cộng sản đăng lại bài “Cần có sự can thiệp của Mỹ trong
tranh chấp ở Biển Đông” (năm ngày sau rút xuống). Ngày 24-6 nguyên đại sứ Việt
Nam tại EU Tôn Nữ Thị Ninh nói với hãng tin Đức DW: “EU phải hiện diện, cất
tiếng nói rõ ràng hơn, to hơn và ít nhất cũng gọi đúng tên các hành động của
Trung Quốc ở Biển Đông”.
Bị cướp vào nhà, lại bảo chúng như người trong gia
đình cũng có lúc bất hòa, nhưng lại đòi hàng xóm phải gọi chúng đúng là kẻ cướp
và đuổi chúng giùm! Không muốn làm đồng minh với bất cứ nước nào, nhưng lại
muốn các nước phải bảo vệ mình như một đồng minh! Làm được điều đó còn khó hơn
là hái sao trên trời!
Vì sao Trung Quốc chọn thời điểm
1-5-2014 đặt giàn khoan vào sâu trong vùng đặt quyền kinh tế của Việt Nam?
Trước đó không lâu, Trung Quốc gây căng thẳng với Philippines, rồi với Nhật ở
biển Hoa Đông, làm như chiến tranh sắp nổ ra ở đó. Dương Đông kích Tây và đánh
vào chỗ bất ngờ, vốn là binh pháp Tôn Tử của Tàu.
Từ lâu chúng đã xác định
hướng bành trướng là phía Nam, mấu chốt là Việt Nam. Lúc này Việt Nam đang lâm
vào khủng hoảng, nguy hiểm nhất là khủng hoảng niềm tin, và về đối ngoại cũng
là lúc cô đơn nhất. Mỹ đang bận rộn chuyện Ucraina. Mặc dù từ năm 2013, đã có
lời mời của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, nhưng đến chuyến công du tháng
4-2014 tới bốn nước châu Á, Tổng thống Obama vẫn không đến Việt Nam và Mỹ vẫn
chưa đồng ý bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.
Còn nước Nga mà Việt Nam coi
như đồng minh cũ và đặt nhiều hi vọng được che chở thì đang khẩn trương chuẩn
bị tập trận với Trung Quốc! Vậy thì Trung Quốc, đồng minh lớn nhất và duy nhất
của Việt Nam, bất ngờ chĩa mũi giáo vào Việt Nam, đâu còn phải sợ ai!
Hai tháng qua, chúng ta trấn an mình
bằng dư luận quốc tế, mà phần lớn người ta chỉ là yêu cầu hai bên giải quyết
bằng biện pháp hòa bình và theo luật pháp quốc tế. Xưa nay bọn xâm lược không
hề sợ dư luận, chúng chỉ sợ thua trận và thiệt hại kinh tế. Do đó, từ thượng cổ
tới hiện đại, phương Đông cũng như phương Tây, trong tất cả các cuộc chiến
tranh giành giật đất đai, người ta đều tìm kiếm đồng minh.
Trung Quốc đã có
những bậc thầy về tổ chức đồng minh với các chiêu “hợp tung”, “liên hoành”. Tôn
Tử, tác giả bộ binh pháp lừng danh, là người giúp vua Ngô liên minh với hai
nước nhỏ là Đường và Thái, nhờ đó chỉ với ba vạn quân, đã có thể đánh bại 25
vạn quân nước Sở. Ngày nay, dù xu thế của thế giới là hòa bình, hợp tác, nhưng
ở các vùng nóng đều có thể thấy sự tìm kiếm đồng minh. Nước ta, ngay khi đang
“một cổ hai tròng”, Việt Minh đã “gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít”
nhờ đó mà có toán “Con nai” của Mỹ nhảy dù xuống Việt Bắc huấn luyện cho quân
giải phóng của Võ Nguyên Giáp. Rồi cả hai cuộc kháng chiến, Việt Nam đều dựa
vào đồng minh để giành được chiến thắng.
Chúng ta có thể tìm thấy nhiều bài học
bổ ích trong việc chọn đồng minh của các nước láng giềng Nhật, Hàn,
Philippines. Cuối thế kỷ trước, cả ba nước này đã từng muốn nới lỏng, hoặc
thoát dần khỏi quan hệ đồng minh với Mỹ: Nhật đặt thời hạn cho Mỹ rút quân khỏi
Okinawa.
Hàn yêu cầu Mỹ có kế hoạch giảm số quân đang có mặt ở nước này. Phi
đòi lại cảng Subic và các căn cứ quân sự. Nhưng khi Trung Quốc trỗi dậy, đe dọa
với láng giềng thì lập tức cả ba nước nói trên đều nhanh chóng thay đổi quyết
sách chiến lược, ráo riết mời Mỹ gấp rút trở lại.
Do đó, Mỹ tuyên bố quần đảo
Senkaku được che chở bằng thỏa thuận quân sự giữa Washington với Tokyo. Mới
đây, Tổng thống Obama nói bất cứ nơi nào trên thế giới khi các đồng minh của
chúng ta bị đe dọa thì quân đội Mỹ buộc phải can thiệp. Tháng 4-2014 Mỹ viện
trợ cho Philippines 50 triệu USD, riêng hải quân được cho thêm 40 triệu USD và
3 tàu tuần tra lớn lớp Hamilton… Ba nước nói trên đâu có vì chọn đồng minh
chiến lược mà họ bị mất độc lập dân tộc? Phải chăng đã đến lúc chúng ta không
nên khư khư “Việt Nam không liên minh với một nước để chống nước thứ ba”? Tình
thế đang đòi hỏi: “Việt Nam cần phải tìm mọi cách để liên minh được với các
nước để chống lại kẻ nhất quyết sẽ xâm lược đất nước mình”.
Tuy nhiên chớ tưởng chỉ cần chúng ta
muốn liên minh với nước nào đó thì ắt được người ta đón nhận. Từ ngàn xưa, các
nhà chiến lược đều có tiêu chuẩn để chọn đồng minh. Tôn Tử cho rằng “chưa biết
ý đồ chiến lược của một nước thì không thể tính đến chuyện kết giao. ” Ông cho
rằng một quốc gia hùng mạnh không phải vì có một đội quân lớn mà là trước hết,
phải là quốc gia biết lấy chữ “đạo” làm đầu, tức là có “Một nền chính trị
hợp lòng dân, nhờ đó mà vua tôi đồng tâm, nhất trí”. Trần Hưng Đạo của ta
nói “Phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rể, bền gốc. Đó là thượng sách giữ
nước vậy”.
Một người biết lắng nghe và coi trọng ý kiến của những nông dân
đan giỏ, mò tôm, thuần hóa voi như với Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng thì chữ
“sức dân” của ông phải được hiểu là gồm cả tâm, trí và lực. Ngày nay, Mỹ và các
nước phương Tây đặt tiêu chuẩn cao nhất để chọn đồng minh là dân chủ và nhân
quyền. Lắm khi vì lợi ích trên bàn cờ chính trị, các nhà cầm quyền đã châm
chước khi xét tiêu chuẩn đối với các quốc gia mà họ cần lôi kéo, nhằm cô lập
đối thủ nặng ký và hung bạo.
Tuy nhiên điều ấy có thể bị nghị viện và nhân dân
nước họ phát hiện, phản đối. Quan hệ hợp tác Việt – Mỹ đã phát triển nhiều mặt,
nhưng cho đến nay, Mỹ vẫn chưa đồng ý bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, chưa
công nhận Việt Nam thực sự có nền kinh tế thị trường. Vậy mà, Foreign Policy
(Chính sách Ngoại giao), một tạp chí có tiếng của Mỹ, số ra ngày 1-2-2011 có
bài: “Các đồng minh đáng xấu hổ của Hoa Kỳ”, chỉ trích chính phủ Mỹ quá
dễ dãi đối với nhiều hành động vi phạm nhân quyền của Việt Nam! Tại sao vậy?
Bởi vì thật trớ trêu là chính sách
đối nội và đối ngoại của nước ta giống hệt Trung Quốc, bệnh trạng tham nhũng
của hai bên cũng hết sức giống nhau. Hai nước có chung một lập luận về “các thế
lực thù địch từ Mỹ và phương Tây lợi dụng dân chủ và nhân quyền âm mưu lật đổ
chế độ xã hội chủ nghĩa”. Thật ra, không hề có cái gọi là dân chủ và nhân quyền
của phương Đông, hoặc của riêng Trung Quốc và Việt Nam! Nước ta là thành viên
của Liên Hiệp Quốc.
Nhà nước ta đã cam kết thực hiện Tuyên ngôn Nhân quyền và
các Công ước của Liên Hiệp Quốc. Vấn đề là Việt Nam và Trung Quốc có cách hiểu
các điều khoản của Tuyên ngôn và các Công ước của Liên Hiệp Quốc không giống
cách hiểu của hơn 100 quốc gia khác trên thế giới. Rất dễ dàng để dẫn ra vô vàn
ví dụ về các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, lập hội, biểu
tình, bầu cử và ứng cử… Nhưng chỉ xin nêu một ví dụ về quyền tự do ngôn luận mà
theo Voltaire “[…] là nền tảng của tất cả các quyền tự do khác. Không
có tự do ngôn luận sẽ không có các quốc gia tự do”. Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị (Nhà nước Việt Nam đã ký kết gia nhập ngày 24-9-1982.
Nhà xuất bản TP HCM xuất bản năm 1997) ở Điều 19 với nội dung như sau:
“1- Mọi người đều có quyền giữ
quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp.
2- Mọi người có quyền tự do ngôn
luận. Quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại
tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng, hoặc
bằng bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua mọi phương
tiện đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ.
3- Việc thực hiện những quyền quy
định tại Khoản 2 của điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt.
Do đó có thể dẫn tới một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này
phải được pháp luật quy định và cần thiết để:
a/ Tôn trọng các quyền hoặc uy tín
của người khác;
b/ Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật
tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng”.
Hơn 100 quốc gia đều hiểu nội dung
của Điều 19 là: Mọi công dân đều có quyền phát biểu quan điểm của mình đối với
mọi học thuyết, mọi vấn đề về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục mà không bị
quy chụp, đàn áp, buộc tội. Tức là mọi người có quyền không đồng ý đối với một
hệ tư tưởng, nghị quyêt của đảng cầm quyền, chính sách của chính phủ, khi nhận
thấy nó có hại cho nhân dân, đất nước. Trong ngày nhận chức nhiệm kỳ đầu, Tổng
thống Obama nói: “Một chính quyền không phải đối mặt với một giới truyền
thông cương trực và mạnh mẽ, đó không phải lựa chọn của nước Mỹ!”.
Mọi công
dân đều có quyền tìm kiếm, nhận tin tức bao gồm những luận điểm mới, học thuyết
mới và phổ biến cho mọi người bằng mọi hình thức. Mọi công dân đều có quyền
xuất bản báo chí và báo chí chỉ trung thành với công chúng, với dân tộc, tôn
trọng sự thật, không bị kiểm duyệt, không bị buộc phải viết theo định hướng,
nghị quyết, không bị bưng bít thông tin vì lợi ích nhóm, vì lợi ích của đảng
phái, kể cả Đảng cầm quyền. (Chỉ trừ hai điểm a và b nói trên).
Nhà nước Việt Nam và Trung Quốc có
cách hiểu Điều 19 giống nhau: Mọi công dân phát biểu ý kiến không được trái với
quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng lãnh đạo. Báo chí là công cụ của Đảng
phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng lên trên hết, phải lấy nhiệm vụ tuyên
truyền, cổ vũ và tổ chức phong trào cách mạng của quần chúng thực hiện thắng
lợi nghị quyết của Đảng làm thước đo hiệu quả của báo chí. Phó Trưởng ban Tuyên
Giáo Trung ương Nguyễn Thế Kỷ nói trong cuộc hội thảo quốc gia về Đạo đức nghề
báo: “Cần tăng cường giáo dục đạo đức cho sinh viên báo chí, cho phóng viên
trẻ; nâng chất lượng đầu vào đối với sinh viên báo chí, thậm chí “phải xét cả
yếu tố nhân thân tương tự như với sinh viên vào các trướng công an, quân đội””.
(báo Tuổi Trẻ ngày 12-10-2012).
Trong dịp kỷ niệm ngày báo chí cách mạng Việt
Nam 21-6 vừa qua, suốt một tuần, đài truyền hình HTV9 của TP HCM mở đầu bằng
bài hát với điệp khúc: “Nhà báo, nhà báo Việt Nam, một lòng trung thành với
Đảng!”. Tư nhân không được phép ra báo, vì e rằng sẽ làm rối dư luận xã
hội. Ban Tuyên giáo của Đảng có trách nhiệm chỉ đạo báo chí thực hiện định
hướng tuyên truyền từng thời kỳ, việc nào cần phải nói mạnh, nói kỹ, việc nào
không nên nói, không được phép nói. Không chấp nhận có báo tư nhân.
Tình hình phát triển đất nước
hiện nay, theo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: “Động lực mà những cải cách trước
đây đã không còn đủ mạnh để thúc đẩy phát triển” và “Nguồn động lực mới
phải đến từ Đổi mới thể chế và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân”.
Đúng vậy, vấn đề là phải dám quyết tâm thực hiện, bởi không còn thì giờ để chần
chừ nữa! Nhà nghiên cứu người Pháp Valérie Niquet cho rằng Trung Quốc đang bị
suy yếu từ bên trong, cho nên cố thực hiện bành trướng để kích thích chủ nghĩa
dân tộc, hòng tìm lại tính chính đáng của Đảng Cộng sản đã bị hao mòn.
Trong
khi đó, tạp chí tình báo nổi tiếng của Anh (Jane’s Intelligence Weekly ngày
27-6-2014) lại có nhận định: “Tranh chấp Biển Đông sẽ thách thức sự ổn định
của chính phủ Việt Nam”; bởi vì: “Tính chính đáng của Đảng Cộng sản Việt
Nam là dựa vào lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc”.
Ngày nay, Đảng đang bị đứng trước một câu hỏi: “Phải chăng Đảng Cộng sản Việt
Nam không có đủ khả năng đối phó với sự xâm lược của Trung Quốc?” Trong dân
gian Việt Nam đang lan truyền hai câu có hàm ý như thế: “Đi với Tàu thì mất
nước, nhưng còn Đảng. Đi với Mỹ thì còn nước, nhưng e sẽ mất Đảng”. Phải giải
quyết dứt khoát vướng mắc tư tưởng này thì mới có thể yên lòng đổi mới thể chế,
tìm được đồng minh vì sự nghiệp chống bành trướng Bắc Kinh, bảo vệ Tổ quốc.
Nhân dân bao giờ cũng rất tinh tường và công bằng, nếu một đảng dám đặt sự tồn
vong của Tổ quốc lên trên vận mệnh của mình thì nhất định sẽ được nhân dân bảo
vệ, tin yêu.
Nhân đây xin nhắc lại, một chuyện rất đáng nhớ: Năm 2010, với
cương vị Chủ tịch ASEAN, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tới Myanmar, chuyển thông
điệp ASEAN cho các tướng lĩnh quân phiệt cầm quyền: “Mong muốn các nhà lãnh đạo
Myanmar triển khai có hiệu quả lộ trình dân chủ, vì hòa bình, hòa hợp dân tộc,
tổ chức bầu cử công bằng, dân chủ với sự tham gia của tất cả các đảng phái, qua
đó sớm ổn định để phát triển đất nước”. Các tướng lĩnh cầm quyền Myamar đã
nhanh chóng nhận thức, đó là con đường duy nhất để đưa đất nước thoát khỏi sự o
ép của Trung Quốc.
Họ không ngần ngại từ bỏ chế độ độc tài quân phiệt, đưa
những tù nhân chính trị suốt hàng chục năm đối lập như bà Aung San Suu Ky lên
địa vị đối tác, cùng ngồi với nhau bình đẳng bàn việc nước; quyết định xóa bỏ
chế độ kiểm duyệt báo chí, rồi cho xuất bản báo chí tư nhân; đặc biệt là quyết
định hủy bỏ dự án đập thủy điện của Trung Quốc 3,6 tỉ USD. Sau cải cách vĩ đại
nói trên, Myanmar được Tổng thống Obama và nhiều nguyên thủ quốc gia tới thăm,
ký kết viện trợ.
Chẳng lẽ, một Đảng vốn “không phải là
một tổ chức để làm quan phát tài. Nó làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm
cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng” mà ngày nay trước vận nước hiểm
nguy lại không thể chọn một hành động cao cả ngang tầm với các tướng lĩnh độc
tài quân phiệt Myanmar?
Ngày 30-6-2014
T. V. C.
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment