From:
Aladin Nguyen <
Subject: [ Bài mới " Tại Sao Nên Xem
To:
Date: Monday, December 31, 2012, 7:16 AM
Subject: [ Bài mới " Tại Sao Nên Xem
To:
Date: Monday, December 31, 2012, 7:16 AM
Mời qúy vị theo những
tài liệu "Những Sự Thật Không Thể Chối Bỏ của hồ chí minh và VC"
của tác gỉa Đặng Chí Hùng, một người trẻ ở miền Bắc, thuộc
dòng dõi 3 đời theo giặc hồ và VC, đã viết ra những sự thật lịch sự qúy và hiếm
này. Xin những nhà đấu tranh chống cộng chân chính (chứ
không phải...đánh trâu để lấy credit như băng đảng tay sai Mặt Trận Phở Bò
& Vịt tiềm của lãnh tụ hcm), nếu đọc thấy tài liệu này đúng đắn, chính xác
có khả tín và có gía trị, xin vui lòng phổ biến
rộng rãi khắp mọi nơi nơi trên thế giới và ở trong nước..
Đọc những sự thật
tội ác của hồ chí minh và đảng mafia VC của Đặng Chí Hùng, ta sẽ thấy rằng
"bên thắng cuộc của giặc cộng huy đức" là đồ sách tuyên truyên, rác
rưới và xảo trá ngụy ngôn mà thôi!
Mời qúy vị theo dõi bài sử liệu thứ 4 của Đặng Chí Hùng dưới đây:
Những sự thật không thể chối bỏ (phần 4)
Bán
nước trong thân phận kẻ chư hầu
Đặng Chí Hùng (Danlambao) - Ông Hồ Chí Minh có rất nhiều tội cả về cá nhân và tội với dân tộc. Trong đó, ông ta có 2 tội nặng nhất là: Bán nước và Giết người. Đó chính là 2 tội nặng nhất mà trước đến nay ít người dám đề cập và đi sâu, ngay cả trong cuốn DVD “Sự thật về Hồ Chí Minh” của linh mục Nguyễn Hữu Lễ. Trong khuôn khổ những bài viết của mình, tôi xin nêu chủ yếu về 2 tội ác này của ông Hồ.
Như trong phần 2,
và 3 tôi đã chứng minh ông Hồ là kẻ bán nước, gây ra chiến tranh phi nghĩa.
Nhưng chúng ta còn sẽ được thấy một khía cạnh khác của ông ta: Phận Chư Hầu.
Ông Hồ làm chư hầu cho chủ nghĩa cộng sản và đặc biệt làm chư hầu cho kẻ thù
của dân tộc: Trung cộng.
Trung cộng và
mưu mô bành trướng, tạo ra chư hầu
Chúng ta hẳn
không thể quên được Trung quốc chính là kẻ hàng xóm to xác nhưng rất xảo quyệt.
Trải qua hơn 4000 năm lịch sử của dân tộc chúng ta đã phải đương đầu với các
triều đại phong kiến Trung quốc xâm lăng Việt Nam. Dù là Hán, Đường, Tống hay
Nguyên… có mạnh đến đâu cũng không thể khuất phục được lòng yên nước của dân
tộc ta. Thời nào chúng ta cũng có các anh hùng hào kiệt giết giặc thù như: Lê
Lợi, Quang Trung, Trần Hưng Đạo, Hai Bà Trưng.
... Thằng nhãi
con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát
Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng
chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng
mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều
binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng
chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tám,
trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi,
trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá
tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám,
thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn…
(Trích Bình Ngô
Đại Cáo của Nguyễn Trãi)
Đó là truyền
thống đáng tự hào của dân tộc Việt Nam chúng ta, tuy nhỏ bé nhưng anh dũng,
thông minh. Tuy nhiên sau này, đất nước chúng ta lại có kẻ sẵn sàng can tâm làm
chư hầu cho giặc. Đó là ông Hồ Chí Minh.
Sau khi đảng cộng
sản Trung Quốc giành được thắng lợi. Trung cộng lại muốn nhuộm đỏ các nước đông
nam Á trong đó có Việt Nam. Chúng nuôi mộng bá vương dựa trên quan điểm về “thế
giới cộng sản” và Đại Hán bành trướng, coi mình là Trung tâm vũ trụ.
Trong cuốn sách: Sự
thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc 30 năm qua (NXB Sự Thật –
Nhà xuất bản của ban tuyên giáo đảng cộng sản Việt Nam T10/79)
(links: http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=9915.0)
có đoạn:
Đông nam châu Á
là hướng bành trướng cổ truyền trong lịch sử Trung Quốc, là khu vực mà từ lâu
những người lãnh đạo nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ước mơ thôn tính.
Trong năm 1936,
chủ tịch Mao Trạch Đông kể chuyện với nhà báo Mỹ Etga Xnâu ở Diên An về thời
trẻ của mình, đã bộc lộ ý nghĩ sau khi đọc một cuốn sách nhỏ nói đến việc Nhật
chiếm Triều Tiên và Đài Loan, việc mất “chủ quyền” Trung Hoa ở Đông Dương, Miến
Điện và nhiều nơi khác:
“Đọc xong, tôi
lấy làm thất vọng đối với tương lai đất nước tôi và tôi bắt đầu nhận thức rằng
bổn phận của mọi người là phải đóng góp cứu nước”.
Tài liệu của
Đảng cộng sản Trung Quốc do chủ tịch Mao Trạch Đông viết mang tên Cách mạng
Trung Quốc và Đảng cộng sản Trung Quốc, xuất bản năm 1939 có viết:
“Các nước đế
quốc sau khi đánh bại Trung Quốc, đã chiếm các nước phụ thuộc của Trung Quốc: Nhật
chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận. Anh chiếm
Miến Điện, Butan, Hương Cảng, Pháp chiếm An Nam…”
Cuốn sách Sơ
lược lịch sử Trung Quốc hiện đại xuất bản năm 1954 ở Bắc Kinh có bản đồ vẻ lãnh
thổ Trung Quốc bao gồm cả nhiều nước chung quanh, kể cả ở Đông nam châu Á và
vùng biển Đông.
Như vậy trong
cuốn sách này đảng cộng sản Việt Nam cũng đã phải công nhận mộng xâm lăng của
Trung cộng là không thể chối bỏ.
Ý đồ bành trướng
của những người lãnh đạo Trung Quốc đặc biệt lộ rõ ở câu nói của Mao Trạch Đông
trong cuộc hội đàm với đại biểu Đảng Lao động Việt Nam ở Vũ Hán năm 1963: “Tôi sẽ làm chủ
tịch của 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông nam châu Á”.
Cũng trong dịp
này, Mao Trạch Đông so sánh nước Thái Lan với tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc, về
diện tích thì tương đương nhưng về số dân thì tỉnh Tứ Xuyên đông gấp đôi, và
nói rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Thái Lan để ở; đối với nước Lào đất
rộng người thưa, chủ tịch Mao Trạch Đông cũng cho rằng Trung Quốc cần đưa người
xuống Lào để ở.
Mao Trạch Đông
còn khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị ban chấp hành trung ương Đảng
cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965:
“Chúng ta phải
giành cho được Đông nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến
Điện, Malayxia và Singapo… Một vùng như Đông nam châu Á rất giàu, ở đấy có
nhiều khoáng sản… xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy… Sau khi
giành được Đông nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng
ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông
Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…”
(Trích từ NXB
Sự Thật – Nhà xuất bản của ban tuyên giáo đảng cộng sản Việt Nam)
Kết luận: Kẻ thù Trung
Quốc luôn có mộng xâm lăng chúng ta từ ngàn đời. Và đến thời của đang cộng sản
Trung Quốc (Trung cộng) cái mộng bành trướng ấy càng rõ rệt hơn thể hiện qua
nghị quyết và phát biểu cũng hành động bán vũ khí để đổi lấy HS-TS với chính
phủ VNDCCH(Đã chứng minh ở 2 phần trước).
Bán nước trong
thân phận kẻ chư hầu cuồng tín
Như tôi đã nêu ở
phần đầu, Trung cộng là kẻ thù của Việt Nam. Đáng lẽ ra đảng cộng sản Việt Nam
phải hiểu điều này và làm đúng chức năng của một nhà nước vì dân tộc. Tuy nhiên
họ không làm như Trần Hưng Đạo đã từng nói với vua Nhân Tông về việc chủ hòa hay
chủ chiến với giặc "Bệ hạ nói câu ấy là lời nhân đức, nhưng Tôn miếu Xã
tắc thì sao? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin trước hết hãy chém đầu thần đi đã, rồi
sau hãy hàng!!"
Những người cộng
sản ở Việt nam đã không có thái độ kiên quyết với kẻ thù mà còn can tâm làm
thân chư hầu chính kẻ thủ của cả dân tộc. Họ sẵn sàng bán biển đảo của tổ quốc
cho giặc Tàu với mong muốn nhuộm đỏ Việt Nam, tăng cường độc tài. Nhưng đồng
thời với hành động bán nước qua công hàm 1958, họ lại còn tồi tệ hơn là bán
nước trong thân phận kẻ chư hầu cho giặc.
Bán nước là một
hành động phản bội dân tộc và hèn hạ. Nhưng can tâm làm chư hầu cho giặc đã lấy
đất đai của mình thì càng hèn hạ hơn. Chính ông Hồ và đảng cộng sản phải chịu
trách nhiệm việc này.
Ông Hồ là người
ham mê quyền lực và cuồng tín với cộng sản. Ông ta đã thần thánh và ngoan ngoãn
làm theo chỉ đạo của Trung cộng và Liên xô trong mọi hành động của mình. Ở
khuôn khổ bài này tôi chỉ xin đi sâu vào sự nhục nhã khi can tâm làm chư hầu
của ông Hồ với Trung cộng.
Nhà thơ cộng sản
Chế Lan Viên có câu nổi tiếng: “Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao” thì đủ hiểu ông
Hồ thần thánh và tuân chỉ Trung cộng thế nào. Tôi xin phân tích vào từng giai
đoạn và sự việc tại Việt Nam trong việc ông Hồ bán nước can tâm làm chư hầu cho
Trung cộng.
Đầu tiên là cuộc
Cải cách ruộng đất gây bao đau thương cho dân tộc (Tôi xin trình
bày ở bài khác).
Mục tiêu của cuộc
Cải cách này mới thực sự là một đòn thâm hiểm của ông Hồ và đảng cộng sản. Mục
tiêu quan trọng của việc phế bỏ quyền tư hữu đất đai là để giành giật khả năng
và quyền lực chính trị khỏi tay nông dân, và tập trung quyền lực chính trị đó
vào tay chế độ chuyên chính vô sản. Những người thợ và trí thức vô sản bị mất
hết quyền lực chính trị vì họ bị khống chế bởi tên chủ Cộng sản qua hệ thống hộ
khẩu và chế độ bình công chấm điểm. Họ chỉ được đủ ăn tới một mức... lúc nào
cũng còn đói, nếu họ tuân theo những quy luật do "tên chủ" Cộng sản
đề ra. Đây cũng chính là cái bài quen thuộc mà cộng sản hiện nay đang làm với
nhân dân.
Năm 1949, Mao
Trạch Đông và đảng Cộng sản chiếm được lục địa Trung Hoa, thành lập nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung cộng). Trung cộng thừa nhận chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa của Hồ Chí Minh ngày 18-1-1950. Tiếp theo, Liên Xô thừa nhận
ngày 30-1-1950. Tháng 2-1950, Hồ Chí Minh qua Bắc Kinh và Moscow xin viện trợ.
Khi gặp Hồ Chí Minh, Stalin ra lệnh cho Hồ Chí Minh phải thực hiện ngay hai
việc: thứ nhất tái công khai đảng Cộng sản và thứ hai đẩy mạnh CCRĐ theo đường
lối Cộng sản. Stalin chỉ đạo cho Hồ Chí Minh phải cử người sang Trung cộng học
tập phương pháp CCRĐ triệt để, vì lúc đó mối liên lạc Xô-Trung còn bình thường
và vì Việt Nam nằm sát biên giới Trung cộng.
Sau khi về nước,
Hồ Chí Minh liền triệu tập Đại hội lần 2 đảng Cộng sản Đông Dương tại chiến khu
rừng núi Tuyên Quang, tái công khai đảng Cộng sản dưới danh xưng mới là đảng
Lao động ngày 19-2-1951, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Trường Chinh làm tổng bí
thư. Trong đại hội này, Hồ Chí Minh đã phát biểu: “Về lý luận,
đảng Lao động Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin… lấy tư tưởng Mao Trạch Đông
làm kim chỉ nam… Tôi không có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác-Lênin”. (Hồ Chí Minh
toàn tập).
Chẳng những thế,
cũng trong Đại hội nầy, Hồ Chí Minh còn nhiều lần tuyên bố: “Ai có thể
sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể sai được”. (Nguyễn Minh
Cần, Đảng Cộng sản Việt Nam qua những biến động trong phong trào Cộng sản quốc
tế, 2001, tr. 63.)
Để tiến hành
CCRĐ, sau Đại hội 2, đảng cộng sản cử người sang Trung cộng tham dự khóa học
tập về chủ nghĩa Mác-Lênin tổ chức tại Bắc Kinh cho các đảng Cộng sản các nước
Á Châu như Indonesia, Mã Lai, Thái Lan, Pakistan, Phi Luật Tân, Nhật Bản, chính
là để học phương thức CCRĐ theo đường lối Trung cộng. Phái đoàn này trở về liền
được đảng LĐ gởi tổ chức thí điểm CCRĐ, bắt đầu phát động "giảm tô, giảm
tức" ở vài tỉnh Việt Bắc và ở Thanh Hóa.
Trong khi đó, từ
năm 1949, ban lãnh đạo cộng sản đã đưa ra phong trào "Rèn cán chỉnh
quân" trong quân đội, và "Rèn cán chỉnh cơ" về phía dân sự. “Rèn
cán chỉnh quân” là rèn luyện cán bộ, chỉnh đốn quân đội. “Rèn cán chỉnh cơ” là
rèn luyện cán bộ, chỉnh đốn cơ quan. Phong trào này không đạt được những mục
tiêu do đảng cộng sản đề ra. Ông Hồ và đảng cộng sản liền theo đường lối cứng
rắn quyết liệt của Trung cộng tổ chức phong trào "Chỉnh huấn" năm
1950.
Sự việc đầu tiên
đã gây bao đau thương cho dân tộc với con số hàng trăm nghìn người bị chết oan,
hàng triệu người còn sống trong tủi nhục. Ở đây có 2 ý, ông Hồ không chịu thấy
hoặc thấy sự thất bại trong cách mạng cải cách ở Trung cộng, vẫn cố tình đem nó
về hại dân tộc. ngoài ra, ông Hồ và đảng cộng sản không đặt lợi ích dân tộc lên
ban đầu mà chỉ tin vào những kẻ theo chủ nghĩa cộng sản cuống tín. Điều tối kỵ
với lãnh tụ chính là không đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu.
Việc thứ hai, đó là nhẫn nhục
bán nước nhưng lại làm chư hầu cho mộng ước quyền lực của mình và của Trung
cộng. Sở dĩ nói như vậy vì trong bài thứ 2 tôi đã
phân tích rõ ràng việc ông Hồ và đảng cộng sản cố tình bán đảo HS-TS để có vũ
khí gây chiến với VNCH. Hành động đó ngoài việc củng cố quyền lực cho riêng
mình, ông Hồ còn muốn chứng tỏ mình là chư hầu đắc lực cho Liên xô và Trung
cộng. Đặc biệt với kẻ thù không đội trời chung của dân tộc như Trung cộng thì
đó lại là hành động không chấp nhận được.
Trung cộng thực
chất muốn dùng con bài Việt cộng để đánh nhau với Mỹ. Trung cộng lợi dụng việc
ông Hồ cuồng tín và ham mê quyền lực để đạt 3 mục tiêu. Mục tiêu dùng người
Việt đánh Mỹ, mục tiêu thứ hai là mua thành công HS-TS và áp đặt cho Việt Nam
từ đây là chư hầu của Trung cộng. Và để đáp lại mưu đồ của Trung Cộng thì ông
Hồ sẵn sàng chấp nhận thân phận này. Trong bài trước, tôi đã
phân tích việc ông Hồ nhận được sự “giúp đỡ” về vật dụng, khí tài, chuyên gia
của Trung cộng để đánh VNCH đó là hành động “Đổi biển đảo lấy vũ khí”. Còn bây
giờ chúng ta có thể thấy thêm việc làm chư hầu cho Trung cộng nữa.
Ông Hồ tôn sùng
Trung cộng như thân phận của nước chư hầu với thiên tử. Trong bài: "Hồ Chí
Minh với Trung quốc” trên trang Vietnamnet (links: http://www.tuanvietnam.net/2010-05-14-ho-chi-minh-voi-trung-quoc) có đoạn phát
biểu của ông Hồ với quan hệ Việt-Trung: “Trong lĩnh vực này, tôn trọng vai trò và lợi
ích nước lớn của Trung Quốc trong quan hệ quốc tế với Bác không có nghĩa là
không tôn trọng lợi ích chung của phe xã hội chủ nghĩa của phong trào cộng sản
quốc tế, của nhân dân các nước khác”. Điều này cho thấy ông Hồ rất muốn coi mình như
một chư hầu của Trung cộng và cả chư hầu cho chủ nghĩa cộng sản khát máu.
Cũng trong bài
báo này, tác giả lề đảng đã tái khẳng định ông Hồ muốn “cổ vũ” cho cách mạng ở
Trung quốc- một hành động không vì lợi ích của dân tộc, chỉ mang tính chất của
cuộc cách mạng đỏ đầy đau thương:
"Trong ba
lần hoạt động dài ngày ở Trung Quốc, có lúc Bác tham gia chi đội Bát Lộ Quân
của Diệp Kiếm Anh nhưng ngay cả những lúc chuyên hoạt động vì cách mạng Việt
Nam, Bác không quên cách mạng Trung Quốc.
Bộ "Toàn
tập Hồ Chí Minh" mà tôi có trong tay được xuất bản vào những năm quan hệ
hai nước chưa bình thường và tôi biết có một số bài viết của Bác về Trung Quốc
không được đưa vào, nhưng chỉ bằng vào những bài đã được công bố trong đó, tôi
có thể mạnh dạn nói rằng ngay từ khi ở Pháp, ở Liên Xô cho đến khi hoạt động ở
Trung Quốc và về Việt Nam, khi còn là nhà cách mạng hoạt động bí mật cho đến
khi trở thành người đứng đầu một nước, Bác luôn là người nước ngoài tuyên
truyền cổ vũ nhiều nhất cho cách mạng Trung Quốc.”
Trong một cuộc
họp với Trung cộng năm 1970, ông Lê Duẩn đã nói với Mao Trạch Đông: "Tại sao chúng
tôi giữ lập trường bền bỉ chiến đấu cho một cuộc chiến kéo dài, đặc biệt trường
kỳ kháng chiến ở miền Nam? Tại sao chúng tôi dám trường kỳ kháng chiến? Chủ yếu
là vì chúng tôi phụ thuộc vào công việc của Mao Chủ tịch… Chúng tôi có thể tiếp
tục chiến đấu, đó là vì Mao Chủ tịch đã nói rằng 700 triệu người Trung Quốc
đang ủng hộ nhân dân Việt Nam một cách vững chắc”. (Trích trong
cuốn sách: War in Viet Nam – Trung tâm lưu trữ Wilson – Mỹ - Trang 23)
Ở một tài liệu
khác, cuốn “Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua” (Nhà xuất bản
Sự Thật của Đảng Cộng sản Việt Nam phát hành – tại trang 53), có đăng nguyên
văn nội dung lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam trả lời ông Đặng Tiểu Bình hồi năm
1966, như sau: "Sự nhiệt tình của một nước XHCN, với một nước XHCN khác là
xuất phát từ tinh thần quốc tế vô sản. Chúng tôi không bao giờ nghĩ nhiệt tâm
là có hại. Nếu các đồng chí nhiệt tâm giúp đỡ thì chúng tôi có thể đỡ hy sinh
2-3 triệu người... Miền Nam chúng tôi sẽ chống Mỹ đến cùng và chúng tôi vẫn giữ
vững tinh thần quốc tế vô sản".
Tuy đảng cộng sản
Việt Nam đã tiến hành cuộc chiến tranh mà họ gọi là “giải phóng miền Nam”,
nhưng thực chất việc này để phục vụ mục tiêu đưa cả thế giới cùng tiến lên Chủ
nghĩa Cộng sản, như tuyên bố của ông Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam:
“Ta
đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa
và cả nhân loại”.
Kết luận: Ông Hồ và đảng
cộng sản đã can tâm bán nước nhưng đồng thời đưa nước ta thành một dạng nô lệ
và chư hầu mới của Trung cộng.
Hậu quả của
việc bán nước trong thân phận của kẻ chư hầu
Những hậu quả của
việc bán nước và làm tay sai, chư hầu cho Trung cộng là vô cũng to lớn. Ông Hồ
với vai trò là người đứng đầu cả nước VNDCCH, là tổng bí thư của đảng CSVN đã
gây ra những đau thương khôn cùng cho dân tộc trong thời kỳ của ông ta mà còn
để lại tàn dư cho đến ngày nay trong vấn đề quan hệ với Trung cộng.
Trong vấn đề ông
Hồ rập khuôn cải cách ở Trung cộng đã gây ra hậu quả to lớn đó là số người chết
oan vô cùng nhiều.
Dựa vào tài liệu
các nước ngoài, giáo sư Lâm Thanh Liêm cho rằng số người bị giết trong cuộc
CCRĐ năm 1955-1956 ở Bắc Việt có thể lên đến từ 120,000 đến 200,000 người. (Lâm Thanh
Liêm, bđd., sđd. tt. 203-204).
Theo sách Lịch sử
Kinh tế Việt Nam 1945-2000 tập 2, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà
Nội năm 2004 (tài liệu mới của đảng cộng sản Việt Nam) cho biết: cuộc CCRĐ đợt 5
(1955-1956) được thực hiện ở 3,563 xã, có khoảng 10 triệu dân, và tổng số người
bị sát hại trong CCRĐ đợt nầy lên đến 172,008 người, trong đó có 123,266 người
(71,66%) sau nầy được xác nhận đã bị giết oan.
Như vậy dù với
con số nào thì ít nhất cũng có gần 2 trăm ngàn người bị chết oan nghiệt dưới
bàn tay của ông Hồ và đảng cộng sản. Ông Hồ và đảng cộng sản phải chịu trách
nhiệm về hành động diệt chủng theo chủ trương của Trung cộng trong thân phận
chư hầu.
Vấn đề thứ hai đó
là hàng triệu thanh niên nam bắc đã chết trong cuộc chiến tranh mà ông Hồ “đánh
cho Trung cộng”. Đó là cuộc chiến tranh phi nghĩa mà người thiệt hại chỉ là nhân
dân. Ông Hồ và đảng cộng sản Việt Nam đạt được mục đích cướp bóc và quyền lực.
Còn Trung cộng thì có đảo HS-TS và cái thế của kẻ bề trên. Chỉ xin nêu một số
những con số nho nhỏ cho thấy hậu quả của cuộc chiến tranh phi nghĩa này đã
nướng nhân dân ta thế nào. Thông tin trên wiki (Links: http://vi.wikipedia.org/wiki/Chiến_tranh_Việt_Nam):"Tùy
theo nguồn, số người Việt Nam bị thiệt mạng trong chiến tranh Việt Nam là từ 3
đến 5 triệu, hàng triệu người khác tàn tật và bị thương. Một nửa diện tích rừng
của Việt Nam bị phá hủy..."
Vấn đề thứ ba
cũng là vấn đề lớn hiện nay đó là đất đai và biển đảo của chúng ta bị Trung
cộng xâm lăng trong sự im lặng làm chư hầu của đảng cộng sản.
Như chúng ta đã
biết, việc ông Hồ và ông Đồng bán nước cho Trung cộng đổi lấy vũ khí khiến cho
chúng ta bị mất HS-TS. Sự lập lờ trong tuyên bố và im lặng trước việc Trung
cộng hoành hành trên biển, đường lưỡi bò, im lặng trong việc quốc tế hóa vấn đề
Biển đông của đảng cộng sản là minh chứng cho việc bán nước, làm chư hầu cho
giặc.
Ngày 26/5/2011 ba
chiếc tàu Trung cộng cố tình chạy vào hải phận Việt Nam trong khu vực chiếc tàu
của Công ty dầu khí Việt Nam đang làm việc, cắt đứt dây cáp mà tàu đang sử dụng,
rồi khoảng ba giờ sau mới rời hiện trường.
Theo Reuters,
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung quốc nói: "Trung Quốc phản đối việc
Việt Nam thăm dò dầu khí tại vùng biển thuộc quyền pháp lý của Trung Quốc".
"Lập trường của Trung Quốc về Biển Đông là rõ ràng và nhất quán. Chúng
tôi phản đối các hoạt động thăm dò dầu khí của Việt Nam, vì tổn hại đến lợi ích
và quyền lợi pháp lý của Trung Quốc tại Biển Đông, và vi phạm thỏa thuận
chung mà hai nước đã đạt được trên vấn đề này". Theo RFI.
Vấn đề ở đây đó
là tại sao bà Khương Du lại nói "VI PHẠM THỎA THUẬN CHUNG MÀ HAI BÊN ĐÃ
ĐẠT ĐƯỢC "?. Đó chính là thêm một bằng chứng nói về việc bán nước cho
Trung cộng của ông Hồ và đảng cộng sản trước đó. Và bây giơ thì nhân dân ta
đang bị đảng chăn dắt để trả nợ cho đảng với Trung cộng.
Ngoài ra việc mất
đất tại ải Nam Quan hay thác Bản Giốc, cũng đã minh chứng cho việc bán nước và
làm chư hầu cho Trung cộng. Trong cuốn: Vấn Đề Biên Giới Giữa Việt Nam Và
Trung Quốc (NXB Sự Thật 1979 - nhà xuất bản của đảng cộng sản Việt Nam)
Trên đoạn biên
giới đất liền cũng như ở các đoạn biên giới đi theo sông suối, tại nhiều nơi,
phía Trung Quốc đã tự tiện mở rộng xây dựng các công trình để từng bước xâm lấn
đất.
Tại khu vực mốc
53 (xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên sông Quy Thuận có thác
Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự
thật đó. Ngày 20 tháng 2 năm 1970 phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người
kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu
vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một
đập kiên cố bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã
rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong, và ngang nhiên
nhận cồn này là của Trung Quốc.
Các thị trấn Ái
Điểm (đối diện với Chi Ma, Lạng Sơn), Bình Mãng (đối diện Sóc Giang, Cao Bằng)
vốn đã nằm sát các mốc giới 43 và 114 lại ngày càng được phía Trung Quốc mở
rộng ra lấn sang đất Việt Nam từ hàng chục đến hàng trăm mét với công trình,
nhà cửa, trường học, khu phố…
Bằng cách tổ
chức lâm trường, trồng cây gây rừng, làm đường chắn lửa, đặt hệ thống điện cao
thế, điện thoại lấn vào lãnh thổ Việt Nam, Trung Quốc đã biến nhiều vùng đất
khác của Việt Nam thành đất của Trung Quốc.
Tuy nhiên trong
việc mất đất đai này chúng ta chỉ thấy ở trong những cuốn sách ít người đọc và
không được phổ biến rộng rãi. Các lãnh đạo Việt Nam luôn im lặng đến khó hiểu
hoặc tuyên bố như ông Trọng “không có gì mới” trong vấn đề với Trung
cộng. Vì sao họ không dám lên tiếng phản đối mất đất? Vì họ đã bị đảng cộng sản
và ông Hồ trói buộc vào vị thế của phận làm chư hầu cho Trung cộng nhằm giữ ghế
quyền lực độc tài. Họ phải im lặng vì không thể nói “Đảng tôi đã bán nước, Bác
Hồ đã bán nước”. Những minh chứng này càng rõ hơn khi nhà nước cho công an bắt
bớ, đạp mặt nhân dân yêu nước biểu tình chống Trung cộng. Và gần đây những bằng
chứng về boxit tây nguyên, vịnh Cam Ranh càng cho thấy Việt Nam đã dần từng
bước thực hiện con đường làm chư hầu cho Trung cộng.
Như vậy qua bài
này, bằng những tư liệu của cả lề dân, lề đảng, nước ngoài và phát biểu của ông
Hồ, ông Duẩn… chứng minh việc ông Hồ chỉ đạo đảng cộng sản bán nước, nhưng đồng
thời can tâm chấp nhận đưa dân tộc ta làm nô lệ bán công khai cho Trung cộng -
kẻ thù truyền kiếp của dân tộc. Đây là tội phản quốc không thể tha thứ.
Chỉnh sửa và hoàn
thiện: 17/06/2012
danlambaovn.blogspot.com
*
Đã đăng:
danlambaovn.blogspot.com/.../nhung-su-that-khong-choi-bo-phan-1.html
danlambaovn.blogspot.com/.../nhung-su-that-khong-choi-bo-phan-2-ho.html
danlambaovn.blogspot.com/.../nhung-su-that-khong-choi-bo-phan-3-bac. html
*
Đã đăng:
danlambaovn.blogspot.com/.../nhung-su-that-khong-choi-bo-phan-1.html
danlambaovn.blogspot.com/.../nhung-su-that-khong-choi-bo-phan-2-ho.html
danlambaovn.blogspot.com/.../nhung-su-that-khong-choi-bo-phan-3-bac. html
From: Nguyen Quang Duy <
To:
Sent: Monday, December 31, 2012 7:54 AM
Subject: [NQDuy] Bài mới " Tại Sao Nên Xem “Bên Thắng Cuộc”?"
To:
Sent: Monday, December 31, 2012 7:54 AM
Subject: [NQDuy] Bài mới " Tại Sao Nên Xem “Bên Thắng Cuộc”?"
Quý Bạn Đọc thân mến,
Bài mới xin được gởi đến quý vị
mong được phổ biến rộng rãi.
Nguyễn Quang Duy
Tại Sao Nên Xem “Bên Thắng Cuộc”?
Nguyễn Quang Duy
Hồi Tưởng 30 Tháng 4 năm 1975
Tối 29, tôi
nằm cạnh khẩu carbine lắng nghe tiếng súng từ xa vọng lại. Cha tôi một đoàn viên Nhân Dân Tự Vệ được giao khẩu súng này và cho
tôi sử dụng. Tôi thầm nghĩ nếu Việt cộng tấn công Sài Gòn tôi sẽ nổ đến viên
đạn cuối cùng.
Sáng 30,
tiếng của Tổng Thống Dương Văn Minh Tuyên Bố bàn giao chính quyền. Trong nhà,
mẹ tôi cẩn thận cuốn nhỏ lá cờ vàng dấu kỹ dưới đáy giương quần áo. Ngòai ngõ
mặc cho lời kêu gọi buông súng một đội quân hỗn hợp, dẫn đầu là một sỹ quan Dù
vẫn tiếp tục tuần tra bảo vệ cư dân.
Tối 30, mở
truyền hình xem tin tức, người xướng ngôn viên với khuôn mặt, cử chỉ và giọng
đọc đằng đằng sát khí phát đi thông báo của “chính quyền cách mạng”. Hôm sau
khuôn mặt này biến mất, những khuôn mặt mới bắt đầu xuất hiện.
Sáng 1, tôi
trà trộn vào những đòan người tiếp xúc với đòan quân Bắc Việt vào “Giải Phóng”
miền Nam.
Mồng 2, tôi trở lại ngôi trường Petrus Trương Vĩnh Ký bạn bè kháo nhau Võ văn Kiệt lấy trường tôi làm Tổng Hành Dinh. Về nhà tôi nói với cha tôi, tôi sẽ tiếp tục chiến đấu. Cha tôi cho biết tôi đã lớn có quyền quyết định cho chính mình.
Mồng 2, tôi trở lại ngôi trường Petrus Trương Vĩnh Ký bạn bè kháo nhau Võ văn Kiệt lấy trường tôi làm Tổng Hành Dinh. Về nhà tôi nói với cha tôi, tôi sẽ tiếp tục chiến đấu. Cha tôi cho biết tôi đã lớn có quyền quyết định cho chính mình.
Từ đó tôi
chưa bao giờ xem mình là người thua trận và cũng chỉ xem những người bên kia
như những “kẻ chiếm đóng”. Muốn lấy lại quốc gia cần phải hiểu giặc. Tôi tự
phát triển phương cách để đọc sách báo cộng sản. Có bài họ viết như thế nhưng
mình phải nghĩ ngược lại. Họ viết như thế này để che dấu điều gì ? Họ
viết như vầy nhưng để thông tin chuyện chi ? Tôi nhanh chóng trở một "bình
luận gia" chính trị "nói có sách mách có chứng".
Tôi yêu Sài
Gòn nơi tôi lớn khôn với hơn 7 năm sống chung với “lũ”. Tôi thấy lại hình ảnh
Sài Gòn đầy ắp trong quyển sách “Bên
Thắng Cuộc”. Tôi
đếm được 494 lần Sài Gòn được nhắc đến trong khi chỉ 118 lần tên của một người
đã chết được dùng.
Lạ thật tại sao Huy Đức lại luôn nhắc đến Sài Gòn trong tác phẩm của mình ? Sài
Gòn vẫn sống trong tôi, có phải cũng sống trong lòng Huy Đức ?
Ngay khi
xem một vài chương giới thiệu quyển sách tôi đã góp ý Huy Đức như sau: "Quyển sách đã và sẽ tạo nhiều
tranh luận, Huy Đức ráng thu thập mọi ý kiến từ mọi phía, để rút kinh nghiệm
cho quyển II. Riêng mình nhận xét quyển sách sẽ có ảnh hưởng sâu rộng tại Việt
Nam." Cái tựa đề ngạo nghễ “Bên Thắng Cuộc”, cái lý
lịch sỹ quan quân đội cộng sản, việc trích những bài báo tuyên truyền cộng sản
tự nó đã tạo nên những phê phán bình luận.
Đã có khá
nhiều nhận xét về “Bên Thắng Cuộc”, riêng tôi rất quan tâm đến lịch sử cận đại.
Tôi đã phổ biến nhiều bài viết về lịch sử, về các nhân vật lịch sử như Hòang Đế
Bảo Đại, Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Đức Thầy Hùynh Phú Sổ và Hồ Chí Minh, vì thế
tôi sẽ bình luận “Bên Thắng Cuộc” từ góc cạnh này.
Sai Lầm “Bên Thắng Cuộc”
Đầu tiên
Huy Đức đã để lại khá nhiều lỗi lầm dù nhỏ nhưng rất dễ nhận ra và rất dễ để
kiểm chứng. Lấy thí dụ, khi viết về vượt biên trại Trengganu là ở Mã Lai không
phải ở Thái Lan và tên tiếng Anh là Terengganu hay tên trại Sungai Besi Mã
Lai không phải là Sungeipesi như trong sách đã viết. Địa danh mà sai như vậy tự
nó đã giảm giá trị của quyển sách.
Thứ đến Huy
Đức đã sống và trưởng thành trong tuyên truyền cộng sản nên không thể nhận ra
những sai lầm trong mớ thông tin Huy Đức đã tổng hợp. Lấy thí dụ, Huy Đức trích
dẫn như sau: ‘Tháng 7-1946,
Hồ Chí Minh tới Fonteinebleau. Khi những người Việt Nam trong Đảng Cộng sản
Pháp giới thiệu những đảng viên người Khmer với phái đoàn Việt Nam và đề nghị
họ “đi gặp Bác Hồ”, Thiounn, người về sau là một bộ trưởng của Pol Pot, nói:
“Chúng tôi trả lời, ông ta không phải là bác của chúng tôi. Họ lại bảo, chúng
ta là anh em, các bạn nên thể hiện sự tôn trọng, nhưng chúng tôi cũng từ chối”.’
Vào tháng
7-1946, mặc dầu khi ấy Hồ chí Minh chỉ hơn Huy Đức và tôi vài tuổi, Hồ chí Minh
đã tự tạo danh từ “Cụ Hồ” cho mình. Đến những năm đầu 1950, khi “Cụ Hồ” được
triều kiến “Ông Mao”, “Ông Stalin”, để tỏ lòng sùng bái hai ”Ông” kia, “Cụ Hồ”
tự mình xuống chức “Bác Hồ”. Thậm chí câu chuyện “đi gặp Bác Hồ” ở trên
có thể chỉ là câu chuyện bịa, rồi được đưa vào sách của Ben Kiernan, 1996,
trang 10 rồi Huy Đức nói có sách mách có chứng trong “Bên Thắng Cuộc”.
Lời lên
tiếng của Thiếu tá Tiểu Đoàn phó Tiểu Đoàn 7, Thủy Quân Lục Chiến, Lê Quang Liễn là một dẫn chứng về việc ngụy
tạo thông tin:
“Thật ra toàn bộ anh em Thủy
Quân Lục Chiến (TQLC) đã bị bắt, nếu anh em chúng tôi ra hàng thì đã được hưởng
qui chế đãi ngộ hàng binh như Phạm Văn Đính và một số đồng bọn thuộc Trung Đoàn
56. Vả lại, đơn vị chúng tôi lúc đó thuộc quyền của Bộ Tư Lịnh Tiền Phương Quân
Đoàn I. Ở đây, vị Tư lịnh TQLC không có trách nhiệm nào hết. Người chịu trách
nhiệm là Trung Tướng Lâm Quang Thi mới đúng nghĩa hơn. Khi viết toàn bộ ra hàng
là điều cố tình hạ nhục anh em chúng tôi khi thất thế !!!
“Nếu ông Huy Đức biết rõ thêm
về tôi là người tù cuối cùng của Lữ Đoàn 147 TQLC ra khỏi trại tù ngày 12 tháng
2 năm 1988 sau gần 13 năm tù ngục với 4 năm 7 tháng 24 ngày bị "kiên
giam" còng tay, chân, bị đánh gảy xương sườn vì những chống đối tập thể
trong Trại tù Bình Điền, Thừa Thiên. Thì phần trích dẫn từ bài viết của tên nhà
báo Phan Xuân Huy là thiếu trách nhiệm.
“Tôi biết Phan Xuân Huy là
thành phần đối lập cơ hội với chế độ VNCH trước năm 1975 mà tôi tận trung phục
vụ. Có lẽ trong những ngày tháng đầu sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Phan Xuân
Huy-cũng như một số người nhẹ dạ - vì muốn tìm chỗ đứng an toàn trong lòng chế
độ mới bằng những bài viết, những câu nói , với những nhận thức "sâu sắc
của mình" về cái hay, cái đẹp của chế độ XHCN. Một nhà báo chân chính phải
viết cho sự thật, vì lương tâm thì đừng bao giờ gán, chụp cho những người vắng
mặt những gì vì lợi ích cho bản thân, phe nhóm. Tôi gửi đến tác giả Huy Đức
những nhận xét của tôi về phần trích dẫn trong sách và mong được hoàn chỉnh sự
chính xác cũng như trách nhiệm của người viết…”
Huy Đức đã xin lỗi, cám ơn và
hứa sẽ bổ sung khi viết lại. Chỗ láu cá của tuyên truyền cộng sản là tờ Tin
Sáng (hay Tia Sáng ?) phỏng vấn bà “LQL” (tên ông Lê Quang Liễn đựơc
viết tắt). Nếu vì một lý do gì đó ông Lê Quang Liễn không lên tiếng như thế thì
sự bịa đặt lại được Huy Đức ghi chép như một sự kiện lịch sử. Viết sử không
phải là như thế.
Trong quyển
“Bên Thắng Cuộc”, phần “Con đường Bác đi” Huy Đức đã trích dẫn tòan bộ huyền
thọai về Hồ Chí Minh và bà Nguyễn Thị Năm do Hòang Tùng dàn dựng. Nhờ một chút may mắn tôi đã
phát hiện trong tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất của tác
giả C.B. do báo Nhân Dân xuất bản năm 1955, trang 27 và 28, có bài "Địa
chủ ác ghê". Bài này nguyên thủy được đăng trên báo Nhân Dân ngày 21 tháng
7 năm 1953. Tác giả C.B. (Của Bác ?) chính là một bút hiệu của Hồ Chí Minh.
Qua bút
hiệu C.B. chính Hồ chí Minh đã đấu tố bà Nguyễn thị Năm, đấu tố hai con của bà
Năm và đấu tố những người bênh vực bà. Vụ án bà Nguyễn thị Năm đã gây chấn động
lòng người vì thế mới có huyền thọai do Hòang Tùng dàn dựng. Xin mời đọc bài
“Vai trò của Hồ Chí Minh trong Cải cách ruộng đất” đăng trên (http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=9078&rb=0401)
để nắm rõ sự việc.
Gần đây có
hai bức thư của Hồ Chí Minh gởi Stalin được phát hiện lưu trữ tại
Cục Lưu trữ Quốc gia Nga. Nội dung các bức thư là xin
được xem xét và cấp chỉ dẫn cho Chương trình Cải cách Ruộng đất của Đảng Lao
động Việt Nam. Tôi đã viết bài khác :”Huyền thoại và sự thực: Hồ Chí Minh trong
Cải cách Ruộng đất” đăng trên (http://www.danchimviet.info/03/09/2010/huy%E1%BB%81n-tho%E1%BA%A1i-va-s%E1%BB%B1-th%E1%BB%B1c-h%E1%BB%93-chi-minh-trong-c%E1%BA%A3i-cach-ru%E1%BB%99ng-d%E1%BA%A5t/)
Đáng tiếc “Bên Thắng Cuộc” chưa để mắt tới hai bài viết này.
Huy Đức
công khai nhìn nhận các bài báo cộng sản là sản phẩm tuyên truyền. Người cộng
sản trong đầu lúc nào cũng chỉ nghĩ đến tuyên truyền vì thế các các bài phỏng
vấn cũng không tránh khỏi chỉ là sản phẩm tuyên truyền. Gần đây rất nhiều tài
liệu, bài viết, hồi ký có thể phá đổ không ít các sản phẩm tuyên truyền được
tổng hợp trong tác phẩm “Bên Thắng Cuộc”.
Tôi chỉ đưa
ra một vài dẫn chứng cho thấy tổng hợp của bịa đặt, bịa đặt, huyền thọai, bịa
đặt, huyền thọai … từ các sản phẩm tuyên truyền cộng sản không phải là sách sử.
Giáo sư Sử học David Marr
Năm 1990,
bà Luật sư Ngô Bá Thành, dân biểu cộng sản, có đến
thuyết trình tại Viện Đại Học Quốc Gia Úc Đại Lợi. Buổi thuyết trình được Giáo
sư Sử học David Marr chủ tọa. Bà Thành dẻo miệng ca ngợi ông Marr. Sau khi đặt
câu hỏi với bà Thành, tôi quay qua ông Marr tuyên bố: “Sử chúng tôi sẽ do chúng tôi
viết chứ không phải là các ông”. Ông Marr trả lời đại khái như sau “Tôi
viết, rồi viết lại, rồi người khác sẽ viết lại…”
Tôi rất
thông cảm những người nghiên cứu về sử Việt cận đại như ông Marr. Tài liệu của
cộng sản vừa thiếu, lại đầy những bịa đặt và huyền thọai. Không phải là họ
không biết nhưng không sống với cộng sản khó nhận ra sự thực đằng sau các sản
phẩm tuyên truyền. Tiếc một điều khi học giả Tây Phương sử dụng nó, người mình
lại xem nó khách quan, trung thực và chuyên môn, rồi tin theo như tin kinh
điển. Bởi thế cộng sản mới mượn tay các học giả Tây Phương để chứng thực các
huyền thọai do cộng sản tạo ra. Nếu đảng Cộng sản còn thống trị thì có viết
khách quan cách mấy cũng vẫn chỉ là tuyên truyền cho cộng sản.
Nói thế
không phải là phủ nhận công lao của họ. Tôi vẫn thầm cảm ơn ông Marr vì nếu
không có ông thu thập được tập tài liệu Phát động quần chúng trong đó có bài Hồ
chí Minh đấu tố bà Nguyễn Thị Năm thì không có cơ duyên tôi phát hiện nó để phá
vỡ một huyền thọai.
Tôi vẫn cảm
ơn ông nguyễn Minh Cần, ông Hòang Tùng, ông Bùi Tín, ông Vũ Thư Hiên, ông Đoàn
Duy Thành,… đã viết về bà Nguyễn Thị Năm, tên bà đã in vào đầu tôi, để đến khi
thấy tên Nguyễn Thị Năm trên "Địa chủ ác ghê" tôi đã nhận ngay đây là
một bằng chứng tội ác của Hồ Chí Minh. Việc phá vỡ huyền thọai sẽ giúp chúng ta
viết lại sử người mình.
Khi tôi tuyên bố “Sử chúng tôi
sẽ do chúng tôi viết” tôi còn một ý nữa. Tôi tự tin sẽ có ngày đồng bào tôi
đứng lên giành lại chủ quyền dân tộc, mở một trang sử mới, viết lại trang sử cũ.
Nói thế để
thấy công việc Huy Đức đang làm “đi tìm sự thật” là một công việc vô cùng
khó khăn.
Vở Bi Hài Kịch “Bên Thắng Cuộc”
Với tôi tác
phẩm “Bên Thắng Cuộc” chỉ là một vở bi hài kịch. Các diễn viên nổi bật là giới
cầm quyền cộng sản Việt Nam. Họ theo “Con đường Bác đi” con đường bi đát Xã Hội
Chủ Nghĩa, một con đường chỉ có trong trí tưởng tượng của ông Mác, ông Lênin,
ông Stalin, ông Mao,… Rồi ông Hồ và giới cầm quyền cứ theo đó mà đi. Nó bi
thương ở chỗ khi họ thấy sai thì họ cho sửa, họ sửa rồi lại vẫn tiếp tục sai,
họ càng sửa lại càng sai, cứ thế càng ngày đất nước càng lâm vào bế tắc.
Huy Đức có
một nhận xét đáng chú ý: “…thực
sự may mắn cho người dân Campuchia khi những người được Hà Nội đưa lên nắm
quyền ở Phnom Penh, đặc biệt là Hun Sen, đã không nghe theo Hà Nội một cách mù
quáng. Khi đứng trước thời cuộc mới, họ đã biết quyết định dựa trên quyền lợi
của dân tộc mình… Ngày 18-10-1991, khi Việt Nam không còn can thiệp được vào
các quyết định của Phnom Penh, Campuchia đã sửa đổi hiến pháp theo hướng từ bỏ
chủ nghĩa xã hội: chấp nhận kinh tế thị trường tự do và hệ thống chính trị đa
đảng. Tên nước, quốc kỳ, quốc ca, ngày quốc khánh thời Sihanouk được đưa ra
dùng trở lại. Hai chữ “cách mạng” trong tên gọi Đảng Nhân dân Cách mạng
Campuchia, đảng mà Việt Nam giúp dựng lên, đã được bỏ đi…”
Nó là một
hài kịch ở chỗ giới lãnh đạo cộng sản luôn tự hào là họ đã tự giành được “độc
lập”, là đất nước luôn luôn "độc lập", nhưng cái đầu của họ, tư tưởng
của họ vướng mắc 4 chữ “Xã Hội Chủ Nghã” mà chính họ cũng không hiểu “Xã Hội
Chủ Nghiã” là giống chi chi.
Dự Đóan Quyển II
Nhân vật
chính của vở bi hài kịch là Võ Văn Kiệt. Tên ông xuất hiện nhiều nhất 175 lần.
Ông xuất hiện ngay đầu tác phẩm, bên trong tác phẩm và rồi lại xuất hiện nhiều
lần trong Phụ Lục II trước khi kết thúc quyển I. Tôi vẫn thường đọc các bài
viết của Huy Đức nên liên tưởng đến bài “Bẫy Việt Vị của Thủ Tướng”. Bài viết
cho biết “hậu duệ” Nguyễn Tấn Dũng là kết quả tuần lễ du hành Hàn Quốc của Đỗ
Mười và Võ văn Kiệt. Bởi thế bản chất của “hậu duệ” Nguyễn Tấn Dũng vừa cực
đoan như Đỗ Mười vừa táo bạo chấp nhận cải cách như Võ văn Kiệt. Nội dung Quyển
II đã được Huy Đức cho biết trước.
Có người
cho rằng Huy Đức đi giữa 2 lằn đạn. Tôi nghĩ khác Huy Đức đang đi tìm sự thật,
anh đang đi giữa lòng dân tộc để tìm một lối ra.
Là một
thành viên Khối 8406, Khối chúng tôi chủ trương đi tìm sự thật vì khi sự thật
được phơi bày là lúc chế độ cộng sản sẽ bị giải thể để Việt Nam có tự do có dân
chủ. Tôi mong được đọc bản tu sửa quyển I và chờ đợi để được bình luận quyển II.
Tại Sao Nên Đọc “Bên Thắng Cuộc” ?
Nếu ai xem
Huy Đức như một tên Việt cộng, nên xem “Bên Thắng Cuộc” để biết người biết ta,
biết mà kịp thời lên tiếng.
Nếu ai xem
Huy Đức là một tên phản động, nên xem “Bên Thắng Cuộc” vì nó là suy nghĩ của
đại đa số quần chúng Việt Nam, biết để tránh bị bánh xe lịch sử nghiền nát.
Nếu ai đang
đấu tranh cho tự do dân chủ phải xem “Bên Thắng Cuộc” để quyết tâm “Sử chúng ta
sẽ do chúng ta viết”, mở một trang sử mới, viết lại
trang sử cũ.
Nếu ai chỉ
xem mình là người bình thường rất cần xem “Bên Thắng Cuộc” để thấy chính mình
trong vở bi hài kịch “Bên Thắng Cuộc” để cùng đứng lên giành lại tự do.
Xuân năm
nay chưa phải là xuân tự do. Xuân tới khi sự thật đã phơi bày sẽ là xuân tự do
cho dân tộc. Hãy mở cửa lòng đón nhận Huy Đức người đi tìm sự thật.
Chúc Mừng
Năm Mới
Nguyễn Quang
Duy
Melbourne,
Úc Đại Lợi
26/12/2012
Vai trò của Hồ Chí Minh trong
Cải cách ruộng đất
Nguyễn Quang Duy
Cuộc Cải cách ruộng đất (CCRĐ) tại miền Bắc Việt
Nam là sự kiện có một không hai trong lịch sử Việt Nam. Sự kiện này đã dẫn đến
việc tháng 9 năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Lao động phải ra các quyết định sau: ngưng chức Tổng Bí thư của Trường Chinh,
khai trừ Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương khỏi Bộ Chính trị và loại Hồ Viết
Thắng ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương. Sau nhiều năm bị che đậy, các tài liệu,
các bài viết, các hồi ký, các tác phẩm văn học... được phổ biến trong thời gian
gần đây giúp chúng ta biết thêm sự thật về cuộc cải cách ruộng đất này.
Tuy vậy trong năm mười năm qua vai trò của Hồ Chí Minh trong CCRĐ vẫn được đặt ra với nhiều câu hỏi. Có thật ông chỉ theo lệnh của Stalin và Mao Trạch Đông? Có thật ông chỉ là thiểu số không đủ quyền lực để ảnh hưởng đến các cố vấn Trung Quốc? Có phải ông chỉ muốn tiến hành giảm tô? Có phải ông đã khóc khi biết được các tội ác do CCRĐ gây ra?… Các câu hỏi này càng lúc lại càng trở nên cấp thiết khi Đảng Cộng sản (ĐCS) không ngừng tạo những huyền thoại về Hồ Chí Minh. Vừa rồi Bộ Chính trị lại ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW "yêu cầu toàn dân học tập để nhận thức về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của lý tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Những công việc này chỉ làm xa dần con người thực của ông.
Hồ Chí Minh đã hiểu rất rõ nguyện vọng "người cày có ruộng" của nông dân Việt Nam. Khi còn ở Pháp ông có viết một số bài lên án việc chiếm hữu đất đai của thực dân Pháp và của nhà thờ Công giáo. Trong thời gian hoạt động tại Trung Hoa, ông tiếp nhận và để tâm nghiên cứu cách mạng thổ địa tại đây. Nó vừa là một phương tiện đấu tranh giai cấp, vừa để xây dựng chuyên chế vô sản. Trong một lá thư gởi các lãnh đạo Quốc tế Nông dân đề ngày 8/2/1928, ông viết: "Tôi tranh thủ thời gian viết 'những ký ức của tôi' về phong trào nông dân, chủ yếu là phong trào Hải Lục Phong, nơi có các xô-viết nông dân. Người 'anh hùng' trong 'những ký ức của tôi' chính là đồng chí Bành Bái, cựu Dân uỷ nông nghiệp của Xô-viết Quảng Châu và hiện là lãnh tụ của nông dân cách mạng." (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 265). Năm 1953 tại Hội nghị nông hội và dân vận toàn quốc, ông lại nhắc đến: "... đồng chí Bành Bái ở Trung Quốc, gia đình đồng chí là đại địa chủ, đại phong kiến, nhưng đồng chí ấy đã tổ chức và lãnh đạo nông dân đấu tranh rất quyết liệt chống địa chủ phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 357).
Năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương (tiền thân của ĐCS Việt Nam) được thành lập. Cương lĩnh của đảng này là lấy việc chống đế quốc, chống phong kiến và địa chủ, giành ruộng đất về cho nông dân làm sách lược hàng đầu. Sách lược 2 của ĐCS ghi rõ: "Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vững vào hạng dân cày nghèo, phải hết sức lãnh đạo cho dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 297). Chương trình hành động thì hướng đến việc: "Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 299). Các văn kiện thành lập ĐCS Đông Dương đều do Hồ Chí Minh, đại diện Quốc tế Cộng sản, soạn ra.
Ít tháng sau, ĐCS đã lãnh đạo nông dân nổi dậy ở nhiều nơi, đặc biệt là ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Khẩu hiệu "trí - phú - địa - hào, đào tận gốc, trốc tận rễ" được dùng làm tiêu đề cho cuộc đấu tranh mới - đấu tranh triệt tiêu giai cấp địa chủ và phong kiến. Cuộc nổi dậy đã bị Pháp đàn áp dã man. Từ đó, chia rẽ giữa các các tầng lớp nông dân ngày một trầm trọng hơn.
Năm 1945, khi nắm được chính quyền, một mặt Hồ Chí Minh và ĐCS phải lo đối đầu với Pháp, mặt khác vì đa số các đảng viên và cán bộ đều xuất thân từ các gia đình địa chủ hay phú nông, việc phát động cách mạng thổ địa đã không thể tiến hành ngay. Mãi đến năm 1949, khi ĐCS Trung Hoa đã chiếm xong lục địa, cửa hậu cần mới được khai thông. Việt Minh nhận được những viện trợ dồi dào từ Quốc tế Cộng sản, nhất là từ ĐCS Trung Hoa. Chiến trường Việt Nam ngày một thuận lợi hơn cho lực lượng Việt Minh. Khi ấy Hồ Chí Minh và ĐCS mới nghĩ đến việc tiến hành CCRĐ, mở đầu bằng việc giảm tô cho nông dân. Ngày 14/7/1949, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 78 SL quy định chủ đất phải giảm địa tô 25 phần trăm so với mức trước năm 1945.
Ngày 25/1/1953, tại Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động, Hồ Chí Minh chủ toạ, đọc báo cáo đề ra nhiệm vụ phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, đấu tranh chống giai cấp địa chủ phong kiến, tiến đến CCRĐ.
Ngay sau đó, ngày 5/2/1953, tại Hội nghị nông hội và dân vận toàn quốc, Hồ Chí Minh đã vấn an các đảng viên và cán bộ tham dự như sau: "Địa chủ cũng có đôi người làm cách mạng, nước ta như các nước khác, ta cũng có vài đồng chí, đại địa chủ mà làm cách mạng, hồi bí mật có bao nhiêu tiền của giúp cho Đảng hết, cam tâm chịu tù đày. Họ tuy là người trong giai cấp địa chủ nhưng lập trường và tư tưởng đã đứng về phe vô sản, là người của giai cấp công nhân" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 357).
Ngày 12/4/1953 Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 150 SL về Cải cách ruộng đất, tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và địa chủ phản động chia lại cho nông dân nghèo.
Ngày 14/11/1953, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương và Hội nghị toàn quốc của Đảng Lao động đã quyết định tiến hành CCRĐ.
Trong báo cáo trước Quốc hội khoá I kỳ họp lần thứ ba, ông Hồ đã phát biểu "Phương châm của cải cách ruộng đất là: phóng tay phát động quần chúng nông dân" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 509). Ông Nguyễn Văn Trấn, nguyên Đại biểu Quốc hội khoá I, đại diện Sài Gòn Chợ Lớn, giải thích "phóng tay" nghiã là "cứ việc làm mạnh thả cửa" (Nguyễn Văn Trấn, trang 266). Ông Nguyễn Minh Cần giải thích "là làm hết sức mãnh liệt, thẳng tay, không khoan nhượng, không thương xót, cho dù quá trớn, quá tả cũng không đáng sợ". Ông còn cho biết: "Ông Hồ đã dùng hình ảnh dễ hiểu: khi uốn thanh tre cong cho nó thẳng ra, phải uốn quá đi một tí và giữ lâu lâu, rồi thả tay ra thì nó mới thẳng được". Ông Nguyễn Văn Trấn than rằng "Trời ơi! Đảng của tôi đã nghe lời người ngoài, kéo khúc cây cong quá trớn. Nó bật lại giết chết bao nhiêu vạn sinh linh." (Nguyễn Văn Trấn, trang 266).
Cũng trong báo cáo trước Quốc hội này, Hồ Chí Minh đã ra chỉ tiêu: "Giai cấp địa chủ phong kiến không đầy 5 phần trăm dân số, mà chúng và thực dân chiếm hết 7 phần 10 ruộng đất..." (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 509). Chính chỉ tiêu này đã: "... giết chết bao nhiêu vạn sinh linh".
Trong thời gian tiến hành giảm tô tiến đến CCRĐ, sáu xã tại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên đã được chọn làm thí điểm. Người đầu tiên bị mang ra xử bắn là bà Nguyễn Thị Năm. Bà còn được gọi là bà Cát Hanh Long (xem Nguyễn Minh Cần). Bà là người đã che giấu và nuôi dưỡng các lãnh đạo cộng sản như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Lê Giản... trong thời gian ĐCS còn hoạt động bí mật. Hai con trai bà, ông Nguyễn Công và ông Nguyễn Hanh đều theo Việt Minh từ trước 1945. Khi CCRĐ được phát động, ông Nguyễn Công đang làm chính uỷ trung đoàn và ông Nguyễn Hanh là đại đội phó bộ đội thông tin.
Trong Hồi ký Làm người rất khó, làm người xã hội chủ nghĩa khó hơn, nguyên Phó thủ tướng CHXHCN Việt Nam, ông Đoàn Duy Thành cho biết việc bà Năm bị bắn đã làm xôn xao dư luận. Ông cho rằng việc làm này có 3 điều làm sai chính sách là: (1) Địa chủ kháng chiến được chiếu cố; (2) Địa chủ kiêm công thương được chiếu cố; (3) Địa chủ hiến ruộng được chiếu cố. Và một điều sai đạo lý là "... bắn một địa chủ là nữ, không phải là cường hào gian ác sẽ trái đạo lý thông thường của người Việt Nam". Ông viết tiếp: "Sau này khi sửa sai CCRĐ xong, tôi được nghe nhiều cán bộ cao cấp nói lại: 'Khi chuẩn bị bắn Nguyễn Thị Năm, Bác Hồ đã can thiệp và nói đại ý: ‘Chẳng lẽ CCRĐ không tìm được một tên địa chủ, cường hào gian ác là nam giới mà mở đầu đã phải bắn một phụ nữ địa chủ hay sao?’ Nhưng cán bộ thừa hành báo cáo là đã hỏi cố vấn Trung Quốc và được trả lời là: 'Hổ đực hay hổ cái, đều ăn thịt người cả!'. Thế là đem hành hình Nguyễn Thị Năm!"
Trong hồi ký Những kỷ niệm về Bác Hồ, nguyên Tổng biên tập báo Nhân Dân, ông Hoàng Tùng cho biết: "Chọn địa chủ Nguyễn Thị Năm để làm trước là do có người mách cho cố vấn Trung Quốc. Họp Bộ Chính trị Bác nói: 'Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào một người đàn bà, mà người ấy lại cũng giúp đỡ cho cách mạng, người Pháp nói không nên đánh vào đàn bà, dù chỉ là đánh bằng một cành hoa.' Sau cố vấn Trung Quốc là Lê Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: 'Tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là không phải.' Và họ cứ thế làm".
Trong hồi ký Mặt thật, nguyên Phó tổng biên tập báo Nhân Dân, nhà báo Thành Tín (Bùi Tín) đã kể rằng theo lập luận của đội CCRĐ thì "Việc con mụ Năm đã làm chỉ là giả dối nhằm chui sâu, leo cao vào hàng ngũ cách mạng để phá hoại. Bản chất của giai cấp địa chủ là rất ngoan cố xảo quyệt và tàn bạo, chúng không từ thủ đoạn nào để chống phá cách mạng. Nông dân phải luôn luôn sáng suốt dù chúng giở thủ đoạn nào." Thành Tín cũng viết "Ông Hoàng Quốc Việt kể lại rằng hồi ấy ông chạy về Hà Nội, báo cáo việc hệ trọng này với ông Hồ Chí Minh.
Tuy vậy trong năm mười năm qua vai trò của Hồ Chí Minh trong CCRĐ vẫn được đặt ra với nhiều câu hỏi. Có thật ông chỉ theo lệnh của Stalin và Mao Trạch Đông? Có thật ông chỉ là thiểu số không đủ quyền lực để ảnh hưởng đến các cố vấn Trung Quốc? Có phải ông chỉ muốn tiến hành giảm tô? Có phải ông đã khóc khi biết được các tội ác do CCRĐ gây ra?… Các câu hỏi này càng lúc lại càng trở nên cấp thiết khi Đảng Cộng sản (ĐCS) không ngừng tạo những huyền thoại về Hồ Chí Minh. Vừa rồi Bộ Chính trị lại ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW "yêu cầu toàn dân học tập để nhận thức về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của lý tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Những công việc này chỉ làm xa dần con người thực của ông.
Hồ Chí Minh đã hiểu rất rõ nguyện vọng "người cày có ruộng" của nông dân Việt Nam. Khi còn ở Pháp ông có viết một số bài lên án việc chiếm hữu đất đai của thực dân Pháp và của nhà thờ Công giáo. Trong thời gian hoạt động tại Trung Hoa, ông tiếp nhận và để tâm nghiên cứu cách mạng thổ địa tại đây. Nó vừa là một phương tiện đấu tranh giai cấp, vừa để xây dựng chuyên chế vô sản. Trong một lá thư gởi các lãnh đạo Quốc tế Nông dân đề ngày 8/2/1928, ông viết: "Tôi tranh thủ thời gian viết 'những ký ức của tôi' về phong trào nông dân, chủ yếu là phong trào Hải Lục Phong, nơi có các xô-viết nông dân. Người 'anh hùng' trong 'những ký ức của tôi' chính là đồng chí Bành Bái, cựu Dân uỷ nông nghiệp của Xô-viết Quảng Châu và hiện là lãnh tụ của nông dân cách mạng." (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 265). Năm 1953 tại Hội nghị nông hội và dân vận toàn quốc, ông lại nhắc đến: "... đồng chí Bành Bái ở Trung Quốc, gia đình đồng chí là đại địa chủ, đại phong kiến, nhưng đồng chí ấy đã tổ chức và lãnh đạo nông dân đấu tranh rất quyết liệt chống địa chủ phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 357).
Năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương (tiền thân của ĐCS Việt Nam) được thành lập. Cương lĩnh của đảng này là lấy việc chống đế quốc, chống phong kiến và địa chủ, giành ruộng đất về cho nông dân làm sách lược hàng đầu. Sách lược 2 của ĐCS ghi rõ: "Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vững vào hạng dân cày nghèo, phải hết sức lãnh đạo cho dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 297). Chương trình hành động thì hướng đến việc: "Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 299). Các văn kiện thành lập ĐCS Đông Dương đều do Hồ Chí Minh, đại diện Quốc tế Cộng sản, soạn ra.
Ít tháng sau, ĐCS đã lãnh đạo nông dân nổi dậy ở nhiều nơi, đặc biệt là ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Khẩu hiệu "trí - phú - địa - hào, đào tận gốc, trốc tận rễ" được dùng làm tiêu đề cho cuộc đấu tranh mới - đấu tranh triệt tiêu giai cấp địa chủ và phong kiến. Cuộc nổi dậy đã bị Pháp đàn áp dã man. Từ đó, chia rẽ giữa các các tầng lớp nông dân ngày một trầm trọng hơn.
Năm 1945, khi nắm được chính quyền, một mặt Hồ Chí Minh và ĐCS phải lo đối đầu với Pháp, mặt khác vì đa số các đảng viên và cán bộ đều xuất thân từ các gia đình địa chủ hay phú nông, việc phát động cách mạng thổ địa đã không thể tiến hành ngay. Mãi đến năm 1949, khi ĐCS Trung Hoa đã chiếm xong lục địa, cửa hậu cần mới được khai thông. Việt Minh nhận được những viện trợ dồi dào từ Quốc tế Cộng sản, nhất là từ ĐCS Trung Hoa. Chiến trường Việt Nam ngày một thuận lợi hơn cho lực lượng Việt Minh. Khi ấy Hồ Chí Minh và ĐCS mới nghĩ đến việc tiến hành CCRĐ, mở đầu bằng việc giảm tô cho nông dân. Ngày 14/7/1949, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 78 SL quy định chủ đất phải giảm địa tô 25 phần trăm so với mức trước năm 1945.
Ngày 25/1/1953, tại Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động, Hồ Chí Minh chủ toạ, đọc báo cáo đề ra nhiệm vụ phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, đấu tranh chống giai cấp địa chủ phong kiến, tiến đến CCRĐ.
Ngay sau đó, ngày 5/2/1953, tại Hội nghị nông hội và dân vận toàn quốc, Hồ Chí Minh đã vấn an các đảng viên và cán bộ tham dự như sau: "Địa chủ cũng có đôi người làm cách mạng, nước ta như các nước khác, ta cũng có vài đồng chí, đại địa chủ mà làm cách mạng, hồi bí mật có bao nhiêu tiền của giúp cho Đảng hết, cam tâm chịu tù đày. Họ tuy là người trong giai cấp địa chủ nhưng lập trường và tư tưởng đã đứng về phe vô sản, là người của giai cấp công nhân" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 357).
Ngày 12/4/1953 Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 150 SL về Cải cách ruộng đất, tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và địa chủ phản động chia lại cho nông dân nghèo.
Ngày 14/11/1953, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương và Hội nghị toàn quốc của Đảng Lao động đã quyết định tiến hành CCRĐ.
Trong báo cáo trước Quốc hội khoá I kỳ họp lần thứ ba, ông Hồ đã phát biểu "Phương châm của cải cách ruộng đất là: phóng tay phát động quần chúng nông dân" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 509). Ông Nguyễn Văn Trấn, nguyên Đại biểu Quốc hội khoá I, đại diện Sài Gòn Chợ Lớn, giải thích "phóng tay" nghiã là "cứ việc làm mạnh thả cửa" (Nguyễn Văn Trấn, trang 266). Ông Nguyễn Minh Cần giải thích "là làm hết sức mãnh liệt, thẳng tay, không khoan nhượng, không thương xót, cho dù quá trớn, quá tả cũng không đáng sợ". Ông còn cho biết: "Ông Hồ đã dùng hình ảnh dễ hiểu: khi uốn thanh tre cong cho nó thẳng ra, phải uốn quá đi một tí và giữ lâu lâu, rồi thả tay ra thì nó mới thẳng được". Ông Nguyễn Văn Trấn than rằng "Trời ơi! Đảng của tôi đã nghe lời người ngoài, kéo khúc cây cong quá trớn. Nó bật lại giết chết bao nhiêu vạn sinh linh." (Nguyễn Văn Trấn, trang 266).
Cũng trong báo cáo trước Quốc hội này, Hồ Chí Minh đã ra chỉ tiêu: "Giai cấp địa chủ phong kiến không đầy 5 phần trăm dân số, mà chúng và thực dân chiếm hết 7 phần 10 ruộng đất..." (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 509). Chính chỉ tiêu này đã: "... giết chết bao nhiêu vạn sinh linh".
Trong thời gian tiến hành giảm tô tiến đến CCRĐ, sáu xã tại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên đã được chọn làm thí điểm. Người đầu tiên bị mang ra xử bắn là bà Nguyễn Thị Năm. Bà còn được gọi là bà Cát Hanh Long (xem Nguyễn Minh Cần). Bà là người đã che giấu và nuôi dưỡng các lãnh đạo cộng sản như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Lê Giản... trong thời gian ĐCS còn hoạt động bí mật. Hai con trai bà, ông Nguyễn Công và ông Nguyễn Hanh đều theo Việt Minh từ trước 1945. Khi CCRĐ được phát động, ông Nguyễn Công đang làm chính uỷ trung đoàn và ông Nguyễn Hanh là đại đội phó bộ đội thông tin.
Trong Hồi ký Làm người rất khó, làm người xã hội chủ nghĩa khó hơn, nguyên Phó thủ tướng CHXHCN Việt Nam, ông Đoàn Duy Thành cho biết việc bà Năm bị bắn đã làm xôn xao dư luận. Ông cho rằng việc làm này có 3 điều làm sai chính sách là: (1) Địa chủ kháng chiến được chiếu cố; (2) Địa chủ kiêm công thương được chiếu cố; (3) Địa chủ hiến ruộng được chiếu cố. Và một điều sai đạo lý là "... bắn một địa chủ là nữ, không phải là cường hào gian ác sẽ trái đạo lý thông thường của người Việt Nam". Ông viết tiếp: "Sau này khi sửa sai CCRĐ xong, tôi được nghe nhiều cán bộ cao cấp nói lại: 'Khi chuẩn bị bắn Nguyễn Thị Năm, Bác Hồ đã can thiệp và nói đại ý: ‘Chẳng lẽ CCRĐ không tìm được một tên địa chủ, cường hào gian ác là nam giới mà mở đầu đã phải bắn một phụ nữ địa chủ hay sao?’ Nhưng cán bộ thừa hành báo cáo là đã hỏi cố vấn Trung Quốc và được trả lời là: 'Hổ đực hay hổ cái, đều ăn thịt người cả!'. Thế là đem hành hình Nguyễn Thị Năm!"
Trong hồi ký Những kỷ niệm về Bác Hồ, nguyên Tổng biên tập báo Nhân Dân, ông Hoàng Tùng cho biết: "Chọn địa chủ Nguyễn Thị Năm để làm trước là do có người mách cho cố vấn Trung Quốc. Họp Bộ Chính trị Bác nói: 'Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào một người đàn bà, mà người ấy lại cũng giúp đỡ cho cách mạng, người Pháp nói không nên đánh vào đàn bà, dù chỉ là đánh bằng một cành hoa.' Sau cố vấn Trung Quốc là Lê Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: 'Tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là không phải.' Và họ cứ thế làm".
Trong hồi ký Mặt thật, nguyên Phó tổng biên tập báo Nhân Dân, nhà báo Thành Tín (Bùi Tín) đã kể rằng theo lập luận của đội CCRĐ thì "Việc con mụ Năm đã làm chỉ là giả dối nhằm chui sâu, leo cao vào hàng ngũ cách mạng để phá hoại. Bản chất của giai cấp địa chủ là rất ngoan cố xảo quyệt và tàn bạo, chúng không từ thủ đoạn nào để chống phá cách mạng. Nông dân phải luôn luôn sáng suốt dù chúng giở thủ đoạn nào." Thành Tín cũng viết "Ông Hoàng Quốc Việt kể lại rằng hồi ấy ông chạy về Hà Nội, báo cáo việc hệ trọng này với ông Hồ Chí Minh.
Ông
Hồ chăm chú nghe rồi phát biểu: 'Không ổn! Không thể mở đầu chiến dịch bằng
cách nổ súng vào một phụ nữ, và lại là một người từng nuôi cán bộ cộng sản và
mẹ một chính uỷ trung đoàn Quân đội Nhân dân đang tại chức.' Ông hẹn sẽ can
thiệp, sẽ nói với Trường Chinh về chuyện hệ trọng và cấp bách này".
Thành Tín viết tiếp: "Thế
nhưng không có gì động theo hướng đó cả! Bởi vì người ta mượn cớ đã quá chậm.
Các phóng viên báo chí, các nhà văn hạ phóng tham gia cải cách đã viết sẵn bài
tố cáo, lên án, kết tội bà Năm rồi".
Qua Thành Tín ta cũng biết được suy nghĩ của Hoàng Quốc Việt: "Đến Bác Hồ biết là không đúng cũng không dám nói với họ... ‘Họ’ là các ông con trời đặc phái viên của Mao". Thành Tín nhận xét: "Trước hết Hồ Chí Minh có lỗi lớn. Thà rằng không biết gì về chuyện này; và dù không biết, là chủ tịch nước, chủ tịch Đảng ông cũng phải chịu phần trách nhiệm. Huống hồ gì ông đã biết rõ cụ thể, ông nhận định là bà Năm bị xử trí oan, thế mà ông giữ im lặng, ông không can thiệp. Đây là thái độ vô trách nhiệm. Ông không can thiệp thì ai có thể can thiệp? Ông để mặc cho nước ông bị một số kẻ nước ngoài (cố vấn Tàu) lũng đoạn, lộng hành. Trên thực tế ông đã từ nhiệm vị trí trách nhiệm của mình".
Trong hồi ký Giọt nước trong biển cả, ông Hoàng Văn Hoan đã cho rằng Ủy ban CCRĐ "... tự cho phép các đội CCRĐ được bắn vào địa chủ gian ác để nâng cao khí thế nông dân. Việc bắn địa chủ mở đầu từ Thái Nguyên, sau lan tràn đi nhiều nơi, coi là một phương pháp tốt, để nâng cao uy thế của nông dân." Ông nêu ra điều 36 của luật CCRĐ quy định: "Đối với kẻ phạm pháp thì xét xử theo pháp luật, nghiêm cấm việc bắt bớ và giết chóc trái phép, đánh đập hoặc dùng mọi thứ nhục hình khác". Ông cũng đã viết: "Tham dự xong Hội nghị Trung ương về CCRĐ, tôi lại trở ra Bắc Kinh.
Qua Thành Tín ta cũng biết được suy nghĩ của Hoàng Quốc Việt: "Đến Bác Hồ biết là không đúng cũng không dám nói với họ... ‘Họ’ là các ông con trời đặc phái viên của Mao". Thành Tín nhận xét: "Trước hết Hồ Chí Minh có lỗi lớn. Thà rằng không biết gì về chuyện này; và dù không biết, là chủ tịch nước, chủ tịch Đảng ông cũng phải chịu phần trách nhiệm. Huống hồ gì ông đã biết rõ cụ thể, ông nhận định là bà Năm bị xử trí oan, thế mà ông giữ im lặng, ông không can thiệp. Đây là thái độ vô trách nhiệm. Ông không can thiệp thì ai có thể can thiệp? Ông để mặc cho nước ông bị một số kẻ nước ngoài (cố vấn Tàu) lũng đoạn, lộng hành. Trên thực tế ông đã từ nhiệm vị trí trách nhiệm của mình".
Trong hồi ký Giọt nước trong biển cả, ông Hoàng Văn Hoan đã cho rằng Ủy ban CCRĐ "... tự cho phép các đội CCRĐ được bắn vào địa chủ gian ác để nâng cao khí thế nông dân. Việc bắn địa chủ mở đầu từ Thái Nguyên, sau lan tràn đi nhiều nơi, coi là một phương pháp tốt, để nâng cao uy thế của nông dân." Ông nêu ra điều 36 của luật CCRĐ quy định: "Đối với kẻ phạm pháp thì xét xử theo pháp luật, nghiêm cấm việc bắt bớ và giết chóc trái phép, đánh đập hoặc dùng mọi thứ nhục hình khác". Ông cũng đã viết: "Tham dự xong Hội nghị Trung ương về CCRĐ, tôi lại trở ra Bắc Kinh.
Thủ tướng Chu Ân Lai được
biết tin và rất quan tâm về vấn đề sai lầm trong CCRĐ, khi gặp tôi liền hỏi:
Việc sai lầm trong CCRĐ có liên quan gì đến các đồng chí cố vấn Trung Quốc hay
không? Tôi trả lời: Kinh nghiệm CCRĐ của Trung Quốc là rất tốt. Ủy ban CCRĐ ở
Việt Nam phạm sai lầm, như coi thành phần địa chủ lên quá nhiều, đánh vào thành
phần phú nông và trung nông, đánh vào những người chỉ có một ít ruộng đất nhưng
nguồn thu nhập chính là những nghề nghiệp khác, đánh vào những địa chủ kháng
chiến, địa chủ có công với cách mạng, đặt biệt là đánh tràn lan vào các cơ sở
Đảng, thì đó là sai lầm của Ủy ban CCRĐ Việt Nam, chứ không phải là sai lầm của
các cố vấn Trung Quốc".
Ông Nguyễn Minh Cần, nguyên Phó chủ tịch Hà Nội, đã hết sức ưu tư về việc "những người lãnh đạo cộng sản trong Bộ Chính trị và đứng đầu chính phủ đã từng được bà che giấu, nuôi ăn, tặng vàng, nay đang làm Chủ tịch nước, Tổng Bí thư, Ủy viên ban chấp hành, Thủ tướng, Phó Thủ tướng đã lạnh lùng chuẩn y một bản án tử hình như vậy! Phát súng đầu tiên của CCRĐ nổ vào đầu của một người phụ nữ yêu nước đã từng giúp đỡ cho những người cộng sản! Phát súng đó tự nó đã nói lên nhiều điều về các lãnh tụ cộng sản! Nó báo trước những tai hoạ khôn lường cho toàn dân tộc!".
Nhà văn Vũ Thư Hiên nhận xét một cách dứt khoát: "Câu chuyện về Hồ Chí Minh trong thâm tâm chống lại chủ trương Cải cách ruộng đất, bực bội vì việc mở màn bằng việc bắn một người đàn bà, như một số người bào chữa cho ông là một chuyện tầm phào.
Ông Nguyễn Minh Cần, nguyên Phó chủ tịch Hà Nội, đã hết sức ưu tư về việc "những người lãnh đạo cộng sản trong Bộ Chính trị và đứng đầu chính phủ đã từng được bà che giấu, nuôi ăn, tặng vàng, nay đang làm Chủ tịch nước, Tổng Bí thư, Ủy viên ban chấp hành, Thủ tướng, Phó Thủ tướng đã lạnh lùng chuẩn y một bản án tử hình như vậy! Phát súng đầu tiên của CCRĐ nổ vào đầu của một người phụ nữ yêu nước đã từng giúp đỡ cho những người cộng sản! Phát súng đó tự nó đã nói lên nhiều điều về các lãnh tụ cộng sản! Nó báo trước những tai hoạ khôn lường cho toàn dân tộc!".
Nhà văn Vũ Thư Hiên nhận xét một cách dứt khoát: "Câu chuyện về Hồ Chí Minh trong thâm tâm chống lại chủ trương Cải cách ruộng đất, bực bội vì việc mở màn bằng việc bắn một người đàn bà, như một số người bào chữa cho ông là một chuyện tầm phào.
Một lệnh ông Hồ ban ra không phải là chỉ cứu được bà Nguyễn Thị Năm, nó
còn cứu hằng ngàn người bị giết oan trong cả Cải cách ruộng đất lẫn Chỉnh đốn
tổ chức do Lê Văn Lương song song tiến hành. Ông không cứu ai cho tới khi những
sai lầm tích tụ lại thành cái nhọt bọc. Lúc cái nhọt bọc vỡ ra ông mới tỉnh cơn
mê. Nhưng đã muộn" .
Vũ Thư Hiên còn cho biết ông Vũ Đình Huỳnh, nguyên thư ký riêng của Hồ Chí Minh, đã nói thẳng với ông Hồ: "Máu đồng bào, đồng chí đã đổ mà Bác vẫn còn ngồi yên được à? Chúng ta tuy không có học, chúng ta dốt, chúng ta phải vừa làm vừa học xây dựng chính quyền, vì dốt nát chúng ta mắc mọi sai lầm, nhưng chúng ta không có quyền để tay chúng ta nhuốm máu đồng bào đồng chí".
Vũ Thư Hiên còn cho biết ông Vũ Đình Huỳnh, nguyên thư ký riêng của Hồ Chí Minh, đã nói thẳng với ông Hồ: "Máu đồng bào, đồng chí đã đổ mà Bác vẫn còn ngồi yên được à? Chúng ta tuy không có học, chúng ta dốt, chúng ta phải vừa làm vừa học xây dựng chính quyền, vì dốt nát chúng ta mắc mọi sai lầm, nhưng chúng ta không có quyền để tay chúng ta nhuốm máu đồng bào đồng chí".
Cũng qua Vũ Thư Hiên ta biết được ông
Vũ Đình Huỳnh đã "...
khẳng định người chịu trách nhiệm chính là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải là
Trường Chinh. Trường Chinh chỉ là con dê tế thần cho ông Hồ".
Điểm qua những hồi ký, suy nghĩ, ưu tư kể trên, ta thấy được vụ án Nguyễn Thị Năm nói riêng và CCRĐ nói chung còn rất nhiều uẩn khúc. Những uẩn khúc này không phải chỉ liên quan đến các nạn nhân hay gia đình nạn nhân CCRĐ. Nó còn in đậm nét trong tâm trí của những người đã một thời tin vào chủ nghĩa cộng sản, vào lý tưởng cộng sản, vào sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và ĐCS, trong đó có người từng trực tiếp tham gia CCRĐ. Những uẩn khúc này cần phải được làm sáng tỏ.
Trong tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất của tác giả C.B. do báo Nhân Dân xuất bản năm 1955, trang 27 và 28, có bài "Địa chủ ác ghê". Bài viết này đã được đăng trên báo Nhân Dân ngày 21 tháng 7 năm 1953 và phổ biến lại trong tập liệu này. Đúng như nhà báo Thành Tín cho biết, "các phóng viên báo chí các nhà văn hạ phóng tham gia cải cách đã viết sẵn bài tố cáo, lên án, kết tội bà Năm rồi". Nhân tiện người viết xin được đăng toàn bài để bạn đọc có thể cùng suy ngẫm.
Điểm qua những hồi ký, suy nghĩ, ưu tư kể trên, ta thấy được vụ án Nguyễn Thị Năm nói riêng và CCRĐ nói chung còn rất nhiều uẩn khúc. Những uẩn khúc này không phải chỉ liên quan đến các nạn nhân hay gia đình nạn nhân CCRĐ. Nó còn in đậm nét trong tâm trí của những người đã một thời tin vào chủ nghĩa cộng sản, vào lý tưởng cộng sản, vào sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và ĐCS, trong đó có người từng trực tiếp tham gia CCRĐ. Những uẩn khúc này cần phải được làm sáng tỏ.
Trong tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất của tác giả C.B. do báo Nhân Dân xuất bản năm 1955, trang 27 và 28, có bài "Địa chủ ác ghê". Bài viết này đã được đăng trên báo Nhân Dân ngày 21 tháng 7 năm 1953 và phổ biến lại trong tập liệu này. Đúng như nhà báo Thành Tín cho biết, "các phóng viên báo chí các nhà văn hạ phóng tham gia cải cách đã viết sẵn bài tố cáo, lên án, kết tội bà Năm rồi". Nhân tiện người viết xin được đăng toàn bài để bạn đọc có thể cùng suy ngẫm.
Địa chủ ác ghê
Thánh hiền dạy rằng: "Vi phú bất nhân". Ai cũng biết rằng địa chủ thì ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khoá - thế thôi. Nào ngờ có bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ:
Mụ địa chủ Cát-hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã:
Thánh hiền dạy rằng: "Vi phú bất nhân". Ai cũng biết rằng địa chủ thì ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khoá - thế thôi. Nào ngờ có bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ:
Mụ địa chủ Cát-hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã:
- Giết
chết 14 nông dân.
- Tra
tấn đánh đập hằng chục nông dân, nay còn tàn tật.
- Làm
chết 32 gia đình gồm có 200 người - năm 1944, chúng đưa 37 gia đình về đồn
điền phá rừng khai ruộng cho chúng. Chúng bắt làm nhiều và cho ăn đói. Ít
tháng sau, vì cực khổ quá, 32 gia đình đã chết hết, không còn một người.
- Chúng
đã hãm chết hơn 30 nông dân - Năm 1945, chúng đưa 65 nông dân bị nạn đói ở
Thái Bình về làm đồn điền. Cũng vì chúng cho ăn đói bắt làm nhiều. Ít hôm
sau, hơn 30 người đã chết ở xóm Chùa Hang.
- Năm
1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi. Chúng bắt các em ở dưới hầm,
cho ăn đói mặc rách, bắt làm quá sức lại đánh đập không ngớt. Chỉ mấy
tháng, 15 em đã bỏ mạng.
Thế là ba mẹ con địa chủ Cát-hanh-Long, đã trực tiếp, gián tiếp
giết ngót 260 đồng bào!
Còn những cảnh chúng tra tấn nông dân thiếu tô thiếu nợ, thì tàn nhẫn không kém gì thực dân Pháp. Thí dụ:
Còn những cảnh chúng tra tấn nông dân thiếu tô thiếu nợ, thì tàn nhẫn không kém gì thực dân Pháp. Thí dụ:
- Trời
rét, chúng bắt nông dân cởi trần, rồi dội nước lạnh vào người. Hoặc bắt
đội thùng nước lạnh có lỗ thủng, nước rỏ từng giọt vào đầu, vào vai, đau
buốt tận óc tận ruột.
- Chúng
trói chặt nông dân, treo lên xà nhà, kéo lên kéo xuống.
- Chúng
đóng gióng trâu vào mồm nông dân, làm cho gẫy răng hộc máu. Bơm nước vào
bụng, rồi giẫm lên bụng cho hộc nước ra.
- Chúng
đổ nước cà, nước mắm vào mũi nông dân, làm cho nôn sặc lên.
- Chúng
lấy nến đốt vào mình nông dân, làm cho cháy da bỏng thịt.
- Đó
là chưa kể tội phản cách mạng của chúng. Trước kia mẹ con chúng đã thông
đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ. Sau Cách mạng tháng Tám, chúng đã
thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng chiến.
Trong cuộc phát động quần chúng, đồng bào địa phương đã đưa đủ
chứng cớ rõ ràng ra tố cáo. Mẹ con Cát-hanh-Long không thể chối cãi, đã thú
nhận thật cả những tội ác hại nước hại dân. Thật là:
Viết không hết tội, dù chẻ hết tre rừng,
Rửa không sạch ác, dù tát cạn nước bể!
(21-7-1953)
Viết không hết tội, dù chẻ hết tre rừng,
Rửa không sạch ác, dù tát cạn nước bể!
(21-7-1953)
Vì bài báo gọi bà Nguyễn Thị Năm là Cát-hanh-Long nên người viết theo đó mà gọi. Có người còn gọi bà là bà Cát Thanh Long hay bà Cát Thành Long, không biết danh hiệu nào là đúng?
Nhà báo Thành tín cũng viết: "Một số nông dân chất phác ngây thơ, kể rằng bà Năm rất tốt, nhân từ, hay đi chùa, làm việc thiện, có nhiều cán bộ chiến sĩ là con nuôi của bà, bà có công với kháng chiến, nên xếp là địa chủ kháng chiến". Nhóm từ "mấy tên lâu la" được dùng trong bài báo nêu trên có lẽ để kết tội các nông dân hiền hoà, chất phác đã không chịu đấu tố bà Năm và hai người con của bà.
Báo Nhân Dân là cơ quan tuyên truyền của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, bài báo phải được duyệt xét kỹ của Trung ương Đảng trước khi cho phổ biến. Khi đọc bài báo này, người viết cảm nhận một điều là bố cục, hình thức và văn phong của bài viết rất tương tự với bản "Tuyên ngôn Độc lập" do Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945, phần lên án thực dân Pháp.
Tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất ghi rõ têntác giả các bài viết trong đó là C.B. - đây là một trong những bút hiệu của Hồ Chí Minh. Chỉ riêng trong tập 6 (từ 1-1951 đến 7-1954) của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập do nhà xuất bản Sự Thật Hà Nội in năm 1989, người viết đã đếm được tất cả 15 bài viết của Hồ Chí Minh ký tên là C.B.
Không thấy bài viết này được nhắc đến trong bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập. Tuy nhiên trong Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử tập 5 trang 418 ghi rõ: "Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Địa chủ phản động ác ghê, ký bút danh Đ. X. đăng trên báo Cứu Quốc, số 2459 (ngày 2/11/1953), tố cáo tội ác của một số địa chủ phản động đã cấu kết với thực dân và bù nhìn để phản dân, phản nước, mưu phá hoại chính sách ruộng đất của Chính phủ. Chúng là bọn ‘mặt người dạ thú’ và tội ác của chúng là ‘tuyệt vô nhân đạo’." Có thể bài viết của ông Hồ trên báo Nhân Dân đã được đăng lại trên báo Cứu Quốc.
Khi đọc bản thảo bài viết này, ông Nguyễn Minh Cần nhớ lại năm 1953 ông đã được đọc bài "Địa chủ ác ghê" từ nội san Cải cách ruộng đất được phổ biến trong nội bộ Đảng Lao động và các cán bộ CCRĐ.
Ông Hoàng Văn Chí có viết trong khoá chỉnh huấn trung ương nhằm đả thông tư tưởng đảng viên và cán bộ làm công tác CCRĐ, Hồ Chí Minh đã ví von: "đế quốc là con hổ mà địa chủ là bụi rậm để cho hổ núp. Vì vậy muốn đuổi hổ phải phá cho kỳ hết bụi rậm." (Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, Chương 12, trang 90).
Khác với các vụ xử tử trong CCRĐ sau này, Hoàng Tùng xác nhận Bộ Chính trị đã họp và quyết định về vụ xử bắn bà Năm. Ông Nguyễn Minh Cần nói rõ hơn: "bà đã bị quy là địa chủ cường hà ác bá, bị đoàn CCRĐ xử án tử hình, Ủy ban CCRĐ Trung ương duyệt y và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam chuẩn y". Theo người viết, ít nhất có 7 lý do để bà Năm được chọn làm thí điểm đầu tiên cho cuộc phóng tay phát động quần chúng CCRĐ:
- Thứ
nhất, phương châm chính trong CCRĐ là "thà giết lầm 10 người vô tội,
còn hơn để thoát một kẻ thù". CCRĐ là một cuộc đấu tranh giai cấp
giữa bần cố nông và địa chủ (nông dân có ruộng). Do đó địa chủ không thể
được lọt lưới, được bỏ sót. Bà Năm lại có đến 2,789 mẫu đất (Thanh Cần,
trang 3), là một đại địa chủ.
- Thứ
nhì, phát súng đầu tiên bắn vào một phụ nữ để xác định CCRĐ là một cuộc
đấu tranh giai cấp và trong đấu tranh giai cấp không phân biệt địa chủ
phong kiến là phụ nữ hay đàn ông, già hay trẻ...
- Thứ
ba, như Hồ Chí Minh thường tuyên bố "toàn dân kháng chiến", địa
chủ đã chấp nhận ở lại vùng kháng chiến, đương nhiên là chấp nhận theo,
đóng góp, tham gia kháng chiến. Xử bắn bà, và những địa chủ trong vùng
kháng chiến, là để phủ nhận công lao đóng góp của thành phần này. Nay đã
có Quốc tế Cộng sản, có giai cấp công nông, khẩu hiệu "toàn dân kháng
chiến" không còn cần thiết nữa.
- Thứ
tư, bắn bà Năm là dấu hiệu cho phép trừng phạt tất cả những người có ruộng
đất, có tài sản, có ảnh hưởng kinh tế chính trị trong và ngoài Đảng Lao
động Việt Nam. Theo ông Đoàn Duy Thành, bà Năm là địa chủ đã hiến ruộng
cho chính quyền kháng chiến.
- Thứ
năm, ảnh hưởng kinh tế và chính trị của bà, và của các địa chủ khác, cần
phải được thủ tiêu để mở đường xây dựng chế độ chuyên chế toàn trị.
- Thứ
sáu, xử bắn bà Năm, và giai cấp địa chủ, là nhằm sách động nông dân thực
thi sách lược "chia để trị".
- Thứ
bẩy, xử bắn bà Năm và tiêu diệt giai cấp địa chủ là nhằm nâng cao quyền
lực của Hồ Chí Minh và ĐCS. Nguyễn Văn Trấn đã viết: "Các đoàn CCRĐ đã rút kinh
nghiệm về cách đem phạm nhân đi bắn, và đã cho lệnh bắn sau lưng kẻ thọ
hình. Vì kinh nghiệm cho thấy, đem trói nó vào nọc trụ để bắn thì nó sẽ la
to Hồ Chí Minh muôn năm, Đảng Lao động muôn năm" (Nguyễn Văn
Trấn, trang 270). Vũ Thư Hiên cũng nhắc đến việc có người đã tự tử để lại
bức thư tuyệt mệnh: "Oan
cho tôi lắm, cụ Hồ ơi. Tôi trung thành với cụ với Đảng. Tôi không phản
bội, Hồ Chí Minh muôn năm!" (Vũ Thư Hiên, chương 1).
Chính vì những lý do trên mà Hồ Chí Minh mới đích thân viết bài
trên báo Nhân Dân đấu tố bà Năm.
Trong một lá thư, đề ngày 18/8/1956, gởi đến "đồng bào nông thôn" nhân dịp CCRĐ căn bản đã hoàn thành, Hồ Chí Minh xác định CCRĐ là "một thắng lợi vô cùng to lớn" và "có thắng lợi này là nhờ Đảng và Chính phủ ta có chính sách đúng đắn". Ông viết tiếp: "Cải cách ruộng đất là một cuộc đấu tranh giai cấp chống phong kiến, một cuộc cách mạng long trời lở đất, quyết liệt gay go. Lại vì kẻ địch phá hoại điên cuồng; vì một số cán bộ ta chưa nắm vững chính sách, chưa thực đi đúng đường lối quần chúng; vì sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ có chỗ thiếu cụ thể, thiếu kiểm tra đôn đốc, cho nên khi CCRĐ đã xảy ra những khuyết điểm sai lầm" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7, trang 507). Riêng việc "kẻ địch phá hoại điên cuồng" đã được ông giải thích như sau: "Như con giun không biết nhảy, khi ta giẫm lên nó, nó cũng giãy trước khi chết. Giai cấp địa chủ cũng thế." (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7, trang 358).
Vài năm sau, nhân kỷ niệm 30 năm ngày thành lập ĐCSVN, 6/1/1960, Hồ Chí Minh lại gắn liền cuộc kháng chiến chống Pháp và cuộc CCRĐ, ông tuyên bố: "Buổi đầu kháng chiến, Đảng vẫn tiếp tục thực hiện chính sách giảm tô, giảm tức. Nhưng đến lúc kháng chiến đã phát triển mạnh, cần phải bồi dưỡng hơn nữa lực lượng nhân dân, chủ yếu là nông dân thì Đảng đã cương quyết phát động quần chúng cải cách ruộng đất hoàn thành thực hiện người cày có ruộng. Nhờ chính sách đúng đắn này, lực lượng kháng chiến ngày càng mạnh thêm và đã liên tục thu được nhiều thắng lợi" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, trang 596).
Hồ Chí Minh đã hiểu rõ nguyện vọng của dân tộc là độc lập, tự do, dân chủ, hạnh phúc, người cày có ruộng... Trong điều 12, Hiến pháp 1946, còn được gọi là “Hiến pháp Cụ Hồ” vì ông là trưởng ban soạn thảo Hiến pháp, đã xác định: "Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm". CCRĐ chẳng những vi hiến, nó còn là một tội ác với số nạn nhân chưa thể hay không bao giờ có thể tính được. Hồ Chí Minh đã lợi dụng các khao khát, các ước vọng của người dân để xây dựng quyền lực cho ông và cho ĐCS Việt Nam.
CCRĐ không phải chỉ tàn sát những thường dân vô tội. Nó còn phá hoại những truyền thống tốt đẹp, phá hoại đạo lý luân thường, phá hoại tâm linh văn hoá của dân tộc Việt Nam (xin xem Nguyễn Minh Cần). Quả lời ông Vũ Đình Huỳnh "... khẳng định người chịu trách nhiệm chính là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải là Trường Chinh. Trường Chinh chỉ là con dê tế thần cho ông Hồ" là hoàn toàn chính xác.
Bài viết này mong làm sáng tỏ, làm minh bạch một phần của quá khứ, không phải để gợi lại hận thù, mà để xây dựng con đường đi tới tránh xa những tội ác mà người đi trước như Hồ Chí Minh đã mắc phải.
Tài liệu tham khảo
Trong một lá thư, đề ngày 18/8/1956, gởi đến "đồng bào nông thôn" nhân dịp CCRĐ căn bản đã hoàn thành, Hồ Chí Minh xác định CCRĐ là "một thắng lợi vô cùng to lớn" và "có thắng lợi này là nhờ Đảng và Chính phủ ta có chính sách đúng đắn". Ông viết tiếp: "Cải cách ruộng đất là một cuộc đấu tranh giai cấp chống phong kiến, một cuộc cách mạng long trời lở đất, quyết liệt gay go. Lại vì kẻ địch phá hoại điên cuồng; vì một số cán bộ ta chưa nắm vững chính sách, chưa thực đi đúng đường lối quần chúng; vì sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ có chỗ thiếu cụ thể, thiếu kiểm tra đôn đốc, cho nên khi CCRĐ đã xảy ra những khuyết điểm sai lầm" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7, trang 507). Riêng việc "kẻ địch phá hoại điên cuồng" đã được ông giải thích như sau: "Như con giun không biết nhảy, khi ta giẫm lên nó, nó cũng giãy trước khi chết. Giai cấp địa chủ cũng thế." (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7, trang 358).
Vài năm sau, nhân kỷ niệm 30 năm ngày thành lập ĐCSVN, 6/1/1960, Hồ Chí Minh lại gắn liền cuộc kháng chiến chống Pháp và cuộc CCRĐ, ông tuyên bố: "Buổi đầu kháng chiến, Đảng vẫn tiếp tục thực hiện chính sách giảm tô, giảm tức. Nhưng đến lúc kháng chiến đã phát triển mạnh, cần phải bồi dưỡng hơn nữa lực lượng nhân dân, chủ yếu là nông dân thì Đảng đã cương quyết phát động quần chúng cải cách ruộng đất hoàn thành thực hiện người cày có ruộng. Nhờ chính sách đúng đắn này, lực lượng kháng chiến ngày càng mạnh thêm và đã liên tục thu được nhiều thắng lợi" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, trang 596).
Hồ Chí Minh đã hiểu rõ nguyện vọng của dân tộc là độc lập, tự do, dân chủ, hạnh phúc, người cày có ruộng... Trong điều 12, Hiến pháp 1946, còn được gọi là “Hiến pháp Cụ Hồ” vì ông là trưởng ban soạn thảo Hiến pháp, đã xác định: "Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm". CCRĐ chẳng những vi hiến, nó còn là một tội ác với số nạn nhân chưa thể hay không bao giờ có thể tính được. Hồ Chí Minh đã lợi dụng các khao khát, các ước vọng của người dân để xây dựng quyền lực cho ông và cho ĐCS Việt Nam.
CCRĐ không phải chỉ tàn sát những thường dân vô tội. Nó còn phá hoại những truyền thống tốt đẹp, phá hoại đạo lý luân thường, phá hoại tâm linh văn hoá của dân tộc Việt Nam (xin xem Nguyễn Minh Cần). Quả lời ông Vũ Đình Huỳnh "... khẳng định người chịu trách nhiệm chính là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải là Trường Chinh. Trường Chinh chỉ là con dê tế thần cho ông Hồ" là hoàn toàn chính xác.
Bài viết này mong làm sáng tỏ, làm minh bạch một phần của quá khứ, không phải để gợi lại hận thù, mà để xây dựng con đường đi tới tránh xa những tội ác mà người đi trước như Hồ Chí Minh đã mắc phải.
Tài liệu tham khảo
- C.B.,
Phát động quần chúng và
tăng gia sản xuất, Báo Nhân Dân, 1955
- Đoàn
Duy Thành, Làm người rất khó, làm
người xã hội chủ nghĩa khó hơn
- Hoàng
Tùng, Những kỷ niệm về
Bác Hồ, Điện thơ Câu lạc bộ Dân Chủ
- Hoàng
Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, Bản dịch của Mạc Định, Nhà xuất
bản Chân Trời Mới, Sài Gòn, 1964
- Hoàng
Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả
- Thanh
Cần, Tội ác bóc lột địa tô của giai cấp địa chủ, Nhà xuất bản Sự
Thật, 1955
- Thành
Tín, Mặt thật
- Nguyễn
Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc hội, Văn Nghệ California, USA, 1997
- Nguyễn
Minh Cần, Xin đừng quên tội ác! ... Nửa thế kỷ trước
- Vũ
Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày
- Hồ
Chí Minh biên niên tiểu sử,
Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản
Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 1995
- Hồ
Chí Minh Toàn tập, Viện Mác
Lê Nin, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1989
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment