Để gọi là "đáp lễ" với
Nhật Báo Người Việt khi xuất bản quyển "Bên Thắng Cuộc " của Huy Đức,
chúng tôi sưu tầm các bài viết để biết Bên Nào Thật Sự là Bên Thắng Cuộc.
Bài đầu tiên hôm nay là 34 năm
sau "giải phóng" của cựu Luật Sư Tòa Thượng Thẩm Sài gòn Nguyễn
Phương Minh, cây viết chuyên về bình luận chính trị.
Người sưu tầm và chuyển
A20 Tống phước Hiến
-----------------------------------------------------------------------------
34 Năm sau “Giải Phóng”
Đỗ Thái Nhiên
Theo
nghĩa thông thường, “giải phóng” là cởi trói, là thay đổi hoàn cảnh sống theo
hướng làm cho đời người trở nên êm ả hơn, hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, sau
30/04/1975, người Việt Nam, đặc biệt là những người sanh sống tại miền Nam Việt
Nam trước 1975. ngày càng tỏ ra hoài nghi về ý nghĩa của hai chữ “giải phóng”
do chế độ Hà Nội sử dụng.
Ngay giữa Saigon, đầu năm 1976, nhạc sĩ Nhật Ngân là người đầu tiên đặt dấu hỏi
về hồ sơ giải phóng. Dấu hỏi kia được gói ghém trong nhạc phẩm “Anh Giải Phóng
Tôi Hay Tôi Giải Phóng Anh?”. Sau dấu hỏi của Trần Nhật Ngân, mọi người nhanh
chóng nghiệm ra rằng: Đối với CSVN, “giải phóng” có nghĩa là cưỡng bách nhân
dân phải từ bỏ thiên đàng để nhảy xuống hoả ngục. Bây giờ, 34 năm đã trôi qua,
chúng ta có thừa bình tĩnh để suy nghĩ về “cơn đau giải phóng”. Sau đây là
những tình huống “bị” giải phóng điển hình:
Nạn
nhân đầu tiên của hành động “giải phóng “ lại chính là con đẻ của Bắc Kinh và
Hà Nội. Đó là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. Thực vậy, sau khi chiếm
được Miền Nam Việt Nam, Hà Nội vội vàng “giải phóng” Mặt Trận Giải Phóng Miền
Nam Việt Nam ra khỏi sân khấu chính trị Việt Nam. Nói cách khác Hà Nội đã giải
tán MTGPMNVN không trống, không kèn, không một lời cảm ơn, không một lễ hạ cờ.
Kế tiếp màn giải-phóng-Mặt-Trận-Giải-Phóng là sự việc hàng loạt cán bộ Hà Nội
được tung ra để chiếm giữ vị trí lãnh đạo, đồng thời cũng là vị trí tham ô từ
trong Nam ra tới ngoài Bắc, từ xã ấp lên tới trung ương. Đó là ý nghĩa của tình
đồng chí giữa Cộng Sản Bắc và Cộng Sản Nam.
Bây
giờ chúng ta hãy xét tới mối “liên hệ giải phóng” giữa đảng CSVN và đất nước
Việt Nam. Đất nước ở đây gồm nhân dân và lãnh thổ.
“Giải phóng” nhân dân Việt Nam
Sau
1975, đối với nhân dân Miền Nam Việt Nam, CSVN đánh các đòn giải phóng sau đây:
giải phóng khỏi đời sống tự do để đưa vào những nhà tù khổ sai dưới mỹ danh
“học tập cải tạo”. Giải phóng khỏi những ngôi nhà khang trang để “tự giác” tìm
tới vùng kinh tế mới. Giải phóng khỏi quê hương thân yêu để trôi dạt tới những
vùng đất tạm dung nằm rải rác khắp năm châu. Người Việt sinh sống tại hải ngoại
khoảng 3 triệu người. Người Việt gục ngã trên đường vượt biên khoảng 500 ngàn
người. Từ 1975 cho tới 1985 những người vượt biên bị gọi là phản quốc, bị đẩy
ra biển trong chương trình vượt biên bán chính thức, vượt biên bất chấp những
an toàn tối thiểu của những chuyến đi biển… Mặc dầu bị đối xử tàn tệ như vừa
kể, lòng yêu gia đình, yêu quê hương hối thúc người Việt hải ngoại gửi tiền về
trong nước ngày càng nhiều. Khối tiền to lớn kia đã che khuất hai chữ “phản
quốc”. Người Việt hải ngoại được Hà Nội xảo trá tặng cho danh hiệu “những khúc
ruột ngàn dặm của tổ quốc”. Rõ ràng là CSVN bất chấp liêm sỉ, sẵn sàng nói ngọt
với người Việt hải ngoại chỉ để tiếp tục “giải phóng” túi tiền của những người
trước kia đã bị CS ra tay hành hạ ở mức độ hiểm ác nhất. Đối với
khúc-ruột-ngàn-dặm “moi tiền” là mục đích chính. Đối với đồng bào sống ngay tại
quốc nội CSVN đã đối xử ra sao?
Trước
tiên, hãy nói tới “Mẹ chiến sĩ”. Mẹ ở đây là những người đã dày công bảo bọc,
che chở, tiếp tế cơm gạo cho đám cán binh Việt Cộng trong thời kỳ CSVN phải
sống chui rúc ở hốc núi, hầm đất cùng đủ loại địa đạo… Ngày nay đám “con chiến
sĩ” đã có quyền lực đầy mình, tiền bạc đầy túi. Thay vì đền đáp công ơn Trời
Biển của Mẹ, đám con tai quái kia lại quay ra “giải phóng” nhà, “giải phóng”
ruộng vườn của Mẹ và của vô số đồng bào khác. Công viêc “giải phóng” yêu ma kia
đã tạo ra tại Việt Nam một giai cấp mới: giai cấp dân oan.
Giai
cấp dân oan cộng với nông dân thất nghiệp phải chạy vào thành phố kiếm sống,
cộng với giới phụ nữ chấp nhận “lấy chồng ngoại” để có được cơm áo cho gia
đình, cộng với đông đảo nam nữ thanh niên sẳn sàng bán bắp thịt trong những
chương trình “xuất khẩu lao nô”, cộng với khối quần chúng lớn lao không có cơ
hội đi học, không có nghề nghiệp chuyên môn…Các bài toán cộng vừa nêu dẫn tới
nhận định rằng: hầu hết lực lượng lao động của xã hội Việt Nam ngày nay chỉ có
thể là lao động chân tay. Lao động kiểu này gọi là lao động “tay làm, hàm
nhai”. Lợi tức của “lao động tay làm hàm nhai” gọi là lợi tức cơm chim. Thế nhưng,
ngay cả cơm chim của nhân dân cùng khổ cũng bị CSVN tận tình “giải phóng”. Thực
vậy, thời gian gần đây, dưới danh nghĩa cờ bauxite và cờ công tác xây dựng,
CSVN vừa miễn thuế kinh doanh cho Trung Quốc, vừa mời gọi Trung Quốc tự do mang
dân Tàu vào Việt Nam làm việc tại những nơi Trung Quốc trúng thầu, gọi là tụ
điểm Tàu. Do được miễn thuế kinh doanh, Trung Quốc trở thành quốc gia độc quyền
trúng thầu tại Việt Nam. Vì vậy, hiện nay từ Bắc chí Nam của lãnh thổ Việt Nam
tràn ngập tụ điểm Tàu. Mỗi tụ điểm Tàu có trên dưới 2000 dân Tàu, hầu hết
chuyên làm lao động tay chân. Đó là lý do giải thích tại sao giới lao động chân
tay người Việt bị thất nghiệp và cơm chim của giới này đã bị người Tàu “giải
phóng” với sự hỗ trợ tích cực của nhà cầm quyền Hà Nội.
Như
vậy là dạ dày của người dân đã trống rỗng. Liệu chừng có hay không hiện tượng
rằng: bên trên cái dạ dày lép kẹp là quả tim và bộ óc hừng hực chống Tàu? Chính
vì lo sợ lòng căm thù Tàu trong mỗi người Việt dâng cao, ngày 03/04/2009, chính
phủ CSVN đã ký ban hành công văn số 1992/VPCP-QHQT cho phép thành lập học viện
Khổng Tử tại Việt Nam. Tư tưởng Khổng không có tiền đề triết học, không có qui
luật triết hoc. Nó không là tư tưởng biện chứng. Nó bao gồm những bài học rời
rạc của Khổng Tử. Những bài học rời rạc kia khi đi vào thực tiễn đời sống của
người Trung Quốc, người đời nhìn ra ba trọng điểm:
Trong
gia đình: Người cha là nhân vật tối cao. Vợ con chỉ là
những người phải tuyệt đối tuân lệnh gia trưởng. Trọng nam, khinh nữ là chân lý
không cần chứng minh. Biết bao nhiêu tỷ phụ nữ đã chết vì “chân lý” quái ác vừa
kể. Khổng Tử và đệ tử của Khổng không thể đưa ra bất kỳ lời giải thích nào.
Trong
xã hội quốc gia: Vua là tối cao. Vua nắm quyền sinh, sát toàn
dân.
Trong
bang giao quốc tế: Trung Quốc là nước vua. Những quốc gia chung
quanh chỉ là nước tôi. Trung Quốc có toàn quyền tùy nghi bành trướng.
Ba trọng điểm nêu trên khi đã được nhồi nhét vào tim óc Việt Nam sẽ biến người
Việt trở thành những nô lệ của Trung Quốc trên căn bản tư tưởng rằng:
Trung
Quốc là nước vua, Việt Nam là nước tôi. Vì vậy, không còn nghi ngờ gì nữa, CS
Hà Nội đang làm tay sai cho Trung Quốc trong nổ lực dùng viện Khổng Học để
“giải phóng” TÍNH Việt và TÌNH Việt ra khỏi con người Việt Nam, thay vào đó là
tâm lý an phận thủ thường. Thường ở đây là con người chấp nhận thân phận hèn
mọn trước gia trưởng, trước Đức Vua và trước “Trung Quốc vĩ đại”,
“Giải phóng” lãnh thổ Việt Nam.
Câu
chuyện cơm chim bị “giải phóng” đi kèm với sự việc tính Việt và tình Việt bị
“giải phóng” cho thấy: Con người Việt Nam đang bị CSVN ra sức “giải phóng “ cả
thể chất lẫn tinh thần. Từ đó, không cần tốn một viên đạn, người Tàu đã nghiểm
nhiên tràn ngập lãnh thổ Việt Nam. Bây giờ hãy bàn tới biên giới và hải giới.
Tất cả người Việt Nam đều còn nhớ năm 1999 và 2000 CSVN ký hiệp ước dâng đất,
hiến biển cho Trung Quốc. Từ đó hai hiệp ước kia, đặc biệt là bản đồ biên giới
Việt Hoa bị CSVN triệt để giấu kín.
Ngày
29/03/2009, trong Lời Kêu Gọi “Bất Tuân Dân Sự”, Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng
Độ yêu cầu chế độ Hà Nội hãy khai trình với Liên Hiệp Quốc thềm lục địa Việt
Nam đúng theo đòi hỏi của luật biển 1982. Lời kêu gọi vừa nói có hậu ý tố cáo
CSVN không dám lập hồ sơ khai trình bởi lẽ hầu hết thềm lục địa Việt Nam đã bị
CSVN cống hiến cho Trung Quốc. Sự việc bản đồ biên giới bị giấu kín đi kèm với
sự việc CSVN không dám làm thủ tục khai trình thềm lục địa cho thấy CSVN đã
“giải phóng” đất đai và biển cả Việt Nam ra khỏi khối tài sản của tổ tiên để
dâng cúng cho Trung Quốc.
Nói
tóm lại, sau 34 năm cướp quyền cai trị đất nước, cái gọi là công lao giải phóng
dân tộc của chế độ Hà Nội bao gồm các điểm trọng yếu sau đây:
1.”Giải
phóng” ba triệu đồng bào ra khỏi quê hương để sống cuộc đời tị nạn khắp năm
châu.
2.”Giải
phóng” “cơm chim” của tuyệt đa số nhân dân lao đông để mở đường cho nhiều vạn
dân Tàu, lính Tàu vào Việt Nam kiếm sống bằng nghề lao động tay chân.
3.”Giải
phóng” tính Việt, tình Việt ra khỏi tim óc Việt Nam để thay vào đó là tư tưởng
Khổng với mục đích ngấm ngầm tạo hoàn cảnh tâm lý để người Việt Nam chấp nhận
suy-nghĩ-kiểu-Tàu, sống-theo-trật-tự-Tàu. Trật tự gia trưởng. Trật tự trọng
Nam, khinh Nữ. Trật tự vua tôi: vua là đảng, tôi là dân. Trật tự nước vua là
Tàu, nước tôi là Việt.
4.”Giải
phóng” đất Việt, biển Việt ra khỏi tầm tay Việt Nam để làm lễ vật triều cống
cho vua Trung Quốc.
Bốn
khối tội ác giải phóng kể trên đã biến đảng CSVN thành tên phản quốc lớn nhất
trong thế giới của các loại phản quốc.
Đỗ
Thái Nhiên
They are really son of bitch.
ReplyDelete( I'm sorry to every body )