Dân Tộc Trung Hoa Và Con Đường
Dân Chủ
Người Dân Việt Nam với
Quyền được biết
https://www.youtube.com/watch?v=xsh8TnAx148
Nguyễn
Cao Quyền
September 27, 20140 Bình Luận
Dân Tộc Trung Hoa Và Con Đường Dân Chủ
Gần đây, trên tờ
The Epoch Times xuất hiện một bài báo của tác giả Li Heming với tựa đề:
“Beijing Leaders Considering End Of Communist Rule”, tạm dịch là : lãnh đạo Bắc Kinh đang lưu
tâm đến việc chấm dứt nền cai trị cộng sản. Thông tin này đã nhanh chóng lưu
hành tại thủ đô Trung Quốc và trên thế giới như một tin nóng gây sự chú ý và hy
vọng của nhiều người. Nhân dịp này, những đoạn viết tiếp theo có chủ đích trình
bày một cách nhìn về: “Dân Tộc Trung Hoa Và Con Đường Dân Chủ”.
Năm1978, khi cho
lệnh mở cửa để tiếp nhận kinh tế thị trường và khuyến khích đầu tư ngoại quốc
Đặng Tiểu Bình đã đưa ra khẩu hiệu: “Làm giàu là vinh quang”. Như vậy phải hiểu
là họ Đặng đã chỉ cho phép phát triển kinh tế mà không đả động gì đến vấn đề dân
chủ hóa. Vấn đề này, cho đến ngày nay, vẫn còn ở trong vòng cấm kỵ vì được coi
như một đe dọa đối với sự ổn định cần thiết cho tiến trình phát triển. Cho nên
mỗi khi nhìn vào Trung Quốc người ta thường tự hỏi liệu quốc gia này có thể
vĩnh viễn và muôn thuở kháng cự lại xu thế không thể đảo ngược của vấn đề dân
chủ hóa hay không.
Thật ra vấn đề dân
chủ không xa lạ gì với Trung Quốc. Từ hơn 100 năm nay, giới trí thức Trung Quốc
đã mang ánh sáng dân chủ vào đất nước này. Năm 1898 Phong Trào Cải Cách, do
Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu chủ xướng, đã đặt Trung Quốc trên lộ trình dân
chủ hóa qua hình thức quân chủ lập hiến. Tuy phong trào này không thành công vì
các lực lượng phản động vẫn còn qúa mạnh trong nội bộ triều đình Mãn Thanh
nhưng nó đã để lại những dấu ấn không hề phai lạt.
Ai cũng biết rằng
vào thời ấy, một mẫu hình quân chủ lập hiến không thể chấp nhận được tại Trung
Quốc vì triều đình Mãn Thanh vẫn còn ngồi đó. Người Hán chưa có một tổ chức nào
để thay thế. Cuộc Cách Mạng Tân Hợi năm 1911, sau khi thắng lợi cũng chỉ biến
Trung Quốc thành một nước cộng hoà, chứ không thành một quốc gia dân chủ theo
mẫu hình Tây phương.
Nếu thời đó không
có triều đình Mãn Thanh thì rất có thể Trung Quốc đã theo chân Anh Quốc và Nhật
Bản. Sau khi nhà Mãn Thanh sụp đổ, nhiều hiến pháp đã được ban hành nhưng không
một hiến pháp nào được tôn trọng để mang lại một nền dân chủ trong thực tế.
Tính từ năm 1908
thì đã có tất cả 11 hiến pháp ra đời với những điều khoản bảo đảm tự do ngôn
luận, tự do báo chí, tự do hội họp, nhưng chưa bao giờ các quyền tự do đó được
mang ra áp dụng. Với một thành tích khó tin như vậy, thử hỏi ai có thể nghĩ
rằng Trung Quốc sẽ có một nền dân chủ trong thế kỷ 21.
Các chính trị gia
Tây phương tin rằng một khi nền kinh tế phát triển thì giai cấp trung lưu cũng
phát triển theo và chính giai cấp này sẽ chuyển biến chế độ độc tài thành dân
chủ. Đó là một nhận xét chủ quan, dường như không thể áp dụng cho trường hợp
của Trung Quốc vì tại đây họ Đặng cũng như những người lãnh đạo bảo thủ kế
nghiệp đều nhất quyết giữ cho Trung Quốc có một độc đảng cai trị và một nền
chuyên chính vô sản lâu dài.
Đề đi sâu vào lãnh
vực nghiên cứu triển vọng dân chủ hóa Trung Quốc chúng ta cần lược qua năm khu
vực quan trọng được coi như những cản trở cho triển vọng dân chủ hóa. Những cản
trở đó cần được triệt để khắc phục trước khi Trung Quốc muốn thật tâm ly khai
với mẫu hình toàn trị.
Trung Quốc không
phải là một quốc gia thuần nhất
Những thành phần
cấu thành đất nước Trung Hoa có những đặc tính riêng biệt cho từng khu vực.
Những đặc tính này đòi hỏi những mẫu hình phát triển khác nhau. Cho nên vấn đề tiên
đoán tương lai chính trị của Trung Quốc không thể nào chính xác. Sự thiếu thuần
nhất này khiến Trung Quốc không thể có một mô hình phát triển giống những quốc
gia khác.
Tại Trung Quốc, cái
gì xảy ra trong lãnh vực kinh tế không nhất thiết sẽ phải xảy ra trong các lãnh
vực chính trị và xã hội. Chưa kể là trong lãnh vực kinh tế, những gì xảy ra tại
vùng này cũng chưa chắc sẽ xảy ra tại các vùng khác. Trong lãnh vực xã hội cũng
vậy. Không có gì bảo đảm rằng những chuyển biến trong lãnh vực này lại ảnh
hưởng đến lãnh vực chính trị. Tại Trung Quốc những chuyển biến thuộc loại này
không ảnh hưởng lẫn nhau để tái lập thế quân bình mà trái lại còn tạo thêm
nhiều mâu thuẫn. Người Trung Hoa rất quen thuộc với những hiện tượng này.
Tôn Dật Tiên ví
Trung Quốc như một “đĩa cát”, nghiã là không có những liên hệ hỗ tương mật
thiết. Con người Trung Quốc, bị ảnh hưởng của giáo lý Khổng Nho, nên coi trọng
cá nhân và gia đình hơn tổ quốc. Mọi xu hướng trên đất nước này đều không có
tính cách lan tràn hoặc tích lũy.
Lý do căn bản để
giải thích hiện tượng này là, vì quá rộng lớn, nên Trung Quốc có đặc tính của
một nền văn minh (a civilization) hơn là một quốc gia (a nation state). Cái gì làm
người Trung Hoa ngồi lại vời nhau là những yếu tố văn hóa, chủng tộc và văn
minh chứ không phải là tinh thần quốc gia gắn bó như người ta thường thấy ở
những nơi khác.
Nếu để ý kỹ, ta
thấy rằng. tại Trung Quốc, khi chế độ Mao ra đi thì chế độ Đặng xuất hiện và
giữa hai chế độ này không có một liên hệ tiếp nối nào cả. Có thể nói là căn cước
(identity) của người Trung Hoa không xuất phát từ khung cảnh chính trị của quốc
gia, cho nên họ không quan tâm đến những thay đổi chính trị ở trong nước và
không để ý đến những thay đổi mang nhiều mâu thuẫn. Chính quyền trung ương
không có phương tiện để kiểm soát hoặc động viên toàn khối dân chúng. Cho nên
thường xảy ra những chiến dịch động viên vùng, mỗi khi cần đến . Nếu những
chiến dịch này không thành công, người ta thường thấy một cuộc đàn áp tiếp theo.
Chính quyền trung
ương ở Bắc Kinh có thể ra nghị định bắt toàn dân thi hành một vấn đề, nhưng
nghị định này thường khi không được địa phương tuân lệnh, nếu không phù hợp với
quyền lợi của họ. Các quan chức địa phương lý luận rằng chính quyền trung ương
nói dối họ, vậy thì họ cũng có quyền nói dối lại bằng cách không tuân lệnh hoặc
giả vờ tuân lệnh, và như vậy là “hòa”. Cho nên mâu thuẫn liên tục xảy ra và
ngày càng chồng chất. Với tình trạng này, tại Trung Quốc, tiến bộ kinh tế không
đưa đến tiến bộ chính trị, và tự do tuy không phát triển trong lãnh vực chính
trị nhưng lại rất được thả lòng trong lãnh vực kinh tế.
Doanh gia được xếp hạng
chót trong các nấc thang xã hội
Dân tộc Trung Hoa
có nhiều năng khiếu về thương mại nhưng doanh gia lại bị Khổng Tử đánh giá như
một giai cấp có đóng góp nhỏ bé nhất nếu xét về phương diện phát triển và lợi
ích quốc gia. Từ ngàn xưa, cách xếp hạng của Khổng Tử bao giờ cũng là: sĩ,
nông, công, thương, nghĩa là các con buôn đứng hạng chót. Cho nên thương nhân
và doanh nhân ở Trung Quốc, dù cho có giàu sang tới mức nào đi nữa, bao giờ
cũng mang mặc cảm tư ti.
Họ luôn luôn đứng
ngoài chính trị và không bao giờ bàn tán đến luật pháp. Để né tránh những điều
luật bất lợi cho công việc làm ăn, họ tìm cách đút lót và hối lộ để vượt qua
trở ngại và không bao giờ nghĩ đến biện pháp ảnh hưởng vào luật lệ. Chính vì
vậy mà tại Trung Quốc tham nhũng là một hiện tượng thường trực và bình thường,
không bao giờ rập tắt được.
Sau khi Đặng Tiểu
Bình mở cửa để giao thương với ngoại quốc và đưa ra khẩu hiệu “làm giàu là vinh
quang”, giới doanh nhân đã nhanh chóng trở nên đông đảo và giàu có. Mặc dầu
vậy, họ đã không ảnh hưởng gì đến chính quyền bằng sức mạnh cứng (cách mạng bạo
lực) mà chỉ dùng sức mạnh mềm (đút lót). Họ đã không xuất hiện trong Mùa Xuân
Bắc Kinh và phong trào Bức Tường Dân Chủ của Ngụy Kinh Sinh. Sau sự kiện Thiên
An Môn, họ cũng nhanh chóng ngả về phía chính quyền và vào hùa với quan điểm ổn
định để phát triển.
Trái với nhận xét
của các chính trị gia Tây phương, giai cấp trung lưu mới của Trung Quốc đã
không có bất cứ một đóng góp nào cho tiến trình dân chủ hóa của đất nước. Tệ
nạn tham nhũng vẫn còn đó và bảo đảm cho họ một phương cách làm ăn vừa an ninh
vừa dễ dàng hơn. Vì thế ta đừng ngạch nhiên là không có tiếng nói nào nổi lên
từ giai cấp trung lưu để đòi hỏi dân chủ đa nguyên. Vì đó chỉ là một chuyện
bình thường hoàn toàn hợp với đặc tính của Trung Quốc.
Nhu cầu về một xã
hội dân sự
Sự thiếu vắng một
xã hội dân sự tại trung Quốc là một đặc thái khác, gần như có tính cách tuyệt
đối. Không khí im lặng của giai cấp doanh nhân giàu có đứng về phía chính quyền
đã là nguyên do của sự tệ hại này. Nếu không có xã hội dân sự thì không có cái
gì có thể kìm hãm và hạn chế sự lạm quyền của trung ương.
Trở lại với lịch
sử, ta thấy xã hội Trung Quốc ngày xưa hoàn toàn khác biệt với các xã hội Tây
phương và Nhật Bản. Quyền hành của các vua Tây phương hay Nhật Bản, thời Trung Cổ,
lúc nào cũng bị cạnh tranh bởi Nhà Thờ hoặc qúy tộc. Trái lại, sự cạnh tranh
này chưa bao giờ xảy ra tại Trung Quốc, nơi mà Thiên Mệnh là tuyệt đối.
Đành rằng giáo lý
Khổng Mạnh có cho phép chỉ trích và lên án các hành vi không xứng đáng của vua
quan nhưng nếu suy nghĩ cho cùng thì việc đó cũng không thể coi là một động lực
cải tạo, một động lực làm thay đổi chế độ (force of change). Đạo Khổng luôn
luôn đứng về phía chính quyền và chưa bao giờ đứng về phía nhân dân.
Truyền thống ngăn
cản vua quan làm bậy của thời cổ đại Trung Hoa vẫn còn tồn tại đến ngày nay,
nhưng nó đã bị hoàn toàn cắt đứt sau vụ tàn sát Thiên An Môn năm 1989.
Vụ giết người dã
man này chứng tỏ là nhà nước cộng sản đương thời đã tự cho cái quyền hành động
man rợ đó và trên thực tế lúc nào cũng sẵn sàng tiêu diệt bằng súng đạn tất cả
những sinh viên, trí thức, nhà văn nào dám chống lại chính quyền.
Để giảm bớt tình trạng
căng thẳng này, gần đây Bắc Kinh đã đưa ra các chính sách hợp tác và dân chủ
hóa nông thôn. Bằng cách cài người vào trong những hiệp hội nghề nghiệp và vào
trong những cuộc bầu cử tại nông thôn để kiểm soát và thao túng, tập đoàn lãnh
đạo Trung Nam Hải đã muốn giữ cho tình hình chính trị trong nước một bề ngoài
ổn định. Tuy nhiên cả hai chính sách này đều nhằm mục đích thâm độc là chống
không cho dân chủ phát triển.
Nhu cầu thay thế
trật tự luân lý bằng trật tự chính trị
Muốn có một xã hội
dân sự (civil society) vững chắc và phát triển Trung Quốc
cần phải nhanh chóng thay thế trật tự luân lý bằng trật tự chính trị.
Trong tất cả các xã
hội cổ đại và trung cổ, nguồn gốc của tính chính đáng của mọi chính quyền đều
dựa trên ý niệm luân lý. Khi xã hội văn minh phức tạp xuất hiện đồng thời với
những lợi ích cạnh tranh nó mang trong mình thì ý niệm trật tự luân lý phải
nhường chỗ cho ý niệm trật tự chính trị, được thể hiện thể hiện trên thực tế
bằng chế độ pháp trị. Ý niệm trật tự luân lý chỉ phù hợp với một xã hội có cấu
trúc đơn giản. Đối với Trung Quốc, trật tự truyền thống là trật tự luân lý
do Khổng Tử sáng tạo, và trật tự này đã kéo dài tới thời kỳ hiện đại. Nhưng rồi
trật tự này cũng bị sói mòn qua thời gian và người Trung Quốc đã thấy ở chủ
nghĩa Marx- Lenin một lợi khí mới để thay thế. Chủ nghĩa Marx-Lenin-Mao Trạch
Đông không những đã thay thế giáo lý Khổng Tử mà còn khai thác cả những kẽ hở
của giáo lý này đến mức tối đa.
Mao Trạch Đông
chết, chủ nghĩa Mác-Lê-Mao cũng chết theo. Đặng Tiểu Bình cố cứu vãn tình thế
bằng cách đưa ra chiêu bài “bốn hiện đại hóa” để xây dựng lại chính danh lãnh
đạo. Tuy nhiên, vì chiêu bài này chưa rứt khoát được hẳn với cái căn bản trật
tự luân lý của Khổng Tử nên chính danh lãnh đạo vẫn chưa vực dậy được.
Thời đại ngày nay
là thời đại của cá nhân chủ nghĩa, của tự do và nhân quyền. Những giá trị này
đã trở thành phổ quát và đã làm cho nhân loại tiến bộ. Ý niệm trật tự luân lý
đặt trên căn bản gia đình lửng lơ giữa cá nhân và cộng đồng, sẽ không còn hợp
thời với nền văn minh hiện đại. Cho nên nó không thể cung cấp chính danh cho
tập đoàn cai trị của Trung Quốc hiện nay.
Sự ổn định bằng bạo
lực chỉ có thể là một sự ổn định giả tạo, không giúp ích được gì cho nhu cầu
dân chủ hóa chế độ và cho nhu cầu bồi đắp một nền kinh tế khả trì cần thiết cho
vị thế siêu cường.
Đi tìm một căn bản
cho chính danh lãnh đạo
Tại Trung Quốc hiện
nay, sự phát triển kinh tế không đủ để chống đỡ cho chính danh lãnh đạo. Chiêu
bài tạm thời: “Xây dựng một chế độ XHCN với đặc tính Trung Quốc” của Đặng Tiểu
Bình, đã không còn sức lôi cuốn.
Để thay thế ý thức
hệ cộng sản lỗi thời, nhiều người đã nghĩ đến chủ nghĩa dân tộc (nationalism).
Tuy nhiên đối với Trung Quốc, tìm được một chủ nghĩa dân tộc có thể áp dụng cho
mọi loại sắc tộc sống trên lãnh thổ không phải là chuyện dễ thực hiện.
“Ý thức về căn
cước” của dân tộc Trung Hoa thường phát xuất từ niềm hãnh diện về một nền văn
minh đã có một thời kỳ sáng chói. Tuy nhiên bên cạnh sắc thái này cũng còn
những ý thức về thân phận thiểu số (bộ tộc) và ý thức về sự khác biệt giống
nòi. Đất nước Trung Quốc là một lục địa rộng lớn có chung một nền văn minh
nhưng được hợp thành bởi một số dân tộc khác nhau và ngang bằng nhau về phương
diện kích thước. Cho nên ý thức về quốc gia-dân tộc không bình thường như đối
với các quốc gia khác.
Chủ nghĩa dân tộc
hiện đại của Trung Quốc được những người cộng sản xây dựng trên một mặc cảm mà
bất cứ người Trung Hoa nào cũng có. Đó là mặc cảm bị “ăn hiếp” trong hơn 150
năm bởi những thế lực nước ngoài. Mặc cảm này biến thành lòng hận thù ngoại
nhân (xenophobia) được người cộng sản khai thác tối đa. Nói khác, đó là “tinh
thần bài ngoại”, mẫu số chung của những người sinh sống trên Hoa lục hiện nay.
Tuy nhiên, tinh
thần bài ngoại không thể nào dùng làm căn bản cho chủ nghĩa dân tộc vì chủ
nghĩa này đòi hỏi phải có những tư tưởng, gía trị và khát vọng, vừa đặc trưng
cho dân tộc vừa không đi ngược lại những tiêu chuẩn chung của nhân loại.
Người Trung Quốc
biết họ có một lịch sử lẫy lừng và tiên tiến. Họ cũng không quên là đã có một
thời gian bị sự thống trị của ngoại nhân, nhưng họ chưa chứng minh được là họ
có những sắc thái cấu thành một quốc gia (nation-state) theo nghĩa bình thường
như các quốc gia khác.
Quan điểm hiện tại
của người dân Trung Quốc về ý niệm quốc gia là một quan điểm bệnh hoạn. Thế
giới cần có một quan điểm lành mạnh hơn trong đó mọi sắc tộc trên đất nước
Trung Hoa đều có chỗ đứng và được tôn trọng, để nhân loại có thể đón nhận vào
cộng đồng thế giới.
Muốn đi đến một ý
niệm quốc gia lành mạnh, Trung Quốc nhất thiết phải đi đến một hình thái dân
chủ nào đó, một hình thái tượng trưng cho ý niệm quốc gia theo nghĩa tự nhiên
và thông thường của cộng đồng quốc tế. Và muốn được như vậy, hệ thống chính trị
lại phải “mở cửa” thêm lần nữa để mọi thành phần dân tộc có thể đi đến một mẫu
số chung mà nhân loại chấp nhận được.
Với hơn 60 năm độc
tài toàn trị, người ta có cảm tưởng là tại Trung Quốc ngày nay cả hai bên thống
trị và bị trị đều đã chán ngấy trò chơi chuyên chính. Cho nên thời gian này
đang được nhiều người nhận đinh là cơ hội chín muồi cho một cuộc chuyển hoán
thuận lợi về phía dân chủ mà toàn dân mong đợi.
Nguyễn Cao Quyền
Tháng 9 năm 2014
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment