Monday, December 31, 2012

HIẾN PHÁP NHÂN BẢN VÀ DÂN CHỦ, NỀN TẢNG VÀ LÝ TƯỞNG KIẾN TẠO VIỆT NAM XỨNG ĐÁNG VỚI CON NGƯỜI (1)


 

[Attachment(s) from Huu Dong Nguyen included below]

Trân trọng kính chuyển.

NHDong

 

HIẾN PHÁP  NHÂN   BẢN   VÀ   DÂN   CHỦ, 

NỀN TẢNG VÀ LÝ TƯỞNG KIẾN TẠO VIỆT NAM XỨNG ĐÁNG VỚI CON NGƯỜI (1)

 

 

                                                                                                                                                            NGUYỄN HỌC TẬP

 

I - Tự do thuyết lý và tự do thực hữu, tự do tiêu cực và tự do tích cực.

 

Muốn thay đổi cơ chế ( hay tổ chức hành chánh : lập pháp, hành pháp, tư pháp) của một Quốc Gia, chúng ta cần thay đổi thể chế     ( quan niệm và lý tưởng) định hướng để tổ chức cơ chế của Quốc Gia đó.

Thỉnh thoảng đó đây, trên báo chí cũng như trên các Diển Đàn Điện Toán, chúng ta thường nghe một vài người đề nghị Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam bải bỏ điều 4 Hiến Pháp XHCN của họ, để đi đến một tổ chức lý tưởng cho Việt Nam trong tương lai.

Có thật, nếu Cộng Sản Việt Nam chịu bải bỏ điều 4 Hiến Pháp XHCN hiện hành ở Việt Nam, là chúng ta có thể tổ chức được cho Việt Nam cơ chế Quốc Gia lý tưởng cho đồng bào chúng ta trong tương lai không?

 

A - Tự do thuyết lý và tự do thực hữu

Điều đó còn tùy chúng ta có thấy phần còn lại của Hiến Pháp 1992 của XHCNVN là thể chế lý tưởng để định hướng tổ chức Quốc Gia chúng ta trong tương lai không?

Nói cách khác, trong Hiến Pháp 1992 hiện hành của XHCNVN có những điều khoản Nhân Bản và Dân Chủ như lý tưởng mà chúng ta mong muốn cho tương lai đất nước và có những điều khoản nào  bảo đảm thực thi những gì Hiến Pháp tuyên bố?

Tuyên bố suông bằng cách " sao y bản chánh" các điều khoản Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền LHQ, ai cũng làm được:

" Tự do cá nhân bất khả xâm phạm",

" Tự do gia cư bất khả xâm phâm",

" Tự do ngôn luận và tự do hội họp là những quyền bất khả xâm phạm",

" Mọi người đều có quyền tự do di chuyển"...…

Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền LHQ chỉ nêu lên những quyền tối thiểu bất khả xâm phạm, mà bất cứ Quốc Gia thành viên nào cũng phải tuân giữ. Nhưng những quyền ở mức tối thiểu đó là những điều kiện sống Nhân Bản tối thiểu  mà con người phải có, chớ chưa phải là lý tưởng mà một cá nhân mong đạt đến. 

Và " sao y bản chính" để tuyên bố như vậy, ai cũng tuyên bố được, nhưng đó chỉ là cách tuyên bố "tự do thuyết lý " (liberté formelle), tuyên bố miệng và tuyên bố trên giấy tờ.

Ai chịu trách nhiệm đứng ra bảo đảm khi các quyền vừa kể không được tôn trọng và thực thi?

Tuyên bố và quy trách cho những ai sẽ chịu trách nhiệm trước Hiến Pháp trước tiên và trước luật pháp kế tiếp, đặt các điều kiện phải có để thực hiện và quy trách tội trạng đối với những ai không thi hành,  mới là phương thức biến các quyền tự do được bảo đảm thuyết lý thành "tự do thực hữu" ( liberté substantielle), có thật.

Sau khi xác nhận ở đoạn 1

 

" Nhân phẩm con người bất khả xâm phạm" ( Điều 1, đoạn 1 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).

 

Kế đến Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức còn phải quy trách cho các cơ chế Quốc Gia phải chịu trách nhiệm thực thi những quyền mà Hiến Pháp đứng ra bảo đảm trước mọi người, nếu không muốn tuyên bố để mà tuyên bố:

 

" Những quyền căn bản được kể sau đây có tính cách bắt buộc đối với lập pháp, hành pháp và tư pháp, như là những quyền có giá trị bắt buộc trực tiếp" ( Điều 1, đoạn 3, id.).

 

Nếu nhân phẩm con người bị vi phạm và con người không thực sự hưởng các quyền căn bản của mình, tổ chức Quốc Gia là chủ thể phải chịu trách nhiệm đầu tiên, bị Hiến Pháp quy trách cho có trách nhiệm trực tiếp, " là những quyền có giá trị bắt buộc trực tiếp", có nghĩa là những quyền người dân có thể kỳ vọng phải được thực hiện cho họ ( actionables), bằng cách nhờ cơ quan tư pháp hay Viện Bảo Hiến đứng ra bảo chứng.

Cũng vậy,  sau khi tuyên bố người làm  việc phải được bảo đảm an sinh xã hội, những người tàn tật và kém khuyết có quyền được nuôi sống và trợ cấp xã hội để có được một đời sống xứng đáng với nhân phẩm con người, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc quy trách:

 

" Các bổn phận của Quốc Gia được kể trên đây sẽ được giao cho các tổ chức và cơ chế sẽ được thiết lập hay sẽ được chính tổ chức Quốc Gia bổ khuyết " ( Điều 38, đoạn 4 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).

 

Tuyên bố Nhân Bản và Dân Chủ, tiên liệu phương tiện để thục hiện và quy trách cho ai là chủ thể chịu trách nhiệm. Đó mới là khuôn mẫu Nhân Bản và Dân Chủ thực hữu, không nói để mỵ dân.

Hiến Pháp 1992 XHCNVN có những điều khoản tương tợ quy trách cho Nhà Nước hay " Đảng và Nhà Nước" trách nhiệm bảo đảm các quyền bất khả xâm phạm của con người, và nếu " Đảng và Nhà Nước mình " không thực thi, thiếu trách nhiệm, làm việc tắc trách, bè đảng, thiên vị, Hiến Pháp có tiền liệu cơ quan nào là cơ quan có thẩm quyền " xách lỗ tai Đảng và Nhà Nước" không?

Ai bảo đảm được " Đảng và Nhà Nước mình" không sai lầm, làm việc tắc trách, không bè phái thiên vị ức hiếp người dân?

 

B - Tự do tiêu cực và tự do tích cực.

Chúng tôi chưa bàn đến nội dung quan niệm về nhân phẩm con người thế nào trong Hiến Pháp 1992 XHCNVN, mà chỉ mới  đề cập đến hình thức tuyên bố.

Lần đọc những điều khoản tuyên bố về quyền và tự do của người dân, chúng ta sẽ thấy rằng Hiến Pháp 1992 XHCNVN chỉ tuyên bố một loạt các quyền dưới hình thức tiêu cực, như những gì chúng tôi trích dẫn ở trên.

Tuyên bố " Tự do cá nhân bất khả xâm phạm" là hình thức tuyên bố tiêu cực, đồng nghĩa với phía bên kia, " phía bên Chính Quyền hay cá nhân khác " " không được xâm phạm, có bổn phận phải tôn trọng ". Người dân được " tự do khỏi, liberté de..."…, bị người khác xâm phạm.

Nhưng người dân trong một Quốc Gia không phải chỉ có mức sống luôn luôn phòng thủ tiêu cực "khỏi bị người khác xâm phạm ", người khác đó là Chính Quyền hay tư nhân cũng vậy , mà còn phải có cơ hội và điều kiện thuận tiện ho phép mình tự do phát triển con người của mình và cộng tác phát triển, đem lại thịnh vượng cho chính mình và cho đồng bào mình , " tự do tích cực, liberté à..., tự do để làm một cái gì).

Đó là những gì Hiến Pháp 1947 Ý Quốc nêu lên ở một trong những điều khoản đầu tiên của Hiến Pháp, đặt ở vị trí quan trọng nổi bậc:

 

" Bổn phận của nền Cộng Hoà Dân Chủ là dẹp bỏ đi những chướng ngại vật về phương diện kinh tế và xã hội, là những chướng ngại, trong khi giới hạn thực sự tự do và bình đẳng của người dân, không cho phép họ triển nở hoàn hảo con người của mình và tham dự một cách thiết thực vào tổ chức chính trị, kinh tế và xã hội của xứ sở" ( Điều 3, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).

 

Hay " Mọi công dân đều có quyền tự do gia nhập thành chính đảng để cộng tác theo phương thức dân chủ  định đoạt  đường lối chính trị Quốc Gia" ( Điều 49 , id.)

 

Như vậy tổ chức cơ chế Quốc Gia không những " không được cấm đoán", " không được xâm phạm" các quyền tự do của người dân hay người dân có tự do khỏi bị Quốc Gia cấm đoán ( liberté de...) quyền tự do gia nhập hội , mà chính tổ chức Quốc Gia còn tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích, " dẹp bỏ đi những chướng ngại vật ", để người dân có thể xử dụng quyền  tự do nhập hội và hội họp của mình,  hành động mưu ích cho mình và cho Cộng Đồng Quốc Gia, tự do tích cực để, tự do để làm một việc gì … ( liberté à...…):

 

"...tự do cộng tác theo phương thức dân chủ định đoạt đường lối chính trị quốc gia, "( Điều 49, id.).

 

Thể chế tốt đẹp hơn cho tương lai Việt Nam không những cần phải có những điều khoản bảo đảm dưới hình thức tiêu cực, mà còn quy trách cho Quốc Gia tạo điều kiện vật chất và phương thế thích hợp, để khuyến khích người dân thăng tiến chính mình và cộng tác phát triển cho xứ sở đến văn minh và phú cường.

Hiến Pháp 1992 Cộng Sản Việt Nam có những điều khoản như vậy không?

 

II - Thể chế Nhân Bản trong Hiến Pháp.

 

A - Thể chế độc tài là thể chế chống con người, trước khi chống thể chế dân chủ.

Đọc các Hiến Pháp Tây Âu, nhứt là Hiến Pháp 1947 Ý Quốc và 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức, hai Hiến Pháp thoát xuất từ hai chế độ độc tài của Mussolini và Hitler, điều nổi bậc mà ai cũng thấy được, đó là tính cách Nhân Bản của người dân Âu Châu.

Trong quan niệm thường nhật, chúng ta thường đặt đối ngược nhau quan niệm Quân Chủ và Dân Chủ, Độc Tài và Tự Do.

Dường như Quân Chủ hay Độc Tài là những phương thức tổ chức hành quyền chống Dân Chủ hơn là chống Con Người, đàn áp và nô lệ hoá Con Người, đê tiện hoá nhân phẩm Con Người, không tôn trọng Nhân Bản.

Quan niệm Độc Tài, phương thức hành quyền chống Dân Chủ,  là quan niệm  không chính xác.

Bất cứ cách hành xử quyền bính Độc Tài nào cũng là cách  thức lạm  dụng quyền lực chống Con Người trước tiên, chống các quyền và tự do bất khả xâm phạm của Con Người, trước khi chống lại "phương thức tổ chức quyền lực  Quốc Gia dựa trên sự đồng thuận của người dân " hay Dân Chủ.

Đó là những gì được ghi trong hai Bản Tuyên Ngôn của hai cuộc Cách Mạng đưa đến tổ chức văn minh của nhân loại hiện nay, Cách Mạng Độc Lập Hoa Kỳ và Cách Mạng Pháp Quốc 1789:

 

   - Tất cả mọi người đều được dựng nên bình đẳng như nhau.

  Tất cả đều được Đấng Tạo Hóa ban cho một số quyền bất khả nhượng.

 Trong các quyền nầy, quyền được bảo toàn mạng sống, quyền tự do tìm kiếm hạnh phúc là các quyền thượng đẳng" ( Tiền Đề Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ 1776).

 

- "Các đại diện đồng thanh tuyên bố rằng: các quyền của con người do Thiên Phú, bất khả nhượng và cao qúy " ( Tiền Đề Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Quyền Công Dân Cách Mạng Pháp Quốc 1789).

 

Như vậy, lý do mà người dân nổi lên làm Cách Mạng, chống Quân Chủ, chống Độc Tài là để bênh vực Con Người bị chà đạp, đê tiện hóa và nô lệ hóa Con Người, để bênh vực Nhân Bản của mình.

Thừa hưởng tinh thần Nhân Bản trên, các vị soạn thảo  hai Hiến Pháp 1947 Ý Quốc và 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức ( CHLBĐ)  khởi đầu viết Hiến Pháp bằng cách quan niệm  Con Người phải được đặt  ở địa vị trung tâm điểm và tối thượng trong tổ chức cơ chế Quốc Gia, chống lại quan niệm coi con người như thú vật, bị đánh đập, tra tấn và lùa vào các lò sát sinh hay hầm chôn tập thể dưới  chế độ độc tài Hitler và Mussolini.

Nói cách khác,tổ chức Quốc Gia được thành lập  để phục vụ con người chớ không ngược lại.

Trong quan niệm đó, Hiến Pháp 1949 CHLBĐ tuyên bố về con người ngay ở điều khoản đầu tiên của Hiến Pháp:

 

" Nhân phẩm con người bất khả xâm phạm " ( Điều 1, đoạn 1 Hiến Pháp CHLBĐ).

 

Và liên tục tuyên bố về các quyền căn bản bất khả xâm phạm của con người, phương thức liên hệ để bảo vệ liên tiếp trong 19 điều khoản kế tiếp, trước khi định nghĩa thể chế và kết cấu tổ chức Quốc Gia như là dụng cụ để bảo đảm, thực thi và tạo điều kiện thích ứng để phát triển con người từ điều 20 trở đi.

Hành xử như vậy, các vị soạn thảo Hiến Pháp 1949 CHLBĐ muốn đặt vị trí nổi bậc của con người trong tổ chức Quốc Gia.

 

Con người ở địa vị tối thượng và trung tâm điểm của tổ chức Quốc Gia.

 

Mục đích hiện hữu của tổ chức Quốc Gia là phục vụ con người, giúp cho con người đạt được những gì mà cuộc sống riêng tư của mỗi cá nhân không có điều kiện và phương tiện để thực hiện.

Cho đến bao giờ, Quốc Gia chưa có được một thể chế định hướng để tổ chức đất nước đặt trên nền tảng trên tôn trọng Nhân Phẩm, Quốc Gia đó còn chất chứa tranh chấp, lường lọc, chia rẻ, lấn áp, trả thù phục hận, là địa ngục trần gian.

Bởi lẽ thể chế và cơ chế của  Quốc Gia tổ chức chống lại Bản Tính con người, chống lại các ước vọng tự nhiên về tự do và bình đẳng, do chính bản tính con người đòi buộc.

Chế độ của Hitler và Mussolini đã minh chứng.

Đó là những gì Hiến Pháp 1949 CHLBĐ tuyên bố kế tiếp trong cùng một điều khoản đầu tiên của Hiến Pháp:

 

" Như vậy dân tộc Đức nhìn nhận các quyền bất khả xâm phạm và bất khả nhượng của con người như là nền tảng của mọi cộng đồng nhân loại, của hòa bình và công chính trên thế giới" ( Điều 1, đoạn 2 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).

 

Cũng vậy, Hiến Pháp 1947 Ý tuyên bố về con người từ điều 2 đến điều 54, trước khi xác định phương thức tổ chức cơ chế Quốc Gia  như là phương thức tổ chức để bảo đảm thực thi lý tưởng Nhân Bản, mà các điều khoản kế tiếp của  Hiến Pháp sẽ tuyên bố.

Ngay ở điều 2 của Hiến Pháp, địa vị con người được đặt trên một vị trí nổi bậc:

 

" Nền Cộng Hoà nhận biết ( riconosce) và bảo vệ ( garantisce) các quyền bất khả xâm phạm của con người, con người như cá nhân hay con người như thành phần xã hội, nơi con người phát triển nhân cách của mình " ( Điều 2, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).

 

B- Con người và người công dân.

Các vị soạn thảo của hai Hiến Pháp 1947 Ý Quốc và 1949 CHLBĐ đã dùng chữ rất chính xác để nói lên tư tưởng quan trọng mà các vị đã đặt vào những dòng đầu của Hiến Pháp.

Các vị đã dùng từ ngữ " con người ", thay vì " người công dân" để nói lên tư tưởng nhân bản tối thượng mà mọi người phải tôn trọng:

 

- " Nhân phẩm con người bất khả xâm phạm" ( Điều 1, đoạn 1 Hiến Pháp CHLBĐ),

 

- " Nền Cộng Hoà nhận biết và bảo vệ các quyền bất khả xâm phạm của con người..." ( Điều 2, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).

 

        ( 1 ) - Con Người.

 Khi đề cập đến "con người "   là chúng ta đề cập đến những đặc tính được cấu tạo do chính bản tính của con người xác định.

"Con người " đó bất cứ là ai, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào.

Hể đã là người, chúng ta đều có nhân vị và nhu cầu như nhau, cần phải được kính trọng và thoả mãn, không phân biệt màu da, sắc tộc, ngôn ngữ, chính kiến, tôn giáo, địa vị cá nhân và xã hội:

 

" Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.

Người nam và người nữ đều ngang hàng nhau, đối với các quyền của mình.

Không ai có thể bị thiệt thòi hay được ưu đãi do phái tính, sinh trưởng, giòng giống, ngôn ngữ, quốc gia hay nguồn gốc, tín ngưỡng, lòng tin tôn giáo hay chính kiến" (Điều 3, đoạn 1,2 và 3 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).

 

Tư tuởng trên cắt nghĩa tại sao người Đức không tuyên bố " trên lãnh thổ Đức  …"     hay "đối với dân tộc Đức, nhân phẩm con người bất khả xâm phạm", mà chỉ tuyên bố một câu ngắn ngủi như là một mệnh lệnh phải tôn trọng:

 

" Nhân phẩm con người bất khả xâm phạm" ( Điều 1, đoạn 1, id.).

 

Mệnh lệnh của dân tộc Đức đã quá rõ: " Nhân phẩm con người bất khả xâm phạm", bất cứ con người đó là ai và " bất khả xâm phạm " là điều bắt buộc đối với bất cứ ai, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, nếu những người đó muốn có một cuộc sống hòa bình và thân hữu đối với dân tộc Đức, vì đó

 

"...…là nền tảng của mọi cộng đồng nhân loại, của hòa bình và công chính trên thế giới" (Điều 1, đoạn 2, id.).

 

Nói cách khác, những thể chế và những ai hành xử theo những thể chế không tôn trọng nhân phẩm con người là những ý thức hệ và con người không thể nào có một cuộc sống cộng tác hòa bình và thân hữu với dân tộc Đức.

Bởi lẽ nếu họ không tôn trọng nhân phẩm con người, là họ miệt thị những giá trị mà dân tộc Đức đặt lên hàng đầu trong cuộc sống của mình.

 

       ( 2 ) - Người Công Dân.

Như trên đã nói, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc và Hiến Pháp 1949 CHLBĐ dùng danh từ " con người " thay vì " người công dân", để nói lên tính cách phổ quát của lý tưởng nhân bản mà bất cứ ai cũng phải được tôn trọng và đối với bất cứ ai.

Trong chính trị học, khi đề cập đến " người công dân" là chúng ta nói đến người dân liên hệ với một tổ chức Quốc Gia cá biệt, có thể chế, luật lệ và cơ chế đặc thù. Khi nói đến người công dân Ý chẳng hạn, là chúng ta đề cập đến người dân vừa kể liên quan đến tổ chức Quốc Gia Ý.

Quyền và nhiệm vụ của người dân do đó tùy theo luật pháp Quốc Gia Ý quy định.

Chúng ta đã thấy rằng Hiến Pháp 1947 Ý Quốc đề cập đến địa vị và các quyền căn bản bất khả xâm phạm của con người từ điều 2- 54 và Hiến Pháp 1949 CHLBĐ, từ điều 1-19, trước khi định nghĩa thể chế chính trị và phương thức tổ chức cơ chế quyền lực Quốc Gia từ điều 20 trở đi.

Trái lại Hiến Pháp 1977 Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết chỉ đề cập đến " người công dân" của họ từ điều 33 trở đi, sau khi đã bàn thảo về thể chế chính trị ( điều 1-9), hệ thống kinh tế ( 10-18), phát triển xã hội và văn hóa ( 19-27), chính sách ngoại giao ( 28-30) và chính sách bảo vệ Quốc Gia và Chủ Nghĩa Xã Hội ( 31-33).

Điều đó cho thấy người dân được ý thức hệ Cộng Sản ban cho một chỗ đứng nào trong quan niệm tổ chức quốc Gia của họ.

Còn nữa, nếu Hiến Pháp 1947 Ý Quốc và 1949 CHLBĐ cũng như các Hiến Pháp Tây Âu đề cập đến " con người ", thì Hiến Pháp Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết  chỉ đề cập đến " người công dân".

Và nếu Hiến Pháp 1947 Ý Quốc tuyên bố

 

" nhận biết và bảo đảm các quyền bất khả xâm phạm của con người…" ( Điều 2),

 

vì là những quyền " …được Đấng Tạo Hoá ban cho…" (Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ 1776)

hay " là những quyền của con người do Thiên Phú bất khả nhượng và cao qúy" ( Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Quyền Công Dân Cách Mạng Pháp 1789),

thì đây là những gì Hiến Pháp 1977 Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết ban cho " người công dân" của họ:

 

" Nhân dân Sô Viết ( hay Đảng Cộng Sản Sô Viết cũng vậy) được hướng dẫn bằng tư tưởng Cộng Sản Chủ Nghĩa khoa học và trung thành với các truyền thống Cách Mạng…xác định nền tảng của chế độ xã hội và chính trị của Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết, thiết định các quyền, tự do và bổn phận bắt buộc đối với người công dân, các nguyên tắc tổ chức và mục đích cho Quốc Gia Xã Hội Chủ Nghĩa của toàn dân" ( Tiền Đề, đoạn XIV Hiến Pháp 1977 Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết".

 

Như chúng ta vừa nói, khi đề cập đến " người công dân", là chúng ta đề cập đến người dân có liên hệ với tổ chức Quốc Gia. Quyền và bổn  phận của người dân tùy thuộc vào sự quyết định của thể chế và cơ chế Quốc Gia.

Đó là điều mà Hiến Pháp 1977 Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết tuyên bố:

 

" Nhân dân Sô Viết ( hay Đảng CS Sô Viết) …thiết định quyền, tự do và bổn phận bắt buộc đối với người công dân" ( Tiền Đề, đoạn XIV, Hiến Pháp 1977 Cộng Hoà Liên Bang So Viết)

 

Điều đó chứng tỏ rằng con người sống dưới chế độ Cộng Sản chỉ là "người công dân "liên hệ với tổ chức Quốc Gia Cộng Sản. Các quyền và tự do cũng như bổn phận phải do Đảng Cộng Sản " thiết định" cho mới có.

Và vì Đảng Cộng Sản có quyền " thiết định" các quyền và tự do của người dân họ, nên ai sống ngoài tổ chức của Cộng Sản, những ai không chấp nhận thể chế và cơ chế Cộng Sản, là người không được thể chế luật pháp Cộng Sản " thiết định".

Điều đó có nghĩa là những ai chống lại thể chế và cơ chế Cộng Sản, những nhà ly khai chẳng hạn, là những người không có được một quyền và tự do nào: Cộng Sản có thể tiêu diệt họ.

Ngoài ra nếu giới hành quyền Cộng Sản có quyền " thiết định" quyền và tự do của người dân, thì họ cũng có quyền " không thiết định", hay " thiết định nhiều hay ít và lúc nào tùy hỷ" : họ có thể giãm bớt hay truất hữu quyền làm người của những ai sống dưới chế độ Cộng Sản.

Hay nói như Linh Mục Tiến Sĩ Hortz S.J, giáo sư Luật Hiến Pháp tại đại học Gregoriana ( Roma):

 

- " Trong thể chế Cộng Sản không có con người" ( Hortz S.J., La Nuova Costituzione Sovietica, in Civiltà Cattolica, 1978, 40).

 

( còn tiếp )

Đảng CSVN phiên bản của tình báo TQ - Kỳ 10


 

Đảng CSVN phiên bản của tình báo TQ - Kỳ 10 


 


“…Lý cớ nào Bộ Chính Trị, Quân Ủy Trung Ương Ðảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) mãi đến hôm nay chưa bạch hóa các tài liệu trong văn khố của Ðảng và Quân Ðội Nhân Dân (QÐND) để phản bác những hồi ký hay xác nhận chứng thực của Chu Ân Lai…”

 

 

Từ 1944 đến 1949, Liên quân Pháp và Việt Minh nằm trong thế "mèo vờn chuột" chiến tranh du kích. Ở thời điểm nàytoàn bán đảo Đông Dương vẫn còn là thuộc địa của Pháp, riêng kinh tế miền Bắc xuống thấp, trước ngưỡng cửa báo động nạn đói lần thứ hai, và chiến tranh đe dọa người dân khốn cùng.

Phần lớn ruộng đồng miền Bắc vốn đã hẹp, nay gánh thêm mệt mỏi vì bom đạn cầy xới để lại hố bom, mìn cài, bàn chông thép hay tầm vông trên mỗi cánh đồng. Về tâm lý người dân không cảm tình người Pháp bởi gót giày đinh gõ vào mặt đất quê hương trên 80 năm, tâm khảm đau lòng, khao khát nền độc lập, nguyện vọng đơn sơ của người dân được quyền sống làm người tự do, và ngay cả hy sinh bản thận để đổi lấy hòa bình. Người dân Việt Nam đã từng lên tiếng bãi quyền đô hộ của Pháp, người dân muốn tự quyết định vận mệnh đất nước. Tuy nhiên ước vọng của người dân không được toại nguyện, cuối cùng CSVN đã lợi dụng được điểm yếu của người dân yêu nước. [1]


Dân công gồm Nữ giới, người già, thiếu niên,Nam giới xe đạp thồ tải lương thực, vũ khí, đạn dược v.v... cho chiến dịch Thu Đông năm 1953 và Xuân 1954 "Điện Biên Phủ". Nguồn:THX.

Mỗi dân công, gánh trên vai hơn 40 kilô, đi bộ 30 dặm đường rừng, xe đạp thồ hơn 100 kilô. Chiều tà dân công lên đường, sáng hừng nắng đến mật khu Việt Minh. Chủ yếu tải lương thực, súng cối tháo rời và đạn được. Ngoài ra còn có các khẩu pháo lớn do Nga viện trợ, được tháo rời, và khiêng trên vai chuyển đến biên giới cách Điện Biên Phủ hơn 350 dặm. Những đoàn người dân công (lao động không công) chỉ ăn mỗi ngày 6 vắt cơm muối, họ trực tiếp tham gia vào chiến dịch Điện Biên Phủ, qua sự đánh giá của đảng CSVN cho rằng "dân công" thuộc vào phạm trù dân phu của CS. Họ không chăm sóc gì đến dân công và những thảm kịch quá bi thương đã diễn ra: có người kiệt sức, quị thân xuống đất, bỏ xác tại rừng sâu, nhiều người không chịu đựng được sức nặng trên vai đành bỏ trốn, mã tấu Việt Minh lấy mạng sống. Dân công chịu sức tải quá nặng đi chậm chạp mã tấu cũng không tha, những ai từ chối đi dân công đều sống không qua khỏi một đêm.

Đến tháng 04 năm 1953, quân báo, trinh sát của liên quân Pháp, phát hiện những đoàn dân công tải đạn, vũ khí tháo rời, vượt qua những cánh đồng, nối vào đường mòndẫn đến núi cao an toàn khu Việt Minh. Từ đó liên quân Pháp tìm hiểu hiện tượng dân công, và tăng cường tuần tra, thực hiện mật lệnh"chiến dịch bẩn" cản trởdân công, đột kích vào quân Việt Minh, tạo sức ép hậu phương giảm thiểu chi viện chiến trường chưa thành hình.


Liên Quân Pháp phát hiện, bắt được nhiều cánh dân công tải lương thực, đạn dược, vũ khí tháo rời, chuyển đến cho quân Việt Minh. Dân công lúc nào cũng bị đe dọa từ hai phía, mỗi khi liên quân Pháp phát hiện, tịch thu, và chuyển họ đến vùng chính quyền Pháp.
Nguồn: MSS.

Đến lúc Việt Minh cần dân công, không bỏ lỡ cơ hội, đem Ngũ kế sách (然的) ra thực hiện.1-Khích động xã hội tranh chấp (鼓励社会纠纷), và kế sách 4- Tp trung lao động (专注于劳动). Vit Minh tuyên truyn khích động lòng dân yêu nước, cầm vũ khí chống Pháp,những lớp son CS phết lên thân thể dân tộc Việt Nam đầy viễn tượng, hứa hẹn tương lai đất nước tự do, hạnh phúc.

Việt Minh tuyên truyền, gieo vào lòng dân một thứ hạt quả tự do, hạnh phúc không bao giờ có. Vốn lớn nhất của CS tính khí gian dối, đứng riêng một cõi học tập thói tranh đua địa vị, tố cáo lẫn nhau, thượng đội hạ đạp, giành giựt từng miến ăn. Nay họ thừa biết những lời gian dối chỉ để lừa bịp được một lúc, khi người dân chưa am tường sự việc. Tuy nhiên cũng có người tối tăm tham gia vào Việt Minh thông qua tuyên truyền, chưa hề biết ý thức hệ chủ nghĩa Mác-Lenin. Việt Minh còn lợi dụng nạn đói đưa người dân nông thôn đến gần CS, đẩy nông dân vùng lên chống lại địa chủ, cải cách ruộng đất, một chính sách bẩn thỉu của Hồ Tập Chương (HCM). Từ năm 1940-1953, thực tế đối với người dân rất khó hiểu về Hồ Tập Chương (HCM), đến nỗi không ai hình dung được chân thiện mỹhay vô đạo đức của một con người muôn mặt ! Bởi thế người dân nói cho nhau nghe "Sợ nhất mã tấu HCM). Người dân biết rằng tự trái với lòng, dù không ưa HCM, vẫn phải hô lớn tiếng: HCM... và đem thân làm dân công vì mã tấu khủng bố. Một bất thường khác, Việt Minh chọn mã tấu làm vũ khí khủng bố dân lành. [2]


Người dân miền Bắc di tản tránh chiến tranh,
kể cả Mường Thanh dời cư ra khỏi thung lũng Điện Biên Phủ.
Nguồn: National Geographic Magazine, và MSS.

Cố vấn CS Trung Quốc tiếp tục lên kế hoạch cho từng trận chiến, chuẩn bị đối đầu với liên quân Pháp, do Soái tướng Vi Quốc Thanh (韦国清) ch huy, Đại tướng Trần Canh (陈能) đệ nht phó tướng, Đại tướng Lã Quý Ba (罗贵波)đệ nhị phó tướng. Những cố vấn đề ra chiến lược bao vây, quét sạch Hà Nội, Đông khê, Nam Ðịnh, Vinh, Thất Khê, Cốc Xá và Huế.

Võ Giáp đề nghị kế hoạch tiến quân trước vào Đông Khê. Phó tướng Trần Canh được lệnh duyệt lại kế hoạch của Võ Giáp, ông xem qua liền phán rằng: "Giáp thiếu khả năng đánh Đông khê". Và chỉ trích Giáp: "Thân làm tướng nóng đầu, khác nào phụ nữ mang thai".

Ngày 6 tháng 05 năm 1953. Một lần nữa, những cố vấn Trung Quốc khuyến khích đảng CS Việt Nam lấy quyết định chuyển hướng theo kế hoạch tấn công Điện Biên Phủ. Mục đíchchiến thắng để làm áp lực lên hội nghị Genève 1954. Trên lý thuyết đảng CS Trung Quốc và Liên Xô làm cha đở đầu cho Việt Minh trên trường Quốc tế. Riêng đảng CSTQ đã nhanh chóng chuẩn bị mọi phương tiện, đáp ứng nhu cầu chiến tranh Việt Nam.

Mao Trạch Đông lấy tư cách lãnh đạo khối Á Châu động viên đảng CS Việt Nam, chọn lấyquyết định sớm hơn để tấn công vào liên quân Pháp tại Điện Biên Phủ. Mao rất chú ý đến mặt trận Điện Biên Phủ, trên bàn làm việc lúc nào cũng có bản đồ VN. Ông vẽ lên từng điểm chiến lược, chiến thuật, ông hối thúc Lưu Thiếu Kỳ chuyển vũ khí đủ loại đến CS Việt Nam sớm hơn dự liệu.


Bản đồ Điện Biên Phủ, trên bàn của Mao. Nguồn: CPC.

Ngày 16 tháng 12 năm 1953, Chu Ân Lai, bay thẳng đến Lưu Châu hẹn gặp Hồ, tại bộ tham mưu cũ của tướng Trương Phát Khuê. Họ Chu nhấn mạnh: "Nhất định chiến thắng không được bại, quân sự và chính trị phải tuân thủ cướp chính quyền trong tay người Pháp, và hãy thực hiện theo kế hoạch của cố vấn đảng trung ương (CSTQ) để sớm ngày về Hà Nội, đây là công lớn của đồng chí Hồ đối với CS Quốc tế".


Chu Ân Lai, ngày 16 tháng 12 năm 1953,

tại Lưu Châu.Nguồn: CPC.

Chu Ân Lai còn đem theo một bao thư của Mao, gửi đến Hồ Tập Chương đính kèm những lời cảnh cáo, quan trọng nhất về lá thư Hồ mời Mỹ vào Việt Nam, không ngờ Hoa Nam có thư này! Chu còn trương dẫn: "nay đã có Tướng Vi Quốc Thanh (韦国清Wei Guoqing) đối đầu vi liên quân Pháp, thì không cần đến Hoa Kỳ!"


Hồ Chí Minh bí mật chuyển đến nhóm đặc nhiệm tình báo OSS,
mời Hoa Kỳ vào Việt Nam. Ký ngày 28 tháng 2 năm 1946 Hà Nội.

Nguồn:CPC.

Chú ý, trên đầu thư gửi đến chính phủ Hoa Kỳ, là số lưu trữ hồ sơ, nếu tìm hiểu tinh vi hóa ra chính mật mã của CPC. YKB-3139-1, do Mao ghi chú gửi đến Hồ Tập Chương, giải: "- Soái tướng Vi Quốc Thanh (韦国清) nhn mt s lớn vũ khí, trang bị cho quân đoàn đặc nhiệm 303 (trên 3/4 lính Trung Quốc), Sư đoàn 308, và những Sư đoàn dưới sự chỉ huy của cô vấn Trung Quốc.

Đồng chí Hồ tiếp đón những nhóm cố vấn hành chính, họ sẽ ồ ạt kéo vào Việt Nam, nhiệm vụ hướng dẫn cải tạo đất nước mới giải phóng theo tư tưởng cách mạng của Mao. Cố vấn sẽ mặc áo đại cán theo kiểu Mao. Mật lệnh của nhóm cố vấn này "Cách mạng cải tạo, đấu tranh tư tưởng CS Quốc Tế". Nay đồng chí Hồ đã tiếp nhận viện trợ của Liên Xô, không cần thiết phải nhờ đến Hoa Ký, trừ phi đồng chí chệch hướng". [3]

Hồ Tập Chương tiếp nhận được lời cảnh cáo của Mao, lập tức lên đường sang Bắc Kinh, vào ngày 10 tháng 3 năm 1954. Hồ tuân thủ kiểm thảo, và Chu Ân Lai thay mặt xin yết kiến Mao. Hai ngày sau, Hồ được diện kiến. Mao không ngần ngại gọi:

‒ Đồng chí Hồ Chương (胡章 Hu Zhang) hãy nh ci ngun, dù tướng ngoài chiến trường cũng phi nh đến hu phương.

Hồ ngập ngừng đáp:

‒ Thưa, đồng chí Chủ Tịch, ở Việt Nam đôi khi có những tế nhị cần giải quyết khẩn, trong thời gian năm 1946 những liên lạc với cố vấn rất khó, lý do an toàn khu bị liên quân Pháp thường phục kích cắt liên lạc. Công tác bồi dưỡng đảng rất bề bộn, phần nhiều phải đi bộ với giao liên trong rừng, đôi khi cũng quên bẵng việc riêng, trong ấy có thư mời Hoa Kỳ. Xin đồng chí Chủ Tịch cảm thông, nỗi khó ngoài chiến trường, nói không thành lời. Tư tưởng của Chủ Tịch quang minh lúc nào cũng kính mến để trong lòng thương nhớ.

Tình cờ, Chu Ân Lai nghe Mao gọi Hồ Tập Chương bằng một tên mới, (Hồ Chương, 胡章 Hu Zhang), thay vì H Tp Chương hay H Chí Minh (胡志明Hu Zhiming). Sau đó Chu Ân Lai mới biết, tên riêng một thời thơ âucủa Hồ Chương (胡章Hu Zhang)do cho mẹ ban cho, gốc Hẹ, sinh tại Đài Loan;khi 9 tuổi được vào Lục Địa học trường Thiếu Sinh Quân Hoàng Phố, đổi lại tên mới Hồ Tập Chương.

Hồ sơ của 胡章 HuZhang nay còn lưu trữ tại Học viện Hoàng Phố (mã số 1886 胡章).

Sau khi Hồ nhận kiểm thảo sự sai của mình, Mao hài lòng tặng một phần thưởng lớn, hỏi:

– Gần đây đồng chí đã nhận được một lượng lớn ôtô cơ động làm phương tiên chuyên chở,chắc chắn sẽ còn cần nhiều hơn nữa, rồi đây sẽ viện trợ một khối lượng lớn hơn về quân cụ và vũ khí, vật chất lẫn lương thực, muốntương quan lực lượng Bộ binh với liên quân Pháp thì phải như vậy. Đồng chí đến nhờ Lưu Thiếu Kỳ chi viện gấp, cuộc chiến Điện Biên Phủ nhất định phải thắng, đồng chí Hồ cùng 175 cố vấn phải quyết tâm, đây là cuộc chiến cơ hội tốt không nên bỏ lỡ, CS Quốc Tế sẽ vinh danh đồng chí.

Hồ vui mừng, xin thêm viện trợ, vật dụng cần thiết:

‒ Thưa, đồng chí Chủ Tịch, hiện nay cần dụng cụ Rìu xẻ núi, và Xẻng Công binh đào chiến hào, có như vậy mới tiếp cận được quân địch.

‒ Tốt lắm, Công binh sẽ gửi vào chiến trường 15 tấn, Rìu-Xẻng Công binh, cung cấp như vậy có thiếu không?


Ngày 17 tháng 3 năm 1954, Công binh đảng CS Trung Quốc
chuyển đến chiến trường Điện Biên Phủ 15 tấn Rìu-Xẻng.

Nguồn:THX

‒ Thưa đồng chí Chủ Tịch, nếu thiếu đề nghị viện trợ thêm, hy vọng Chủ Tịch chấp thuận.

‒ An tâm không có vấn đề, đồng chí đã một lòng vì Đảng đương nhiên được như ý...

Mỗi khi Mao đàm thoại với các nguyên thủ quốc gia, hay những đàm thoại quan trọng đều được ghi âm, cuộc đàm thoại giữa Mao Trạch Đông và Hồ Tập Chương cũng không ngoại lệ, mật mã đàm thoại (714 泽东, 胡章), lưu tr Hoa Nam. [4]


Nam dân công, khoẻ mạnh kéo pháo,
dùng rìu xẻ núi, xẻng đào chiến hào v.v... - Nguồn: THX.

Ngoài ra CS Trung Quốc, còn di chuyển những đoàn quân chủ lực, thiện chiến tiến vào Việt Nam gồm Sư đoàn 308, 312, 316, 320, 304, trung đoàn 148, 1 Sư đoàn công binh, hầu hết đến từtrường chính trị Nam ninh và Côn minh Vân nam, đượctrang bị vũ khí bazoka, súng phóng lựu, tiểu liên cho hơn 18.000 quân, và 550 ôto.

Việt Minh (CSVN) dương uy lực của quân đội, chuyển tất cả 11 trung đoàn bộ binh, Sư đoàn 351 công pháo  (45 khẩu pháo 105ly, 20 khẩu pháo 75 ly, 36 khẩu súng cối 120 ly, 7  khẩu cao xạ pháo, súng máy cao xạ, 1 trung đoàn công binh.

Tiếp theo CS Trung Quốc viện trợ quân sự cho CSVN, tăng phương tiện cho chiến trường, binh lính ào ạt không ngừng đổ vào VN với số lượng: 350 xe vận tải, 32.500 thùng dầu, 15.500 khẩu súng, 5.600 khẩu đại bác, 1.350.000 viên đạn đại bác, 2 trung đoàn phòng không, 850 chiến xa, 1 trung đoàn cận vệ, 35.500 tấn lương thực,

Bắc Kinh không ngần ngại tự đóng vai trò hậu phương, tiếp tục chuyển ra tiền tuyến, chiếm một tỉ lệ lớn 40.500 tấn lương thực, riêng dân tộc vùng tự trị Choang đóng góp lần thứ 3 hơn 12.500 tấn lương thực. Quả nhiên sự quyết tâm lớn của đảng CSTQ đối với chiến trường Đông Dương không có gì cho không.

Núi rừng Điện Biên Phủ âm u, bỗng nay sôi động, mọi tầm mắt hướng xuống thung lũng Mường Thanh, thuốc súng sẽ thay sương mù giá lạnh tử thi.

CS Trung Quốc nghiên cứu chiến thuật, và xác định bố trí tác chiến, chọn ba Sư đoàn 308, 312, 316. mỗi Sư lấy 2 trung đoàn tất cả binh lực 7 trung đoàn, khởi sự buổi đầu ra quân. Bộ máy chiến tranh từ trung ương an toàn khu đến bộ chỉ huy chiến trường Điện Biên Phủ đanh chờ lệnh của Mao Trạch Đông.

Quân đội CS Việt Minh, trên núi cao đã chuẩn bị tấn công, còn quân đội CS Trung Quốc vừa trấn thủ, vừa tác chiến, đưa đại đoàn 308 và 304 về đóng ở tỉnh Thanh Hóa, và 6 trung đoàn lập phòng tuyến chỉa mũi súng tấn công trước một số cứ điểm của liên quân Pháp, phục kích quân địch, ngăn chặn tăng viện Điện Biên Phủ, mở rộng tầm hoạt động tác chiến, chiếm đóng được một số vùng dân cư đông đúc, cướp lương thực, cản trở đối phương di chuyển đến Điện Biên Phủ.

Đảng CS Trung Quốc đã trao tay cho Việt Minh 175 tướng lãnh quân sự, chính trị, chuyên gia chiến lược, và chuyên gia thành lập hành chính từ cấp Trung ương đến địa phương. Trước khi Mao Trạch Đông đưa chiến tranh vào Việt Nam, đã bí mật tập trung trên 120.500 quân trừ bị, bên kia biên giới 2 tỉnh Vân Nam và Quảng Tây. Một hình thức hậu phương yểm trợ Hồ Tập Chương (HCM) tung hoành trong lãnh thổ Việt Nam, mà không sợ thằng Tây nào cản trở!

CS Trung Quốc chọn Soái tướng La Vinh Hoàng (王宏坤) bí danh Vi Quc Thanh (韦国清Wei Guoqing), đôi đầu với Tướng Christian de Castries chỉ huy liên quân Pháp tại chiến trường Điện Biên Phủ.


1 - Soái tướng La Vinh Hoàng (
王宏坤) bí danh Vi Quc Thanh
(
韦国清Wei Guoqing) tham mưu Trưởng,
Cố vấn quân Trung Quốc tại chiến dịch Điện Biên Phủ.

2 - Liên quân Pháp doTướng Christian de Castries chỉ huy,
đến giờ này chưa phân thắng bại, tuy đã bị quân CS Trung Quốc

bao vây vào đêm trước. Nguồn: CPC.

Bên phía Việt Minh đã tập trung 33 tiểu đoàn gồm khoảng 50.000 quân, chiếm lĩnh các sườn núi bao quanh thung lũng. Việt Minh còn có lực lượng hậu cần 55.000 người, đặc biệt lực lượng dân công có đến 150.900 người, nhờ chính sách khủng bố, dân công tình nguyện chỉ được 1%, phần còn lại không phân biệt già trẻ, người dân còn sức lao đông đều bị sung công. Họ đến từ các tỉnh biên giới Tây-Đông Bắc, một phần khác bổ sungdân công miền Trung, họ phải vượt lên vùng đồng bằng sông Hồng đi về hướng Lai Châu.

Đảng CSVN hy vọng sẽ lừa được nông dân tham gia vào chiến dịch chống lại 16.000 liên quân Pháp tại Điện Biên Phủ. Lần đầu tiên đảng CSVN tập trung toàn lực lượng nhân dân có tính cách chiến lược, thế đời đưa đến trái ý không thành công, cuối cùng CSVN sử dụng thủ thuật khủng bố mã tấu, dây thừng thắt cổ và chôn sống.

Cuối tháng 2 năm 1953. Bộ trưởng Quốc phòng Pháp, ông René Pleven, và Cogny thị sát chiến trường kiểm tra những vị trí phòng thủ của liên quân Pháp tại Điện Biên Phủ, đã cảnh giác: "Trong chiến lược cho thấy lực lượng liên quân Pháp sẽ bị đánh gục, nếu 175 tướng lãnh CS Trung Quốc tham chiến và biển người xuất hiện".

Ở vị trí thung lũng lòng chảo, địa danh Mường Thanh, huyện Điện Biên, thuộc tỉnh Lai Châu.  Đối với kỹ thuật quân sự, hướng phía Tây rất thuận tiện cho cơ động, và liên lạc được viện binh khi cần từ hướngBắc. Liên quân Pháp chọn thung lũng này đúng với chiến lược quân sự, tuy ngoài biên căn cứ có rừng đồi núi cao, vẫn tin tưởng địch chỉ đánh du kích không có khả năng dụng binh chiến trường theo qui ước, đúng là một căn cứ quân sự lý tưởng.


Không quân Pháp tiếp viện binh sĩ, quân trang,
và tiếp tế lương thực v.v... cho mặt trận Điện Biên Phủ.
Nguồn: MSS.

CS Việt Nam nhanh chóng hoàn tất phòng tuyến bộ chỉ huy, chiến lũy, và chiến hào cá nhân, ngày 20 tháng 11 năm 1953, Điện Biên Phủ chính thức nổ súng, công bố chiến tranh Việt Minh-Liên Quân Pháp.Vài tuần sau, Bắc Kinh tiếp tục viện trợ ào ạt đổ vào Việt Nam. 300 xe tải, 100 chiến xa, 15.000 thùng dầu, 1700 tấn lương thực, 3.500 khẩu súng, 85,000 viên đạn đại bác. Chưa tổng kết viện trợ vũ khí của Liên Xô.

Theo nguồn tin từ Bắc Kinh: "Trong suốt thời gian 1950-1953. Trung Quốc đã đổ vào Việt nam 150.500 khẩu súng, 4.630 khẩu đại bác, quân trang, quân bị cho 15 Sư đoàn bộ binh. Bổ sung. 1 Sư đoàn công binh, 1 Trung đoàn phòng không, 1 Trung đoàn cận vệ Hồ Tập Chương".


Khói lửa bùng lên, cháy Điện Biên Phủ,
đạn pháo đôi bên thi nhau gầm thét ngày đêm. Nguồn: THX.

Chu Ân Lai đến an toàn khu Tây Bắc, trực tiếp ủy lạo binh sĩ, duyệt qua kế hoạch chiến trường, và trao cho Hồ Tập Chương, 500 chiến xa. Ngày hôm sau Chu Ân Lai đến mặt trận tìm hiểu chủ lực quân tại Trung đoàn công pháo 351, Trung đoàn 148, Sư đoàn 320 và 304 những đơn vị này phụ trách kiềm chế địch quân từ vùng đồng bằng tả hữu ngạn sông Hồng. Và chỉ thị các cố vấn quân sự Trung Quốc chia nhau chỉ huy, mặt khác tiến quân lên Tây Bắc, hỗ trợ tác chiến cho quân đội Việt Minh.

Đích thân Chu Ân Lai điểm danh 175 tướng tham chiến tại Việt Nam. Ông chú ý nhất tên tuổi những tướng đã từng tham chiến biên giới Ấn Độ và Triều Tiên, như Vi Quốc Thanh,Trần Canh, Lã Quý Ba, Vương Nghiên Tuyền, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm, Mã Tây Phu, Trương Quảng Hoa, Phương Phương, Vương Gia Tường, Nhiệm Cùng, Vân Dật. v.v...

 


1 - Quân đội đỏ trên chiến trường ĐBP gồm các tướng
韦国清 Wei Guoqing (trái), 政委chính y Trn Canh, và tướng 闫捷 Yan Jie (phải).Nguồn: THX.

2 - 韦国清与罗贵波等援越军事顾问团成员(韦国清Wei Guoqing và 罗贵波Luo Guibo) Một nhóm tích cực tham chiến tại Việt Nam) gồm có 梅嘉生 Mei Jiasheng (từ trái sang), 邓逸凡Deng Yifan, 罗贵波 Luo Guibo, 韦国清 Wei Guoqing) Nguồn: THX.


Từ trái sang:
兴初(Liang Xingchu), 黄克(Huang Kecheng),
张爱萍(Zhang Aiping), 韦国清(Wei Guoqing)
và những cô vấn chính trị. Nguồn: THX.

Mật mã HNX123A, gửi đến chiến trường ĐBP, được giải mã như sau: "Bắc Kinh chỉ thị, các cố vấn quân sự và chính trị cần chú ý. Sau khi đánh bại liên quân Pháp, hãy âm thầm tránh né không được lên tiếng về trận chiến Điện Biên Phủ. Đảng đã ủy nhiệm bộ phậnHoa Nam vẽ ra huyền thoại quân sự Việt Nam. Trong lúc này chọn Võ Giáp đứng ra nhận lãnh toàn bộ chiến công, dù biết rằng chiến công này do 175 cố vấn quân sự và chính trị viên của Quân đội nhân dân giải phóng Trung Quốc, khi quý đồng chí hồi quốc sẽ có những khích lệ tương xứng".

Tình báo Hoa Nam tại Việt Nam nhận lệnh, dựng chân dung huyền thoại Võ Giáp (Võ Nguyên Giáp), đốt lên hào quang rực sáng một anh hùng Điện Biên Phủ, kể từ chiến dịch quân sự Lê Hồng Phong II (9-10/1950) tới Ðiện Biên Phủ. [5]


1 - Tháng 9 năm 1941, những tướng CS Trung Quốc hộ giá Hồ Tập Chương tại Pắc Bó, nay 1953 đồng tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ (
陈毅Chen Yi, 张云逸Zhang Yunyi, 张爱萍Zhang Aiping, 张云逸Zhang Yunyi, 冯定Feng Ting, 陈毅Chen Yi, 韦国清Wei Guoqing, 张震寰Jang Jann Huan, 彭雪Peng Xuefeng, 张震Zhang Zhen).Nguồn: THX.

2 - 新四军九旅旅长韦国清(), 政委康志(), 政治部主任张振球(). (9 lữ đoàn do các tuướng 韦国清Wei Guoqing (trái), y viên chính tr 康志Kang Zhiqiang (in), phó chính tr 张振Zhang (bên phi) chi huy ti Đin Biên Ph).Nguồn: THX.

Từ ngày chiến công Điện Biên Phủ, có quá nhiều điều khó hiểu, khiến lòng người dân hoang mang không rõ đảng CSVN từ đâu đến, thắc mắc mỗi ngày chồng chất, và hỏi: Lý cớ nào Bộ Chính Trị, Quân Ủy Trung Ương Ðảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) mãi đến hôm nay chưa bạch hóa các tài liệu trong văn khố của Ðảng và Quân Ðội Nhân Dân (QÐND) để phản bác những hồi ký hay xác nhận chứng thực của Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, Vi Quốc Thanh, Trần Canh, Lã Quý Ba, Vương Nghiên Tuyền, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm, Mã Tây Phu, Trương Quảng Hoa, Phương Phương, Vương Gia Tường, Nhiệm Cùng, Vân Dật, Thiên Hựu, Lý Văn Nhất, Đặng Thanh Hà, Kiếm Anh, Vu Hoá Thầm, Chu Hạc Vân, Vu Bộ Huyết, Đậu Kim Ba, Lâm Quân Tài, Trương Hưng Hoa, Vương Nghiên Tuyền, Trương Quảng Hoa, Độc Kim Ba, Như Phụng Nhất, Trương Chí Thiện, Nghiêm Dục Sinh, Vương Thạc Tuyên, Lâm Quân Tài, Hứa Kỳ Thanh, Vương Thừa Vũ, Lê Quang Đạo, Vương Chấn Hoa, Lỗ Hiển Dư, Hầu Hàn Giang, Lý Hàm Trân, Hoàng Kính Văn, Tăng Diên Vỹ, Vương Nghiên Tuyền, LươngTrung Ngọc, Vương Chấn Phu, Trương Nãi Chiêm, Lưu Sư Tường, Đỗ Kiến Hoa, Dương Tiến, Hoàng Vi, Châu Dật Chi, Phó Hiếu Trung, Nhạc Tinh Chiếu, Diên Nguyệt Canh, Triệu Tích Phong, Tống Nhược Thạch, Trần Thủ Thành, Địch Anh Kiệt, Lý Quế Minh, Trần Bình Sơn, Tập Tùng Anh, Mạnh Đông Thăng, Trương Ngọc Phong, Hàn Lộc Tướng, Châu Khuê, Lý Học Thư, Dương Đồng Văn, Hà Thiệu Vũ, Vương Vĩnh Pháp, Hàn Lộc Tướng, Diêm Thử Khánh, Chu Diêu Hoa, Điền Đại Bang, Lưu Chấn Hải, Đinh Chấn Quang, Lý Văn Đạt, Bành Chi Lan, Thôi Ngô, Chu Ngọc Đường, Quý Lai Hỷ, Vương Tuyết Hưởng, Lý Ngọc Tiên, Trần Ngũ Quan, Triệu Tồn Hiếu, Tiết Tảo Ngọc, Quách Minh Kiếm, Vương Vĩnh Đức, Lý Tiên Xuân, An Đình Lan, Quách Hữu Phú, Từ Hán Văn, Trương Tường, Triệu Thuỵ Lai, La Tự Hiền, Hồ Thiên Thuỷ, Lý Kiện Hoa, Vương Nghị, Tôn Đức Tu, Tương Sinh Hoa, Dương Cẩm Sơn, Từ Văn Cương, Thái Dũng.

Những cố vấn đảng CS Trung Quốcở trên, đã từng tham chiến tại Việt Nam, vừa công bố hồi ký trước Điện Biên Phủ,và sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.[6]

Huỳnh Tâm

Tham khảo:

[1] - Bản tin THX 1954.

[2] - National Geographic Magazine.

[3] - Mật mã YKB-3139-1.

[4] - Mật mã đàm thoại (714泽东, 胡章), lưu tr Hoa Nam.

[5] - Chỉ thị mật mã khác HNX123A, của Hoa Nam.

[6] - Hồi ký của 175 tướng lãnh đảng CS Trung Quốc.

__._,_.___

Featured Post

Bản Tin cuối ngày-16/12/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link