|
"Như thế,
món nợ của Việt Cộng với Trung Cộng là một món nợ khổng lồ,
không biết đến thế hệ nào mới trả hết nổi."
Thế mới thấy người
Việt Nam Cộng Sản rất là anh hùng, họ đại diện dân chúng
mượn nợ mua súng đạn dành lại quê hương từ bọn thực dân
tây và đám tẩy nảo con nít từ lúc vừa sinh ra, không phải
giống như những kẽ ăn bám vào tiền viện trợ, đến lúc không
có thì hùa nhau té chạy, xem ra anh là sĩ quan cao cấp của
miền Nam củ, anh cũng đã từng bị gạt bởi đồng minh của
anh và anh vẫn chứng nào tật đó. Thành phần của anh, theo
luật đời Nguyễn, bô bô theo giặc thì phải tru di tam tộc,
nhưng đãng CS VN đã tha tội chết cho các anh, chỉ tống cổ
các anh ra khỏi nước mà thôi.
Chuyện theo
Trung Quốc đã xãy ra từ ngàn năm về trước, chuyện nước nhỏ
phải triều cống cho Thiên triều xưa rồi, anh làm bộ là thằng
ngốc tử để chê CS VN thế này thế nọ để thõa mản anh thôi.
Chuyện Bauxite
anh nên nghiên cứu lại đi. Tôi thấy anh không có khả năng
để nhìn xa hơn.
Anh đem chuyện
DVD của những con quạ đen ra tâng bốc là đúng rồi,điều này
tôi không được nhồi sọ từ lúc mới sanh ra nên khâm phục anh
lắm. Nhờ anh nhắn bảo những kẽ đang mang thánh giá còn sống
bám vào VN nên rời khỏi VN đi về Vatican mà ở, đừng sống
bám vào đãng CS VN vừa làm phản, vừa la làng, càng nghe
càng ghét. Đi đi mau, đi ra khỏi nước VN đi.
Chính quyền hoa
kỳ đã khinh dể và lừa gạt các anh, họ còn ghi rỏ trong lịch
sử, anh không hiểu à?
Ngo Dinh Diem
returns from exile in the US to head the South Vietnamese
government. The CIA office in Saigon, under the
leadership of Colonel Edward Lansdale, conducts a
propaganda campaign aimed at creating the perception that
North Vietnam is plagued with massive civil unrest and disorder while there
is stability in South Vietnam and widespread popular
support for its newly installed leader. [Herring, 1986, pp. 44; Pilger, 1986, pp. 192]
“Paramilitary groups infiltrated across the demilitarized
zone on sabotage missions, attempting to destroy the
government’s printing presses and pouring contaminants
into the engines of buses to demobilize the
transportation systems. The teams also carried ‘psywar’
operations to embarrass the Vietminh regime and encourage
emigration to the South. They distributed fake leaflets
announcing the harsh methods the government was prepared
to take and even hired astrologers to predict hard times
in the north and good times in the south.” [Herring, 1986, pp. 44] “[Landale’s
team] stimulated North Vietnamese Catholics and the
Catholic armies deserted by the French to flee south. SMM
teams promised Catholic Vietnamese assistance and new
opportunities if they would emigrate. To help them make up
their minds, the teams circulated leaflets falsely
attributed to the Viet Minh telling what was expected of
citizens under the new government. The day following
distribution of the leaflets, refugee registration tripled. The
teams spread horror stories of Chinese Communist
regiments raping Vietnamese girls and taking reprisals
against villages. This confirmed fears of Chinese
occupation under the Viet Minh. The teams distributed
other pamphlets showing the circumference of destruction
around Hanoi and other North Vietnamese cities should the
United States decide to use atomic weapons. To those it
induced to flee over the 300-day period the CIA provided
free transportation on its airline, Civil Air Transport,
and on ships of the US Navy. Nearly a million North
Vietnamese were scared and lured into moving to the
South.”
Tội nghiệp anh quá, đúng là cuồng
tín vì được nhồi sọ quá kỹ từ lúc mới oe oe.
Richard Nguyen
From:
Bac Ky Di Cu <backydicu@gmail.com>
Subject: Hồ Chí Minh và Cộng Sản Việt Nam đã là nô lệ Tầu
Cộng từ nhiều thập niên trước.
Date: Saturday, July 21, 2012, 3:10 PM
CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐÃ LÀ NÔ LỆ TRUNG
CỘNG TỪ NHIỀU THẬP NIÊN TRƯỚC (1)
Chu Tất Tiến.
Trong năm 2010,
nhiều bài vở trên báo chí, truyền thanh, truyền hình đã vạch
rõ bộ mặt bán nước của nhà cầm quyền Công Sản, đứng đầu
là Hồ Chí Minh. Cuốn DVD “sự thật về Hồ Chí Minh” do Linh
Mục Nguyễn Hữu Lễ và bạn hữu thực hiện đã đưa những sự kiện
lịch sử để dẫn chứng về sự bán nước này, và đã được dư luận
khắp nơi ủng hộ. Một số phần tử lưng chừng ở Việt Nam,
sau khi xem xong cuốn phim này đã thay đổi hẳn thái độ và
đứng về phía các nhà Dân Chủ mà đấu tranh chống lại nhóm
cầm quyền độc tài bán nước Cộng Sản Việt Nam. Ông Nguyễn
Văn Văn, một nhà Dân Chủ ở Hà Nội, qua cuộc phỏng vấn của
đài Little Saigon Radio, thứ năm 22 tháng 7, năm 2010,
cho biết: “Từ hơn 30 năm nay, tôi vẫn tin tưởng ở Đảng Cộng
Sản, cho mãi đến khi xem cuốn DVD Sự Thật về Hồ Chí Minh,
tôi mới tỉnh ngộ và bắt đầu chiến đấu chống lại cái đảng
bán nước này.”
Tuy nhiên, tất
cả những lời tố cáo trên đều do những người ở về phía đối
lập với Bắc Bộ Phủ, cho nên cũng chưa được thành công tối
đa, vì nhiều người đọc, người xem, và người nghe cho rằng
đó là những điều tuyên truyền của những người chống Cộng
cực đoan và những thành phần thuộc chế độ cũ. Giờ đây, đọc
cuốn hồi ký “Ghi chép về việc đoàn cố vấn quân sự Trung
Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp” do Nhà Xuất Bản Lịch Sử
Đảng Cộng Sản Trung Quốc, Bắc Kinh ấn hành năm 2002 và được
dịch bởi Trần Hữu Nghĩa và Dương Danh Dy, toàn bộ diễn tiến
nô lệ Trung Cộng đã được phơi bầy một cách rõ ràng. Qua
cuốn hồi ký viết bởi những nhân vật cao cấp của Trung
Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc này, người đọc mới hiểu tại
sao Hồ Chí Minh và thuộc cấp đã không thể nào không cúi đầu
trước sự chỉ đạo của Trung Cộng, và không thể nào không
dâng đất cho Trung Cộng để trả ơn cứu trợ từ những năm
xưa. Điểm đáng nói là cuốn sách được xuất bản đúng thời
điểm mà Trung Cộng từng bước thôn tính Việt Nam, từ biển
Đông, tới Tây Nguyên, và miền cực Bắc Việt Nam. Có lẽ đây
là một lời cảnh cáo các kẻ cầm quyền Việt Nam: “Đừng quên
là Cộng Sản Việt Nam đã từng nợ đàn anh Trung Quốc từ khi
còn Pháp thuộc. Nếu không có đàn anh Trung Quốc viện trợ,
thì đảng Cộng Sản Việt Nam đã không tồn tại mà tham tham
nhũng nhũng, sống huy hoàng phè phỡn như hôm nay.” Và
cũng có lẽ đây là một lời trần tinh về âm mưu thôn tính
Việt Nam của Cộng Sản Trung Quốc, nhằm giải thích cho dư
luận biết tại sao mà Trung Cộng muốn coi Việt Nam như cái
sân sau của Trung Cộng.
Qua cuốn hồi ký
này, người đọc mới thấy rõ mối giây liên lạc chặt chẽ giữa
hai đảng Cộng Sản: Việt Nam và Trung Quốc, đúng như lời
mà các Đảng Viên Cộng Sản Việt Nam vẫn luôn đọc như đọc thần
chú: “ Việt Nam – Trung Quốc, núi liền núi, sông liền sông”
và “Trung Quốc và Việt Nam như môi với răng, môi hở thì
răng lạnh”, thêm 16 chữ vàng: “Láng giềng hữu nghi, hợp tác
toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”.
Cũng qua những
tác giả của cuốn tư liệu này, như La Quý Ba, Trương Quảng
Hoa, Độc Kim Ba, Vu Hóa Thầm, Trần Canh, Như Phụng Nhất,
những nhân vật lừng lẫy trong trung ương Đảng Cộng Sản
Trung Quốc, người ta biết nhiều dấu mốc quan trọng:
-Năm 1924, Hồ
Chí Minh từ Moscow đến Quảng Châu, học tập lý luận Mác
Lê.
-Năm 1930, Hồ
chí Minh thành lập đảng Cộng Sản Đông Dương tại Hồng
Kong.
-Năm 1938, Hồ
chí Minh đến Diên An, tăng cường quan hệ hợp tác giữa hai
nước.
Sau đó, mối quan
hệ song phương càng ngày được phát triển. Tháng 10 năm
1940 Hồ Chỉ Minh đến Quế Lâm, thành lập văn phòng Việt Nam
Độc Lập Đồng Minh Hội. Trên danh nghĩa thì Việt Nam Độc Lập
Đồng Minh Hội này, sau được gọi tắt là Việt Minh, được hoàn
toàn “độc lập” theo như tinh thần của bản tuyên ngôn,
nhưng thực tế vẫn Độc Lập dưới sự chỉ đạo của Trung Cộng!
Tháng 1 năm
1950, Hồ Chí Minh đóng giả vai người già bị thương, đầu quấn
khăn mặt, tay chống gậy, sang cầu viện Tầu Cộng. Trần đăng
Ninh, một cán bộ lão thành trong đảng Cộng Sản hộ tống và
đôi khi cõng Hồ Chí Minh sang qua cửa Thủy Khẩu thuộc Long
Châu, Quảng Tây. Sau đó, Hồ Chí Minh mới được đưa sang diện
kiến Trung Ương Đảng Công Sản. Lưu Thiếu Kỳ tiếp Hồ Chí
Minh tại Trung Nam Hải. Phía Trung Cộng có Chu Đức, Đồng
Tất Vũ, Lưu Bá Thừa, Nhiếp Vinh Trần, Lý Duy Hán. Phía Việt
Minh có Trần Đăng Ninh, Hoàng văn Hoan. Sau mấy buổi họp
đầu tiên không mấy thành công, Hồ Chí Minh muốn đi Liên
Xô cầu viện. Vì cũng chưa sẵn sang yểm trợ cho Hồ Chí
Minh, nên Lưu Thiếu Kỳ báo cáo với Mao Trạch Đông về việc
này, và dàn xếp cho Hồ Chí Minh đi theo Mao Trạch Đông đến
Liên Xô. Chuyến đi thất bại. Stalin không chịu viện trợ
cho Hồ Chí Minh chống Pháp, mặc dù Mao Trạch Đông giới
thiệu và năn nỉ, vì trong suốt chuyến đi, Hồ Chí Minh đã
biểu diễn thành công màn kịch là một tay đàn em khả tín,
biết quỵ lụy và vâng phục. Vì thế, khi về đến Trung Nam Hải,
Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ quyết định giúp Hồ Chí
Minh bằng một phái đoàn Cố Vấn tối cao do Vi Quốc Thanh,
nguyên Phó Tư Lệnh Lực Lượng Công An Trung Cộng làm trưởng
đoàn. Nhóm Cố Vấn này được Hồ Chí Minh ra lệnh cho toàn
thể đảng viên goi là “Các đồng chí Cố Vấn Vĩ Đại Trung Quốc.”
Đồng thời với
việc gửi đoàn Cố Vấn Vĩ Đại sang Việt Nam mở đầu chiến dịch
giúp Hồ Chí Minh, Trung Cộng viện trợ 150,000 khẩu súng,
hơn 3,000 khẩu pháo, và đạn dược, xe cộ, quần áo, lương
thực, đồ dùng hàng ngày như bát ăn cơm tráng men, khăn
bông. (Trích bài viết của Trương Quảng Hoa, một Cố Vấn Vĩ
Đại của Hồ Chí Minh).
Đến măm 1945,
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thành lập vào 2 tháng 9 năm
1945 nhưng không được nước nào công nhận, trừ Trung Cộng.
Staline mới đầu từ chối không công nhận cho đến khi Trung
Cộng công nhận rồi, mới chịu thiết lập quan hệ ngoại giao
với Việt Minh.
Thực hiện tích
cực việc yểm trợ cho Cộng Sản Việt Nam, Trung Cộng đã chỉ
đạo, giúp đỡ vũ khí, lương thực, Cố Vấn, chiến lược cho
Việt Minh đánh Pháp. Mở đầu là Chiến dịch Biên giới đánh
Đông Khê (Thất Khê, Cao Bằng) năm 1950. Các trận đánh này
đều do các Cố Vấn Trần Canh, Nhiệm Cùng, Vân Dật, Thiên Hựu,
Quí ba, Kiếm Anh, Phương Phương, Quốc Thanh định đoạt.
(Trích thư của Hồ Chí Minh gửi đảng Cộng Sản Trung Quốc
ngày 14/10/50).
Từ đó, các thắng
lợi khác với quân Pháp cũng đều do Cố Vấn Trung Quốc chỉ
đạo. Những cố vấn này lại nhận chỉ thị trực tiếp của Lưu
thiếu Kỳ vì Mao Trạch Đông giao cho Lưu Thiếu Kỳ trách
nhiệm điều khiển Việt Minh.
Chiến dịch viện
trợ vĩ đại nhất mà Trung Cộng giúp Việt Cộng là Trận Điện
Biên Phủ. Thắng lợi hoàn toàn là do Cố Vấn Vi Quốc Thanh
chỉ huy. Trước trận chiến quyết định này, có một số trận
đánh khác nhằm để tiêu hao lực lượng quân Pháp. Từ ngày
20 tháng 1 năm 1954, các chiến lược tấn công từ Tây Bắc
xuống đến phía Nam như Kontum, Pleiku, Tây Nguyên, Phú
Yên… đều do Vi Quốc Thanh hoạch định. Võ nguyên Giáp chỉ
biết thi hành theo chiến thuật. Sau khi thắng lợi được vài
trận, Vi Quốc Thanh quyết định nhận lời đánh Điện Biên Phủ
theo lời năn nỉ của Võ Nguyên Giáp. Mới đầu, vì quân Pháp
không nắm vững được tin tức về sự chỉ huy của Vi Quốc
Thanh, nên còn gửi thư thách thức Việt Minh. De Castries,
tư lệnh quân Pháp ở Điện Biên Phủ, viết thư cho Võ Nguyên
Giáp:
“Tôi biết bộ đội
của ông đã bao vây Điện Biên Phủ, nhưng vì sao không tấn
công? Tôi đã kiên nhẫn chờ đợi. Nếu ông có gan dám mở tấn
công, thì xin bắt đầu đi. Tôi đang chờ đón những thách thức
của ông, quyết một phen thắng bại với ông”.
Thư được trình
lên Vi Quốc Thanh, hắn cười nói:
“Lão De Catries này ngông cuồng lắm!
Hãy đợi đấy! Đến lúc chiến dịch mở màn, là lúc hắn khóc.”
Người phiên dịch báo cáo :
“De Castries
là một danh tướng của Lục Quân Pháp là cấp dưới cũ của
Navarre , đã qua trường Quân sự, là học viên ưu tú. Hắn vốn
quân hàm Đại Tá, gần đây vừa được phong Thiếu Tướng.
Vi Quốc Thanh nói:
“Thế thì hãy để
xem chúng ta học được cái gì ở học viên ưu tú này, xem họ
có tài chỉ huy đến đâu!”
Và thế là mọi
kế hoạch tấn công Điện Biên Phủ đều do Vi Quốc Thanh chỉ
đạo. Từ Hồ Chí Minh đến Võ Nguyên Giáp đều im re, nghe lệnh
của Vi Quốc Thanh.
Sau khi thắng trận,
Hồ chí Minh mở tiệc chiêu đãi Vi Quốc Thanh, và ôm hôn
tay Đại Cố Vấn này. Hồ Chí Minh còn làm một bài thơ chữ
Hán tặng Vi Quốc Thanh:
Bách Lý tầm xuân
vi ngộ quân
Mã đề đạp toái
lĩnh đầu văn
Quy lai ngẫu quá sơn mai thụ
Mỗi đóa hoàng hoa nhất điểm xuân
(Trăm dặm tìm
bạn nhưng không gặp, vó ngựa dẫm nát mây đỉnh núi, Quay về
tình cờ gặp cây mai rừng, mỗi đóa hoa vàng một điểm xuân).
(Trích tài liệu của đại cố vấn Vương chấn Hoa tức Vu Hóa
Thầm).
Từ đó, cho đến
30-4-1975, nhất cử nhất động đều do Đại Cố Vấn Trung Quốc
chỉ huy và yểm trợ. Ngoài việc viện trợ súng đạn và lương
thực, Trung Cộng còn cung cấp nhân sự. Các binh lính
Trung Cộng đều trá hình làm lính hậu cần.
Trong thời gian
giúp cho Việt Cộng thành công việc cưỡng chiếm miền Nam,
Trung Cộng đã để lộ dã tâm muốn đòi nợ chiến tranh bằng lãnh
thổ. Khi Nixon dội bom Bắc Việt, Trung Công cho thiết lập
giàn rada phòng không từ bên trong đất Bắc. Sau khi chiến
tranh chấm dứt, Trung Cộng không rút về, mà biến thành đất
của phương Bắc luôn. Dàn phòng không này, hiện nay, được
biến cải thành pháo đài vừa phòng không vừa có thể phóng
hỏa tiễn tấn công, lại được dùng để khống chế Việt Cộng.
Bộ Chính Trị Cộng Sản Việt Nam tuy biết là Trung Cộng xâm
lăng một cách âm thầm, nhưng vì nợ ơn nhiều quá, nên phải
im lặng, và lại cũng biết rằng, nếu chỉ một câu nói gây bất
bình cho các đại cố vấn, thì tình hình nguy ngập liền.
Trận chiến năm
1979 xẩy ra không phải vì Việt Cộng muốn đấu lại “cha đỡ
đầu” (God Father) Trung Cộng mà vì Trung Cộng bực tên đàn
em đã xua quân qua chiếm Campuchia mà không xin phép đàn
anh, nên mới “dậy cho Việt Nam một bài học”. Sau trận này,
Việt Cộng khiếp hãi, không bao giờ dám làm mất lòng đàn
anh nữa.
Hiện nay, ở miền
Bắc, Trung Cộng chiếm hết các đỉnh cao để đặt rada, thêm
vài ngàn cây số vuông cưỡng chiếm bằng cách dời cột mốc,
cộng với tất cả các rừng đầu nguồn, dưới danh nghĩa là
“cho thuê”. Tại cửa “khẩu”, hàng hóa Tầu và hàng giả mạo quốc
tế tự do tràn vào Việt Nam không kiểm soát, không đóng
thuế. Công An Việt Cộng đứng hút thuốc lá Tầu, nhìn dân
“cửu vạn” Việt khiêng hàng Tầu vào ào ạt và chờ đợi cho
những hàng dỏm, hàng Tầu này giết chết hết hàng nội địa Việt
Nam.
Tại Tây Nguyên,
Trung Cộng vừa khai thác Bo xit, vừa thiết lập giàn phòng
không thứ hai, và đặt máy trinh thám, theo dõi các hoạt động
của Bộ Chính Trị và quân đội. Chung quanh các khu vực
Trung Cộng khai thác này, người dân Việt phải tuân theo
luật lệ của lính Tầu, nếu không muốn bị bắt, đánh đòn, và
nộp tiền chuộc mạng. Lính Tầu giả dạng công nhân có toàn
quyền bắt cóc gái Việt, cưỡng bức lấy chúng, nếu không
thì chúng cưỡng hiếp. Những đứa trẻ đẻ ra bởi các cuộc
hôn nhân cưỡng hiếp này được khai sinh dưới tên Tầu. Dần
dần chúng biến dân Việt thành dân Tầu qua thẻ căn cước,
những ai có thẻ căn cước Tầu sẽ được hưởng tiện nghi đặc
biệt hơn dân Việt. Nếu dân làng phản đối, lính Tầu có thể
tung hàng trăm người tràn vào làng, dùng gậy phá nhà,
đánh đập dân chúng trong khi Ủy Ban Nhân Dân và công an
Việt Cộng bỏ chạy. Nhiều nhà nghiên cứu cho biết, thực ra,
Trung Cộng cũng cần có bô xít để làm nhôm, nhưng mục tiêu
chiếm lĩnh Việt Nam lại quan trọng hơn. Do đó, cho đến nay,
tháng 7 năm 2010, vẫn chưa thấy ký lô nhôm nào xuất xưởng.
Trung Cộng cũng
“trúng thầu” khai thác con đường xuyên Bắc Nam, đi dọc theo
những tỉnh thành quan trọng. Bên cạnh con đường đó là tất
cả các dịch vụ phục vụ cho văn hóa Tầu. Ngoài biển Đông,
Trung Cộng khống chế thủy lợi, dành quyền khai thác thủy
sản, bắt ngư dân Việt phải theo luật lệ của chúng, nếu không,
sẽ bị bắt, bị giết, bị tịch thu tầu và các phương tiện
đánh cá, ngoài ra, phải nộp tiền chuộc mạng.
Nhìn chung, Việt
Nam ngày nay là cái sân sau của Trung Cộng. Những tên
Thái Thú Trung Cộng này văn minh hơn xưa, không bắt dâng
nộp gái tơ, ngà voi, tê giác, ngọc trai như xưa, nhưng
tha hồ mua gái Việt với giá rẻ như bèo, và hưởng thụ tài
nguyên cùng nhân lực Việt Nam không tốn một viên đạn. Đảng
Cộng Sản Việt Nam hiện nay, đang thực hiện đúng đắn những
phương châm lãnh đạo đất nước là “Đảng lãnh đạo, Nhà Nước
quản lý, Nhân Dân làm Chủ” Họ chỉ dấu đi hai chữ “Trung Cộng”
sau những nhóm chữ đó. Nhóm chữ này, nếu viết đầy đủ, sẽ
là : Đảng Cộng Sản Trung Quốc lãnh đạo, Nhà Nước Việt Nam
quản lý, Nhân Dân Trung Quốc làm chủ kinh tế Việt Nam.
CỘNG SẢN VIÊT
NAM ĐÃ LÀ NÔ LỆ CỦA TRUNG CỘNG TỪ NHIỀU THẬP NIÊN TRƯỚC
(2)
Trong bài thứ
nhất, một số tư liệu đã được liệt kê, chứng minh Đảng Cộng
Sản Việt Nam đã lệ thuộc Đảng Cộng Sản Trung Quốc từ nhiều
năm trước. Qua bài viết “Mẫu Mực sáng ngời của Chủ Nghĩa
Quốc Tế Vô Sản” do La Quý Ba (Luo Guibo), Trưởng Đoàn Cố
Vấn Chính Trị cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ 1951-1954,
Đại Sứ Trung Quốc tại VNDCCH từ 1954-1975, xuất bản bởi Bắc
Kinh năm 2002, độc giả còn được biết thêm nhiều chi tiết
về vấn đề hữu nghị “anh-em” nhưng thực chất là “nô lệ,
cha-con” này.
La Quý Ba viết:
“Tháng 1, 1950,
Hồ Chí Minh đích thân bí mật đến Bắc Kinh, yêu cầu Trung
Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp.
Trung ương đảng ta theo yêu cầu của Hồ chí Minh và Trung
ương Đảng Đông Dương, đã báo cáo và được Mao Chủ Tịch đồng
ý, quyết định cử tôi bí mật sang Việt Nam, làm đại diện
liên lạc giữa Trung ương đảng Cộng Sản Trung Quốc và Trung
Ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí Lưu Thiếu Kỳ còn
tự tay viêt giấy giới thiệu cho tôi:
“Xin giới thiệu
đồng chí La Quý Ba, Bí thư Tỉnh Ủy và chính ủy trong quân
đội của chúng tôi đến chỗ các đồng chí làm đại diện liên
lạc của Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, đi theo có 8
tùy tùng.
Lưu Thiếu Kỳ ,
Bí Thư Trưởng Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, ngày
17/1/1950”
Sau khi nêu
lên tình hình chiến tranh Việt Nam với sự can thiệp của Anh,
Pháp, và Quốc Dân Đảng Trung Quốc cùng đến Việt Nam để tiếp
nhận sự đầu hàng của Nhật, La Quý Ba cho biết là “vào thời
điểm này, trên quốc tế chưa có một nước nào công nhận nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, không có một tổ chức quốc tế
nào đặt quan hệ với Việt Nam, Việt nam chưa giành được vị
thế quốc tế, cũng không được viện trợ bên ngoài. Vấn đề
viện trợ Việt Nam chống quân xâm lược thực dân Pháp như
thế nào là một việc lớn mà lãnh đạo tối cao ba phía Trung
Quốc, Việt Nam, Liên Xô trao đổi bàn bạc.” La quý Ba xác
nhận rằng Hồ Chí Minh đã vội vã đề nghị các nước Xã Hội
Chủ Nghĩa công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, nhưng Liên
Xô đã bác bỏ ngay, chỉ có Trung Cộng công nhận Việt Cộng
mà thôi. Sau khi Trung Cộng công nhận Việt Cộng rồi, thì
Liên Xô mới chính thức giao hảo sau.
La quý Ba kể
rõ chi tiết về việc Hồ Chí Minh bị Liên Xô từ chối viện trợ:
“Hồ Chí Minh từ
xa xôi nghìn trùng đến Trung Quốc, đi Liên Xô là để mong
được sự viện trợ nhiều mặt, nhất là viện trợ về quân sự
và kinh tế tài chính. Stalin cho rằng, Trung Quốc là nước
láng giềng của Việt Nam, hiểu rõ tình hình Việt Nam, còn
Liên Xô và các nước Đông Âu chịu nhiều vết thương chiến
tranh nặng nề trong chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô
còn phải giúp đỡ các nước XHCN Đông Âu khôi phục và xây dựng,
trên vai còn rất nặng gánh, mong rằng nhiệm vụ viện trợ
Việt Nam, Trung Quốc là chính.”
Từ đó, Trung Cộng
công khai giúp đỡ Việt Minh về mọi mặt. Bắt đầu từ những
trận đánh lớn với quân Pháp. Những điều mà La Quý Ba kể lại
sau đây đã đánh đổ huyền thoại Võ Nguyên Giáp và quân đội
Nhân Dân, vì theo lời kể của La, thì hầu như mọi trận
đánh đều được các “đồng chí Cố Vấn Trung Quốc Vĩ Đại” chỉ
thị. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình chiến tranh giữa
Việt Minh và Pháp, La Quý Ba nhận xét:
“Bước đầu tiên
viện trợ Việt Nam là phải khai thông giao thông biên giới
Trung-Việt, vì có thế vật tư viện trợ Việt Nam mới có thể
chở sang Việt Nam thuận lợi. Chỉ cần quân đội Nhân dân Việt
Nam chiếm con đường giao thông chủ yếu trên biên giới
Trung-Việt thì quân Pháp sẽ mất ưu thế số một. Chỉ có hai
lựa chọn khai thông con đường giao thông chủ yếu biên giới
Trung-Việt: một là đánh Cao Bằng tiếp giáp giữa Việt Nam
và Quảng Tây; một nữa là đánh Lào Cai tiếp giáp giữa Việt
Nam và Vân Nam. Đánh Cao Bằng trước hay đánh Lào Cai trước,
hay là đánh cả hai cùng một lúc, Trung Ương đảng Cộng Sản
Đông Dương và Trung Ương đảng ta đều đã điều tra nghiên cứu,
suy nghĩ trao đổi nhiều lần gần 3 tháng. Ngày 02/07/1950,
Mao Chủ Tịch gửi điện trả lời Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt
Nam:
“Đồng ý ý kiến
đánh Cao Bằng trước, phương án tác chiến cụ thể đối với
Cao Bằng, chờ sau khi Trần Canh đến, do các đồng chí quyêt
định cuối cùng….”
Như thế, mọi việc
đã rõ: Trung Cộng chỉ đạo cho Việt Cộng từng chi tiết chiến
tranh. Trần Canh là nhân vật cố vấn tối cao về chiến tranh
Việt Nam, không phải Võ Nguyên Giáp cũng không phải Hồ
chí Minh. Dĩ nhiên, Mao Trạch Đông là lãnh tụ cao nhất.
Vì thế, trong
tất cả các cuộc mít tinh của Việt Cộng, hình Mao Trạch Đông,
Stalin luôn được treo lộng lẫy trên cao, trong khi hình Hồ
Chí Minh chỉ được treo phía dưới.
Ngoài ra, các
cố vấn Trung Cộng là các chỉ huy trực tiếp của Việt Cộng.
Lính Trung Công thì được giả trang thành các đầu bếp hoặc
lính cần vụ để che mắt quốc tế.
Quân Ủy và Bộ
Chính Trị Trung Cộng giữ vai trò chủ đạo từ xa. Ai cũng
biết, với vai trò Chủ Tịch Đảng Công Sản Trung Quốc, Mao
Trạch Đông nhất định không có thời gian mà bàn luận về chiến
lược các trân chiến với Việt Cộng, chỉ có thể nghe qua những
lời tâu của Bộ Chính Trị, của Quân Ủy trung ương mà quyết
định. Một khi mà Bộ Chính Trị và Quân Ủy Trung Ương muốn
tâu trình lên Mao Chủ Tịch, phải họp bàn liên miên rồi mới
quyết định ra một chiến lược cuối cùng. Như đã viết ở
trên, trận đánh Tây Bắc đã được bàn thảo gần 3 tháng mới
được lệnh của Bắc Kinh mà thi hành.
Nhưng như thế
vẫn chưa đủ cho tinh thần nô lệ của Hồ Chí Minh. La quý
Ba kể thêm về sự khẩn nài của Hồ Chí Minh như sau:
“Mùa đông năm
1951, Hồ Chí Minh một lần nữa bí mật đến Bắc Kinh thăm
Trung Quốc.”
Sau khi kể về
việc ôm hôn thắm thiết, La Quý Ba cho biết:
“Trong trao đổi,
Hồ chí Minh hỏi Mao Chủ Tịch:
“Bộ Chính Trị
Trung Ương chúng tôi yêu cầu đồng chí La Quý Ba khi tham
gia hội nghị Bộ Chính Trị Trung Ương chúng tôi nêu nhiều
ý kiến về các mặt công tác của chúng tôi, giúp đỡ nhiều
cho chúng tôi. Nhưng đồng chí quá thận trọn, quá khiêm tốn.
Tôi mong các đồng chí giao cho đồng chí ấy nêu nhiêu ý kiến.
Mao Chủ Tịch, các đồng chí có đồng ý không?”
Đây là một câu
nói xã giao kiểu cách, có tính chất chính trị. Thay vì
nói thẳng là “chúng tôi mong đồng chí ấy chỉ dậy thêm cho
chúng tôi”, thì lại nói khéo là xin “giao cho đồng chí ấy
nêu nhiều ý kiến!”
Hồ Chí Minh
còn đóng kịch là một đệ tử chân thành: “Hồ chí Minh là
người rất giầu tình cảm, nhìn thấy rõ người bị truyền cảm
bởi sự chân thành của Mao Chủ Tịch, Người đứng dậy nói:
“Tôi và các đồng
chí Việt Nam đều cảm nhận sự chân thành giúp đỡ chúng tôi
từ trong hành động của các đồng chí”.
La quý Ba còn
kể nhiều chi tiết về bữa cơm thân mật với Mao Chủ Tịch, trong
đó Hồ Chí Minh khoe về tài ăn ớt chỉ thiên của mình.
Sau lần ăn cơm
thân mật nói chuyện về ớt đó, thì hầu như mọi việc sinh hoạt
của đảng Cộng Sản Việt Nam đều được chỉ thị của Trung Cộng:
“Dù là điện của
Trần Canh, Vi Quốc Thanh và tôi xin chỉ thị của Mao Chủ Tịch,
Trung Ương Đảng hay chỉ thị của Mao Chủ Tịch, Trung Ương
đảng đối với chúng tôi, dù là bức điện về mặt tác chiến
(như chiến dịch Biên Giới, chiến dịch Điện Biên Phủ, chiến
dịch Tây Bắc. v.v..) xây dựng bộ đội và huấn luyện bộ đội,
hay là những bức điện vấn đề quan trọng về mặt xây dựng
tư tưởng và xây dựng tổ chức của Đảng, công tác tài chính
kinh tế, công tác cải cách ruộng đất, viện trợ quân sự,
viện trợ tài chính kinh tế và công tác công an, tình báo,
dân tộc thiểu số..v.v.. Mao Chủ Tịch đều đích thân phê
duyệt, sửa chữa, ký cho chuyễn đi, trong đó có những bức
điện đặc biệt quan trọng, Mao Chủ Tịch tự khởi thảo, khi
trả lời các bức điện của Hồ Chí Minh, Trung Ương Đảng Lao
Động Việt Nam trưng cầu ý kiến Trung Ương Đảng hoặc các bức
điện quan trọng của Mao Chủ Tịch, Trung Ương Đảng nêu ý
kiến hoặc kiến nghị với Hồ Chí Minh…”
Qua sự trình bầy
của La quý Ba, sự việc đảng Cộng Sản Việt Nam là nô lệ của
Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã rõ ràng. Ngay cả việc đấu tố
trong cải cách ruộng đất cũng là một bài học mà học trò
Việt Cộng thực tập với quan thầy Trung Cộng, với xác và
máu trên ba trăm ngàn người Dân Oan cũng như cán bộ bị sửa
sai. Chưa kể giai đoạn sau, khi gây chiến với Miền Nam,
Việt Cộng còn nợ Trung Cộng không biết bao nhiêu súng đạn,
quân trang, quân dụng và thực phẩm. Những Sĩ Quan Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa, sau khi bị lừa váo các trại cải tạo đều
có chế độ ăn uống giống nhau: Gạo Trung Cộng đầy sâu bọ
bò lổn nhổn trong các bao gạo mốc ẩm, mà lớp mốc ẩm có thể
dầy đến một xăng ti mét. Điều này chứng tỏ Việt Cộng sống
dựa vào “đàn anh – cha nuôi – ông chủ” Trung Cộng tối đa,
chưa kể khi Mỹ thả bom miền Bắc, Việt Cộng đã phải cầu cứu
Trung Cộng mang các giàn ra đa tối tân và hệ thống súng
phòng không dầy đặc không gian miền Bắc. Trung Cộng đã thừa
cơ hội, mang quân và ra đa sang miền Bắc, thiết lập doanh
trại với các biện pháp an ninh tối đa, sau đó, thản nhiên
sát nhập các vùng có ra đa này thành vùng của Tầu, mà
không có ý định trả lại. Từ các doanh trại cực kỳ an ninh
này, Trung Cộng đã khống chế toàn bộ miền Bắc qua các máy
móc gián điệp cực kỳ tinh vi, theo dõi các lãnh đạo Bắc Bộ
phủ, rồi “black mail” đe dọa những kẻ muốn trở cờ, hay
thăng thưởng cho những tên đầy tớ trung thành bằng tiền bạc
hay chức vụ.
Như thế, việc
Phạm Văn Đồng ký giấy công nhận chủ quyền của Trung cộng
trên Hoàng Sa cũng chỉ là một biện pháp trả nợ. Việc Việt
Cộng lờ đi sự ăn hiếp của Trung Cộng trên biển Đông, núp
tránh việc ngư dân bị bắn, giết, phá tầu, đòi tiền chuộc,
việc ký khai thác Bô Xít, cho thuê rừng đầu nguồn, cho thắng
các cuộc đấu thầu từ Nam ra Bắc… cũng chỉ là vấn đề trả nợ
mà thôi.
Dân Việt Nam,
nếu muốn được sống oai hùng, độc lập,không sợ Trung Cộng
ăn hiếp, thì dứt khoát phải lùa cái đảng Cộng Sản Việt Nam
nô lệ này xuống biển. Còn Việt Cộng thì còn Trung Cộng đứng
sừng sững sau lưng với cái búa đòi nợ!
CỘNG SẢN VIỆT
NAM ĐÃ LÀ NÔ LỆ CỦA TRUNG CỘNG TỪ NHIỀU THẬP NIÊN TRƯỚC
(3)
Trong cuộc nói
chuyện riêng với Tiến Sĩ Lê Quốc Quân tại Sài gòn ngày 9
tháng 8 vừa qua, ông có vẻ vui mừng cho biết là hiện nay
Hà Nội đang khởi động một khí thế mới nhằm chống lại sự
khống chế của Trung Cộng. Một nhà Dân Chủ khác, ông Nguyễn
Văn Văn ở Nghệ An, cho rằng ngoài việc tăng cường sức mạnh
quân đội, Nhà Nước đang từng bước tiến tới việc thay thế ảnh
hưởng của Trung Quốc bằng Hoa Kỳ. Việc Ngoại Trưởng
Hilary Clinton tuyên bố ngăn chặn sự độc quyền di chuyển
của Trung Cộng trên biển Đông cũng đã làm cho nhân dân Việt
Nam nức lòng chờ đợi. Thêm vào đó, sự kiện chiến hạm John
S. McCain ghé bến Đà Nẵng và 3 chiến hạm Curtis Wilbur,
Chung-Hoon, McCampbell bỏ neo ngoài khơi trong tháng 8 năm
2010 cũng là một dấu chỉ cho thấy Mỹ cũng đang tìm cách lấy
lại ảnh hưởng với Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam. Một số
bình luận gia còn cho rằng việc Hàng Không Mẫu Hạm USS
George Washington mời các tướng lãnh Cộng Sản Việt Nam
lên thăm tầu khi đang neo ở khoảng cách giữa Đà Nẵng và
Hoàng Sa là một cử chỉ thiết thực nhất của việc liên kết
giữa Việt Cộng và Hoa Kỳ trong tương lai để chống lại mộng
bá quyền của Trung Cộng.
Nhưng một trí
thức khác, Kỹ Sư Nguyễn Trung Lĩnh, người đã từng ở Âu
Châu 12 năm, nay đang hoạt động tại Hà Nội lại có quan điểm
hoàn toàn ngược lại. Ông nói: “Đừng vội sung sướng với những
biểu hiện bề ngoài đó!” Trong một cuộc nói chuyện dài khoảng
30 phút, ông cho rằng nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam khó
lòng thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Cộng đang đè nặng lên
dân Việt. Theo ông có hai cách duy trì vị trí “vĩ đại” của
Trung Cộng trên đất Việt. Trước hết, Trung Cộng tìm cách
khống chế các lãnh đạo cao cấp Việt Cộng qua những món nợ
từ trong cuộc kháng chiến chống Pháp đến cuộc chiến tranh
Việt Nam. Từ Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Nông Đức
Mạnh, đến Nguyễn Chí Vịnh.. đều bị Trung Cộng khống chế bằng
lá bài chính trị. Họ không thể nào thoát ra khỏi vòng kềm
tỏa của Trung Cộng. Mọi cuộc thăng chức hay bãi chức đều
do Cố Vấn Trung Quốc chỉ đạo. Từ đó, cho dù Việt Nam
không có treo cờ Trung Cộng trên khắp ngả đường, bàn tay
vô hình của Trung Cộng vẫn luôn đặt trên đầu các lãnh đạo
Việt Nam. Thứ hai, Trung Cộng tìm cách mua chuộc để thắng
hầu như tất cả các cuộc đấu thầu những công trình vĩ đại,
to lớn. Trung Cộng thường “lại quả” đến 30% cho một
chương trình đấu thầu. Số tiền này lại không đến từ Trung
Cộng mà đến từ những khế ước đấu thầu cho Việt Nam, tức
là, Tầu dùng tiền Việt mua chuộc quan chức Việt.
Nói một cách cụ
thể, nếu một công trình trị giá 5 tỷ đô la được thực hiện
ởViệt Nam, Trung Cộng lấy ra 30% tức là 1 tỷ rưỡi đô la để
chi cho các quan lớn. Một số tiến khùng khiếp làm cho tất
cả những tâm hồn tham nhũng không thể không rung động.
Môt giới chức cao cấp của Cộng Sản, còn đang trong vòng
hoạt động Dân Chủ một cách bí mật, nói rằng vụ Trung Cộng
chi cho Nguyễn Tấn Dũng 150 triệu đô để thực hiện dự án
Bô xít Tây Nguyên là có thật. Vụ này được một số Dân Biểu
phe chống Nguyễn Tấn Dũng đưa ra trước Quốc Hội để tố khổ
Dũng, nhưng vì tỷ lệ của phe có ăn chia với Thủ Tướng quá
đông, nên dự định này bị dìm chết ngay lập tức. Ngay trước
khi họp Quốc Hội, một phát ngôn viên đã ra thông báo là
chuyện này được Quốc Hội thông qua rồi, nên khỏi bàn tới.
Trong giới thạo
tin ở Sài Gòn cũng có vài lời xì xào về việc cựu Chủ Tịch
Lê Đức Anh bị tố cáo ăn ngủ với một nữ gián điệp Trung Cộng
khi sang Bắc Kinh và bị chụp hình quả tang trong những tư
thế không đẹp, nhưng rồi lại đâu vào đó, các bản tin đó lập
tức bị chìm chết liền, không thể lọt ra ngoài đến tai
nhân dân. Nhưng có một việc mà Bộ Chính Trị không thể
ngăn được đó là việc Tổng Cục 2 do Nguyễn Chí Vịnh cầm đầu
đang bị một nhóm tướng lãnh tố cáo đã có những hành vi
qua mặt luật pháp một cách công khai. Tuy trên giấy tờ và
danh hiệu chỉ là số “2” nghĩa là còn dưới số “1”, Nguyễn
Chí Vịnh còn đứng dưới Bộ Trưởng Quốc Phòng, nhưng gần
đây số “2” này đang lộng hành, dưới sự chỉ đạo của Trung
Cộng. Tổng Cục 2 không chừa một chỗ nào mà không “chọc”,
từ Tình Báo, Kinh Tế, Chính Trị, đến quân sự. Bằng chứng
rõ rệt nhất là vào đầu tháng 8 năm 2010, Nguyễn chí Vịnh
đã trả lời phỏng vấn của báo South China Morning Post về
sự liên hệ giữa Trung Cộng và Việt Nam. Theo nguyên tắc
thông thường, chỉ có Bộ Trưởng Quốc Phòng mới có quyền trả
lời những cuộc phỏng vấn như vậy, và mỗi lần phỏng vấn,
phải hỏi ý kiến Bộ Chính Trị. Đằng này, Nguyễn Chí Vịnh
khơi khơi nịnh bợ Trung Cộng khi trả lời một tờ báo mà ai
cũng biết là gián điệp của Trung Cộng. Vì thế, mà dư luận
cho rằng Tổng Cục 2 chính là cánh tay nối dài của Trung Cộng,
và Nguyễn chí Vịnh là một đứa con nuôi của đại sứ Bắc
Kinh.
Cũng theo Kỹ
Sư Nguyễn Trung Lĩnh, như vậy, việc vùng vẫy thoát khỏi quỹ
đạo của Trung Cộng là việc “còn lâu!” Rừng đầu nguồn đã lọt
vào tay Trung Cộng một cách chính thức, đường xuyên tốc Bắc
Nam đã được Trung Cộng và Việt Cộng ký kết, nhận cho
Trung Cộng độc quyền khai thác khắp cả đất nước Việt Nam.
Hàng dỏm của Trung Cộng tràn ngập, giết chết hàng nội địa.
Và còn hàng ngàn những dịch vụ từ trung bình đến lớn đều
nằm trong tay Trung Cộng.
Trong hai bài
trước, người viết đã trình bầy những dữ kiện liên quan đến
việc Hà Nội vẫn là nô lệ của Trung Cộng từ nhiều thập
niên trước, qua tuyển tập phát hành bởi Nhà Xuất Bản Lịch
Sử Đảng Cộng Sản Trung Quốc, in tại Bắc Kinh, năm 2002,
và được dịch bởi Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy, những chuyên
viên về Trung Quốc, đang sống ở Việt Nam. Tuyển tập này
được hiệu đính bởi Dương Danh Dy, có hàng chữ “Tài liệu lưu
hành nội bộ” lại được Tập San Truyền Thông (Canada) số 32
& 33, in lại vào Hạ - Thu 2009. Người chủ biên là Trần
Giao Thủy. Trong tuyển tập gồm toàn những tài liệu quý
giá này của nhà nghiên cứu Trần Giao Thủy, người ta thấy
có những bài viết xác định rõ vai trò của Trung Cộng trong
suốt chiều dài lịch sử của Việt Cộng. Một trong những bài
viết có tính tổng quát nhất là bài “Đoàn Cố Vấn Quân Sự
hoàn thành nhiệm vụ Viện Trợ cuộc đấu tranh chống Pháp của
Việt Nam” do Trương Quảng Hoa viết, có ghi lại những đặc
tính của những món nợ giữa Trung Cộng và Việt Cộng theo 6
điểm chính.
“Thứ nhất: Giúp
Quân Đội Nhân Dân tổ chức chỉ huy tác chiến, giành thắng
lợi chiến tranh chống Pháp.” Trong mục này, Trương quảng
Hoa ghi rõ: “Từ tháng 8 năm 1950, đoàn cố vấn quân sự
sang đến Việt Nam, đến đình chiến Dộng Dương năm 1954, Quân
đội nhân dân lần lượt tiến hành tám chiến dịch quy mô
tương đối lớn: Biên Giới, Trung du, Đông bắc, Nình Bình,
Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, Điện Biên Phủ. Trừ chiến dịch
Hòa Bình, do Đoàn cố vấn quân sự đang tập huấn chỉnh đốn
chưa ra mặt trận trực tiếp giúp chỉ huy ra, còn các chiến
dịch khác đều tiến hành dưới sự giúp đợ của Đoàn cố vấn
quân sự từ quyết sách đến tổ chức thực hiện trong suốt
quá trình chiến dịch.”
Trong đoạn này,
tác giả nói rõ “đã đập tan thắng lợi các kế hoạch chiến
tranh từ de Lattre de Tassigny đến Navarre, từng bước giành
thắng lợi trong chiến tranh chống Pháp.”
Đoạn tiếp theo
chỉ rõ Trung Cộng đã làm gì để giúp quân đội Việt Cộng:
“Thứ hai: Giúp
quân đội nhân dân tăng cường xây dựng quân sự, nâng cao tố
chất quân sự của bộ đội. Căn cứ theo yêu cầu phát triển của
tình hình Đoàn cố vấn quân sự giúp Quân đội nhân dân thực
hiện ba lần chuyển biến về tư tưởng chỉ đao tác chiến và
xây dựng quân đội, tiến hành ba lần chỉnh đốn biên chế tổ
chức trang bị và huấn luyện quân sự có tính cách toàn
dân….được Trung Quốc viện trợ và Đoàn cố vấn quân sự giúp
đỡ cụ thể, Quân đội nhân dân lần lượt thành lập 6 Đại
đoàn bộ binh và 1 đại đoàn công pháo biên chế, cải thiện
trang bị, tăng cường huấn luyện chiến thuật kỹ thuật bước
đầu nắm vững cách đánh vận động và nắm kỹ thuật lớn. Sức
chiến đấu nâng cao rõ rệt.”..
Đoạn thứ ba
nói về vai trò chính trị trong quân đội: “Thứ ba: giúp quân
đội nhân dân tăng cường xây dựng chính trị, nâng cao tố
chất chình trị của quân đội. Một là, giúp đặt đúng vị trí
và vai trò xứng đáng của công tác chính trị trong quân đội,
chú trọng tăng cường lãnh đạo tư tưởng, tăng cường chỉ đạo
công tác chính trị thời chiến, bắt tay từ giáo dục cơ bản,
có bước đi tổ chức tiến hành bốn đợt giáo dục tư tưởng
chính trị lớn trong toàn quân, từ đó nâng cao rất nhiều
giác ngộ chính trị của bộ đội… Hai là, giúp tăng cường xây
dựng Đảng trong quân đội. Sau khi công khai tổ chức của Đảng
Lao Động trong quân đội, giúp xây dựng và kiện toàn chế độ
Đảng ủy, xây dựng tập thể Đảng Ủy, làm sống động sinh hoạt
Đảng…. Ba là, giúp Tổng cục chính trị xây dựng kiện toàn
bộ máy các ban nghiệp vụ, xác định rõ ràng chức trách
công việc, huấn luyện cán bộ nghiệp vụ…”
Việc làm sau nữa
cũng là đi sâu, đi sát vào từng chi tiết trong việc huấn
luyện quân đội: “Thứ tư: Giúp Quân đội nhân dân đào tạo
huấn luyện cán bộ, nâng cao tố chất của đội ngũ cán bộ. Một
là, giúp đào tạo, nâng cao cán bộ. Đây là một khâu quan
trọng để làm tốt việc xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội nhân
dân, bảo đảm nhu cầu tác chiến và xây dựng quân đội….Hai là,
sau chiến dịch biên giới, kịp thời nắm bắt giúp giải quyêt
vấn đề đường lối, phương châm chính sách cán bộ…”
Đó là những mặt
nổi của quân đội nhân dân, sang đến vấn đề lương thực, hậu
phương, giao thông, xây dựng các tuyến đường chữa bệnh, xây
dựng binh trạm và hệ thống cấp cứu chữa bệnh… cũng nằm trong
tay cố vấn Trung Cộng. “Thứ năm:giúp quân đội nhân dân
tăng cường xây dựng hậu cần, nâng cao năng lực bảo đảm hậu
cần…”
Cuối cùng, “Thứ
sáu: Hỗ trợ làm tốt công tác viện trợ vật tư quân sự cho
Việt Nam, bảo đảm nhu cầu tác chiến và xây dựng quân đội
nhân dân… Theo thống kê chưa đầy đủ trong thời ký chiến tranh
chống Pháp, Trung Quốc đã viện trợ cho Quân đội nhân dân
Việt Nam 155,000 khẩu súng các loại, 57,850,000 viên đạn
các loại, 3692 khẩu pháo các loại, 1,080.000 đạn pháo các
loại, 840,000 quả lựu đạn, 1231 ô tô, 1,400,000 bộ quân
phục, hơn 14,000 tấn lương thực và thực phẩm phụ, hơn
26,000 tấn dầu, và rất nhiều thuốc men và vật tư quân dụng
khác..”
Như thế, món nợ
của Việt Cộng với Trung Cộng là một món nợ khổng lồ, không
biết đến thế hệ nào mới trả hết nổi. So sánh quân đội nhân
dân với một con người, từ những ngày mới được chập chững
sinh ra, cho đến khi thành nhân, đều được người bảo mẫu
nói tiếng Trung Hoa săn sóc, thì làm sao mà có một đứa con
bất hiếu dám chống lại người bảo mẫu, vú em như thế? Chỉ
trừ khi người con kia dám làm cách mạng, mà hiện nay, miệng
người con đang ngập ngụa tiền bạc, tay chân vơ vét sắc dục
thả giàn, quyền hành mênh mông trên tất cả thân phận giống
nòi Việt Nam, không thể tin rằng có một ngày không xa, Việt
Cộng bất ngờ phản lại Trung Cộng. Mà nếu có ngày đó thực,
vì người con bỗng nhiên tỉnh ngộ, nhớ lại Tổ Tiên dân Việt
mới chính là nguồn máu nóng của mình, thì cũng phải có sự
giằng xé nội tâm ghê gớm lắm, có khi phải mất đi một phần
thân thể, phải tự chặt đi một cánh tay, một bàn chân của
mình, hay phải cắt bỏ cái bao tử tham lam đi, thì mới
mong có ngày trở thành người Việt Nam chân chính được.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Những
vi khách không mời đã theo đoàn quân
xâm lược hợp tác với tây và tàn phá nước
An Nam như thế nào, xin mời xem thật kỹ.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Richard
Nguyen
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment