Thư
số 10 gởi
Người Lính Quân Đội Nhân Việt Nam
*********
Phạm Bá Hoa
Tôi tên Phạm Bá Hoa, chào đời năm
1930 tại đồng bằng sông Cửu Long. Tôi phục vụ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 21 năm
trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, sau đó tôi bị tù không án 12 năm 3 tháng
trong các “trại tập trung” mà lãnh đạo của Các Anh gọi là “trại cải tạo”. Hiện
cư ngụ tại Hoa Kỳ. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam khi mà quê
hương tôi chưa có dân chủ, tự do, và nhân quyền thật sự.
Xin được gọi “Người Lính
Quân Đội Nhân Dân Việt Nam” là Các Anh để tiện trình bày. Chữ “người lính” mà
tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo
cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng, gọi
chung là “cấp lãnh đạo”. Là người lính trong quân đội “Nhân Dân”, chắc rằng Các
Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Các Anh trong quân đội nhân
dân mà. Với lại, Tổ Quốc & Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản
hay bất cứ đảng chính trị nào cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử. Và nội
dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.
Với thư này, tôi giúp Các
Anh nhận ra “Chân Dung Xã Hội Chủ Nghĩa” về dối trá, hèn hạ, đồng thời giúp Các
Anh có nét nhìn từ góc cạnh xã hội dân chủ văn minh, để hiểu “tại sao xã hội
Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của CSVN lại hèn hạ với Trung Cộng như vậy”.
Thứ nhất, vẫn là dối trá
trong giáo dục.
Với bài “Giả dối lên ngôi,
đạo đức suy đồi”, phóng viên Thanh Quang, đài phát thanh Á Châu Tự Do
ngày 24/6/2012, nhận xét rằng: “Tình trạng đạo đức suy đồi dẫn tới nhiều tệ
nạn xã hội trong nước, vẫn làm trĩu nặng nỗi trăn trở của những người có tâm
huyết với quê hương, dân tộc”.
Một trong những nhà giáo dục
luôn quan tâm cho đất nước dân tộc là Giáo sư Hà Văn Thịnh từ Huế, cảnh
báo rằng: “Trong bản chất xã hội Việt Nam có sự giả dối, vô cảm, ích kỷ, và
tàn nhẫn. Đó là tất cả những gì biểu hiện của văn hoá Việt Nam hiện nay. Nói ra
chẳng ai thích đâu, nhưng đó là sự thật. Vì sao? Vì bây giờ người ta giả dối
từ A tới Z, giả dối từ trên xuống dưới. Ai muốn làm gì thì làm, ai muốn lừa
ra sao thì lừa, muốn tự tung tự tác hay ăn cướp thế nào đó vẫn được.”
Với bài “Lạm bàn về căn
bệnh dối trá tại Việt Nam”, Giáo sư Trần Kinh Nghị từ Hà Nội, đề cập
tới điều có thể nói là hài hước, nhưng rất chua chát: “Ở Việt Nam, mọi thứ
đều giả, chỉ có dối trá là thật! Dối trá, thoạt nghe qua cũng chỉ là
một thói đời không mấy tốt đẹp, vốn nhan nhản trong xã hội loài người, nên người
ta dễ tưởng rằng “không có gì nguy hại lắm”...... Vẫn theo Giáo Sư Nghị: “Thói
làm thì láo, báo cáo thì hay” cùng thói “chạy theo thành tích” vốn phát xuất từ
thời xã hội chủ nghĩa Miền Bắc, đã góp phần làm trầm trọng thêm căn bệnh dối
trá ở Việt Nam hiện nay, và đã trở thành “căn bệnh trầm kha” bám sâu rễ trong
toàn xã hội đến mức ai không biết nói dối, không biết làm dối, và không
biết “ăn theo nói leo” thì không thể tồn tại. Tệ nạn bè phái và tham
nhũng nghiêm trọng đến mức tràn lan trên khắp miền đất nước hiện nay, cũng có
nguyên nhân sâu xa từ căn bệnh dối trá ấy, để từ đó, sinh sôi và dung dưỡng cho
những kẻ bất tài, những kẻ vô đạo đức, nhưng thích làm quan”.
Nhà văn Trần Mạnh Hảo, cũng không tránh khỏi âu lo khi căn bệnh giả dối ấy “đang
thống trị xã hội” Việt Nam, mà chủ yếu bắt nguồn từ tình trạng thiếu trung thực
của nền giáo dục nước nhà, nhưng toàn bộ hệ thống đã hư, đã sai rồi, thì phải
thay đổi cả hệ thống mới cải tạo được xã hội hiện nay. Ông nhấn mạnh: “Sự
giả dối tồn tại ở xã hội Việt Nam lâu rồi.
Theo Giáo Sư Hoàng Tụy.
Không thể nào tái cấu trúc xã hội được, bởi vì tái cấu trúc là những bộ phận rời,
nhưng toàn bộ hệ thống đã hư, đã sai rồi, thì phải thay đổi cả hệ thống mới cải
tạo được xã hội hiện nay. Hiện sự giả dối đang thống trị xã hội chúng ta.”
Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện với bài viết “Chiều Cuối Năm Nhìn Lại” (2011), cho thấy
ông không quan tâm đến những vụ giết người cướp của ngày càng táo bạo mà tuổi đời
càng trẻ thì cách giết người càng dã man độc ác hơn, vì điều đó đã có nhiều người
khẳng định rồi. Ngay cả Nghị viên Quốc Hội Việt Nam Dương Trung Quốc cũng
nói rằng: “Thế hệ chúng ta là thế hệ mất gốc, mà mất gốc là mất những giá trị
tốt đẹp của Việt Nam. Còn xã hội Việt Nam hiện nay, về mặt đạo đức, xuống cấp
chưa từng thấy. Tình trạng này đầy tràn những mặt báo “lề phải” (báo quốc
doanh. PB Hoa). Ngày nào cũng cướp, cũng giết, cũng có những tội phạm xã hội
khủng khiếp. Nó tràn lan, không còn là hiện tượng riêng lẻ, mà cả hệ thống như
khiến cho những người có tâm huyết với quê hương vừa trăn trở vừa cảm thấy bất
an”.
Nhận thức của Các Anh như
thế nào về “chính sách giáo dục của xã hội chủ nghĩa” thì tôi không biết, nhưng
nhận thức của tôi như thế này:
“Giáo dục là nền tảng trang bị con người về nhân cách và kiến
thức”. Nhân cách, cần kiến thức hậu thuẫn những lý lẽ để tránh bị lợi dụng
vào mục đích không tử tế. Kiến thức, cần nhân cách trợ giúp biến kiến thức
trở thành những dự án những công trình hữu ích trong cuộc sống, đồng thời tạo
môi trường cho con người gần gủi nhau hơn, bởi ngày nay mọi sinh hoạt trong xã
hội đều có mối tương quan tác động lẫn nhau, ngay cả sinh hoạt từ thiện cũng vậy.
Giáo dục bao gồm: “Giáo dục gia đình , giáo dục học đường, và giáo dục xã hội”.
- Giáo dục gia đình,
do bẩm sinh, huyết thống, và cung cách sống của các thành viên trong gia đình,
nhất là ông bà cha mẹ.
- Giáo dục học đường,
do chính sách của chánh phủ, hệ thống tổ chức, biên soạn sách giáo khoa, chính
sách hỗ trợ nhà giáo, hỗ trợ học sinh sinh viên, phương pháp giảng dạy, cung
cách của thầy dạy.
- Giáo dục xã hội, do
những chính sách cùng hệ thống điều hành của chánh phủ, những sự kiện phát sinh
và những phương cách giải quyết trong các lãnh vực sinh hoạt xã hội.
Giáo dục thể hiện đường lối của lãnh đạo thực hiện mục tiêu
quốc gia. Muốn đất nước phát triển như thế nào, chánh phủ phải hoạch định chính
sách chiến lược như thế ấy:
- Các ngành, căn cứ vào đó soạn thảo những chính sách dài hạn và những
kế hoạch ngắn hạn để thực hiện, và cung cấp nhu cầu chuyên viên chuyên gia theo
từng giai đoạn cho ngành giáo dục.
- Ngành giáo dục, đào tạo chuyên viên chuyên gia thích ứng cho nhu cầu đó. Đồng
thời liên tục đào tạo và phát triển đội ngũ sư phạm về đạo đức lẫn kiến thức, cải
tiến và phát triển sách giáo khoa phục vụ cho nhu cầu chiến lược, cải tiến dụng
cụ trợ giáo, phương thức giảng dạy, cơ sở và trang bị, ..v..v...
Với nhận thức đó, tôi khẳng
định là từ khi cộng sản cai trị toàn cõi Việt Nam đến nay, là một xã hội toàn dối
trá, dối trá đến mức mà những nhà văn nhà báo nhà chính trị trên đây, phải thốt
lên lời than nghe như đau đớn từ trong đáy tâm hồn của những vị ấy, rằng: “Xã
hội Việt Nam ngày nay bị thống trị bởi giả dối. Xã hội Việt Nam, nếu ai không
biết dối trá thì không thể tồn tại, đến mức mà ngày nay tất cả đều giả, chỉ có
dối trá là thật. Với một xã hội như vậy đã dẫn đến tình trạng mà mọi người không còn tin vào bất cứ điều gì chung quanh họ,
thậm chì là cũng không tin ngay bản thân của họ nữa, chỉ vì nếu họ thành thật với
chính mình thì họ không thể tồn tại trong cuộc sống! Xin Các Anh hãy nhớ, đó không phải là ngẫu nhiên, mà là bắt
nguồn từ chính sách giáo dục của nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị, vì sau khi
Liên Sô mà lãnh đạo Các Anh tôn vinh là “thành trì vững chắc của chủ nghĩa
xã hội đã sụp đổ hoàn toàn” từ đầu những năm 1990, kéo theo các quốc gia cộng
sản vùng Đông Âu Châu sụp đổ, để từ đó chế độ dân chủ tự do tái sinh, thì CSVN
chỉ có thể tồn tại trong một xã hội dối trá hiện nay mà thôi.
Tôi tóm tắt để Các Anh có
nét nhìn trung thực vào một góc của Chân Dung Xã Hội Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
ngày nay. Với dân số 89 triệu người trong một khoảng không gian 331.000
cây số vuông, đã và đang sống với nhau dưới chế độ cộng sản độc tài, dối trá,
và tham nhũng, dẫn đến một xã hội băng hoại đạo đức, đến mức mà ngày nay Hồ Chí
Minh lưu manh đĩ điếm, Hồ Chí Minh trộm cắp cướp giật, Hồ Chí Minh lừa đảo dối
trá, trở thành chuyện thường ngày trên đường phố thủ đô kinh tế Việt Nam. Viết
đến đây tôi chợt có ý nghĩ: “Biết đâu là vào thời gian nào đó, lãnh đạo đảng
với nhà nước CSVN sẽ phá bỏ hệ thống nhà tù vì số người không lương thiện
chiếm đa số trong xã hội, và xây dựng Những Trung Tâm Bảo Vệ Người
Lương Thiện để nhận những người lương thiện trở thành thiểu số vào sống ở
đó, trong khi người không lương thiện sống trong xã hội phải đi hành nghề của họ
và đóng thuế đầy đủ, để chánh phủ có tiền nuôi người lương thiện trong các
Trung Tâm. Điều kiện để được nhận vào các Trung Tâm Bảo Vệ là phải làm đơn kèm
theo giấy tờ chứng minh là người lương thiện, và mang tay đến nộp cho Hội Đồng
Cứu Xét theo tiêu chuẩn gắt gao để ngăn chận đám người không lương thiện trà trộn
vào sống trong các Trung Tâm. Sở dĩ phải mang tay, vì các cấp địa phương lúc ấy
thuộc thành phần đa số, tức thành phần không lương thiện, nên lời phê của họ
không có giá trị đối với Hội Đồng Cứu Xét”.
Các Anh hiểu theo nghĩa ĐEN hay nghĩa BÓNG đều đúng cả, và từ đó
Các Anh suy nghĩ .......
Thứ hai, cái hèn của giới
cầm bút Việt Nam.
Với bài viết “Nó Tự Cắt
Nó” hay “Sự Hèn Mạt Của Báo Chí” của Trương Duy Nhất. Chỉ riêng cái tựa
bài thôi, cũng đủ cho người đọc cảm nhận được nỗi đắng cay của tác giả nói
riêng, và của những người “được” nhà nước cộng sản cấp cho cái “thẻ nhà báo”
nói chung.
Tác giả Trương Duy Nhất kể lại: “Vài năm trước, trong một bữa nhậu nhân “hội
nghị tuyên giáo toàn quốc” tại Đà Nẳng, một lão bá vai tôi nói một câu rất hách,
báo chí các cậu hèn bỏ mẹ. Rồi tác giả giải thích: “Một tay nó
bóp “chỗ nhược” bên dưới (mạn phép thay một chữ trong nguyên bản. PB Hoa),
còn tay kia nó dán băng keo bịt miệng mình, thế mà nó lớn tiếng chê mình hèn. Định
vung cho nó một đấm, nhưng nghĩ lại hắn nói không sai. Báo chí kiểu gì mà trong
vụ cưỡng chế đất đai ở Văn Giang (Hưng Yên), chỉ một cú điện thoại, một lệnh miệng
đã khiến cho 700 tờ báo câm nín, không dám cử phóng viên đến nơi đưa tin. Thậm
chí khi hai phóng viên của đài tiếng nói Việt Nam (VOV) đến đó đã bị đánh đập,
trấn áp dã man, bị còng tay bắt giữ như tội phạm, thu máy ảnh, thu thẻ nhà báo,
thẻ đảng, thẻ luật gia… mà không một tờ báo nào dám lên tiếng, kể cả cơ quan của
họ. Và bản thân 2 nhà báo bị đánh, cũng không dám công khai nói lên sự thật.
Chưa bao giờ báo chí
lại sợ hãi đến như vậy. Chưa bao giờ
báo chí kỳ lạ như giai đoạn này, xa lánh, tránh né hầu hết các vấn đề nhạy cảm
mà lẽ ra nhà báo phải có mặt tại chỗ. Vì sao tránh, vì sao không đăng, vì sao
không can dự? Vì đó là vấn đề “nhạy cảm”..... Nhưng vấn đề nhạy cảm mới cần báo
chí can dự, nếu không nhạy cảm thì viết để làm gì, tuyên truyền làm gì, can dự
làm gì?
Với blogger Mười Sáu:
(1) Một độc giả. “Là người dân đang sống tại Việt Nam, tôi thấy cần phải nói
sự thật một điều. Đó là từ nhiều năm nay tôi chẳng đọc một bài báo nào do báo
chính thống (tức báo của nhà nước. PB Hoa)
đăng tải, gần đây cứ bật truyền hình từ địa phương đến truyền hình trung ương
là tôi “dựng cả da gà”. Vì sao thế? Vì tôi không thấy ở những phương tiện ấy
phát ra những câu nói của “những người yêu nước thực sự”. Chỉ thấy những tiếng
nói mang tính bênh vực, chụp mũ, phản cách mạng, toàn thấy những bài viết cũng
như những lời nói sáo rỗng, những lời nói tự khen ...Thử nghĩ xem có thời đại
nào như thời buổi này, có dạng truyền thông nào như ở Việt Nam, ... đến cả việc
dân chúng xuống đường biểu tình chống Trung Cộng (xin phép thay chữ Trung
Quốc của tác giả bằng chữ Trung Cộng. PB Hoa), một hành động thật đậm đà
truyền thống dân tộc, noi gương các anh hùng, những cha ông, một hành động
thể hiện lòng yêu nước, thì báo chí làm ngơ!”
(2) Blogger Trường Sa. Nếu chúng ta (ở hải ngoại) có phương tiện và thì giờ, nên
tìm đọc cho biết, đồng thời giúp đồng bào mình một tay trong việc phổ biến rộng
rãi tin tức báo chí ngược về Việt Nam (qua email), bởi đây cũng là một
phương cách hữu hiệu ngăn chặn, giảm thiểu những tội ác, những bất công, đầy dẫy
trong xã hội vô thần cộng sản mà người dân Việt Nam là những nạn nhân đang phải
gánh chịu thảm họa”.
(3) Nguyễn Chính, cựu phóng viến báo Đại Đoàn Kết nhận định: “Cái sợ cái
hèn của người cầm bút, nhất là làm báo, nguy hiểm lắm. Rất vô thức, nhưng anh
ta sẽ làm “lây nhiễm” cái sợ cái hèn nhát cho đồng bào mình”.
(4) Blogger Phan Văn
Tú. Với câu nói rất đau: “Trong đầu thằng
nhà báo Việt Nam nào hình như cũng có một cái kéo. Nó tự cắt (bài) nó
trước khi bị người khác cắt. Cái thói tự biên tập, tự ra lệnh, tự cột nhốt
đã hình thành như một thói nết tệ hại trong làng báo..
(5) Nhà báo Đào Tuấn, được giới thiệu là một “cây bút kỳ cựu của báo Đại Đoàn Kết,
nay sang tờ Dân Việt”: “Nhiều người cầm bút giờ đây còn bi kịch hơn khi hàng
ngày phải viết những điều không đúng với sự thật… Những chuyện hằng ngày, cho
dù tin hay không tin cũng phải viết ra một điều không thật -một cách khéo
léo gọi là dối trá- để thuyết phục người đọc tin rằng đó là sự thật.”
Cuối cùng, Trương Duy Nhất kết luận, đay đi nghiến lại nhiều lần, trong nhiều
câu khác nhau, trong suốt nửa sau của bài viết: “Chưa bao giờ báo chí lại
sợ hãi đến vậy. Run sợ đến dối trá. Báo chí chưa bao giờ nhạt chán, hèn nhục
đến như vậy. Ở Việt Nam, nếu không mù chữ, ai cũng có thể làm báo được cả” (vì
chỉ làm theo lệnh của đảng với nhà nước, nên dễ ợt. PB Hoa).
(6) Nói đến cái hèn của người cầm bút Việt Nam, không thể không
nhớ đến bài “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa” của
Nguyễn Minh Châu. Ông là cây viết có tâm huyết, tiêu biểu cho phong trào đổi
mới văn học Việt Nam. Bài viết của ông để lại nhiều suy nghĩ cho người đọc, chính
là vấn đề cái hèn. Có lúc ngỡ như ông vừa viết vừa nghẹn ngào với giọng văn đầy
cảm xúc: “Văn chương gì mà
muốn viết một câu trung thì phải viết một câu nịnh? Hèn. Hèn chứ?
Nhà văn nước mình tận trong tâm can ai mà chẳng thấy mình hèn? Cái sợ, nó
làm mình hèn. Vì thế mà từ xưa tới nay có bao nhiêu nhà văn nhà thơ đã đi ở
ẩn ngay trong tác phẩm của họ? Chúng ta vắng thiếu những cây thông đứng sừng sững.
Có một nhà văn đàn anh nâng chén rượu lên giữa đám đàn em mà nói rằng: “Tao
còn sống, còn cầm bút được đến bây giờ, là nhờ tao biết sợ!. Rồi
ông ngửa mặt lên trời cười run giường trong khi nước mắt tuôn lã chã, giọt đổ
xuống đất, giọt đổ ngược vào lòng”. Có người cầm bút đến lúc sắp bước
sang thế giới bên kia, vẫn chưa dám thốt lên một lời nói thật tự đáy lòng, “không
dám viết hồi ký thực, vì sợ để liên lụy đến đời con cái. […] Sao mà khổ vậy?”
Tôi nghĩ, khi mà Các Anh
hiểu được chính sách giáo dục người dân trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà tôi
nói ở trên, Các Anh sẽ không ngạc nhiên khi nhận ra chân dung các lãnh vực sinh
hoạt trong xã hội đều băng hoại mà nặng nhất là trong giới giáo dục và giới cầm
bút. Mà “khi giới nhà giáo nhận rõ sự dối trá trong giáo dục, và
khi giới cầm bút, nhìn rộng hơn là giới truyền thông nhận mình là
hèn”, thì mọi người trong xã hội không còn một chỗ nào để tránh né, cũng
không còn một điều gì để tin nữa! Các Anh thử nhìn sang xã hội dân
chủ tự do để thấy giới nhà giáo được tôn trọng là “những nhà kiến trúc” đào tạo
con người phục vụ xã hội, còn giới cầm bút được mọi người tín nhiệm, vì họ là
những nguời có khả năng giúp mọi người nhận ra chân dung xã hội với những góc cạnh
khác nhau trong cuộc sống, đồng thời hướng dẫn dư luận đưa xã hội ngày càng
phát triển, đặc biệt về văn hoá xã hội.
“Nhưng tại sao hèn? Tại
vì giới này luôn luôn sợ hãi, sợ hãi đến mức tự mình cắt xén sự thật trong bài
viết của mình, sợ hãi đến mức phải tự nhận mình còn sống chính là nhờ biết sợ
hãi. Tại sao sợ hãi? Tại vì chính sách giáo dục dạy cho mọi người
phải biết sợ hãi mà phục tùng mệnh lệnh của lãnh đạo đảng với lãnh đạo nhà nước,
rồi hệ thống truyền thông quốc doanh biến chính sách giáo dục đó thành những
bài viết, những hình ảnh chuyển tải cho toàn xã hội. Tại sao đảng với
nhà nước lại dạy dân phải sợ hãi? Tại vì lãnh đạo đảng cộng sàn là đảng
độc tài, lại giành độc quyền lãnh đạo, mà độc tài thì người dân không chấp nhận
cho nên đảng với nhà nước lúc nào cũng nơm nớp sợ hãi người dân nổi dậy
lật đổ giết chết. Tôi dẫn chứng: Từ khi có chế độ cộng sản độc tài trên
thế giới từ đầu thế kỷ 20 đến nay, không người dân nào từ xã hội dân chủ tự do,
lại bỏ làng xã quê hương mà chạy sang định cư tại bất cứ quốc gia nào bị cộng sản
cai trị, như cộng sản Liên Sô, các quốc gia cộng sản Đông Âu, cộng sản Bắc Hàn,
cộng sản Cu Ba, cộng sản Trung Hoa ..v..v.. Ngược lại, chỉ có người dân từ
các quốc gia cộng sản trốn chui trốn nhủi, chấp nhận mọi hiểm nguy để vượt lên
sự chết mà đi tìm sự sống tại các quốc gia dân chủ tự do, Việt Nam chúng ta
là trường hợp điển hình chính xác nhất: (1) Sau Hiệp Định Đình Chiến
ký ngày 20/7/1954 tại Geneve, Thụy Sĩ, Việt Nam bị nhuộm đỏ nửa nước phía bắc,
đã có 875.478 người trên đât bắc 20 năm xã hội chủ nghĩa chạy trốn cộng sản vào
Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi định cư. (2) Theo tài liệu của Cao Ủy Tị Nạn
Liên Hiệp Quốc phổ biến năm 2000, từ năm 1976 đến năm 1995, tức sau 20 năm cộng
sản nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam, đã có 839.200 người Việt Nam vượt biên và
vượt biển đến định cư tại 91 quốc gia tự do. Đồng thời ước tính khoảng 450.000
đến 500.000 người Việt Nam đã chết trên biển cả cũng như trong rừng sâu! Thậm
chí đến tháng 5/2012 vừa rồi, vẫn có đồng bào cùng tỉnh với ông Hồ dùng tàu vượt
biển sang Australia xin tị nạn!
Các Anh biết tại sao
không? Tại vì xã hội chủ nghĩa là đồng nghĩa với chủ nghĩa giết người. Tôi
dẫn chứng: “Ngày 12/6/2007, Tổng Thống Bush chủ tọa lễ khánh thành “Tượng
Đài Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản thế Giới” tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, với sự
tham dự của đại diện 25 quốc gia đã và đang bị cộng sản cai trị. Trong bài diễn
văn của Tổng Thống Hoa Kỳ, có đoạn: “... Đây là biểu tượng thảm họa kinh
hoàng trong thế kỷ 20 của nhân loại nói chung, và 25 quốc gia bị cộng sản cai
trị nói riêng. Từ nay, oan hồn của hơn 100.000.000 (100 triệu) nạn nhân cộng
sản trên thế giới, được những thế hệ hôm nay và những thế hệ ngày mai tưởng
nhớ”....
Chưa hết, Các Anh nên đọc
vài con số mà tôi trích ở trang 14 trong quyển “Le Livre Noir du Communisme”, tạm
dịch là “Sách Đen về Chủ Nghĩa Cộng Sản” của Stéphane Courtois và 5 tác giả nữa,
ấn hành năm 1997 tại Pháp. Theo các tác giả, thì: (1) Cộng sản Liên Sô
đã giết 20.000.000 người. (2) Cộng sản Trung Hoa đã giết 65.000.000 người.
(3) Cộng sản Bắc Hàn đã giết 2.000.000 người. (4) Cộng sản Cam-Bốt
đã giết 2.000.000 người. (5) Các quốc gia cộng sản vùng đông Châu Âu đã
giết 1.000.000 người.
Riêng về cộng sản Việt Nam
đã giết bao nhiêu người, thì tài liệu trong nước và ngoại quốc mà tôi tham khảo,
cho thấy: Trong cải cách ruộng đất giai đoạn 1953-1955 trên đất bắc xã hội
chủ nghĩa, theo nhật báo “Nhân Dân” ngày 20/7/1955 cho biết, sau 6 đợt cải cách ruộng đất đã có 10.303.004 nạn
nhân. Trong Tết Mậu Thân năm 1968 trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa chúng
tôi, theo tác giả David T. Zabecki trong quyển “The Vietcong Massacre at
Hue” ấn hành năm 1976, số hài cốt tìm được do cộng sản Việt Nam đã giết trong
21 ngày chiếm giữ một phần thành phố Huế, và chôn tập thể trong các hầm là
2.810 người trong tổng số dân ghi mất tích hơn 5.000 người! (trích bài
viết của tác giả Lữ Giang. PB Hoa) Trong chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng
Hòa chúng tôi 1954 - 30/4/1975, theo tài liệu đúc kết từ Đại Hội 4 của CSVN,
ít nhất là 4.000.000 thanh niên miền Bắc đã chết trong cuộc chiến xâm
lăng Việt Nam Cộng Hòa, gồm cả số người chết trên đường xâm nhập từ Bắc vào
Nam, do lời của Trung Úy Khảm nói với chúng tôi khi chúng tôi bị giam tại Trại
2, Liên Trại 1, Đoàn 776 tỉnh Hoàng Liên Sơn năm 1977. Nhưng theo nhà văn nữ
Dương Thu Hương (cựu đảng viên cộng sản) thì số người chết lên đến 10.000.000
người!
Hãy nghe Thủ Tướng CSVN
Phạm Văn Đồng, nói trong bài diễn văn dài lê thê ngày 1/5/1975, rằng: “Thống
nhất để đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Chủ Nghĩa Xã Hội.
Việt Nam là lá cờ đầu, là đội quân tiên phong tiến hành cuộc Cách Mạng Xã Hội
Chủ Nghĩa trên toàn thế giới”. Được hiểu là đảng CSVN còn tiếp tục giết chết
người dân xã hội chủ nghĩa dưới quyền cai trị của họ nữa, vì xã hội chủ nghĩa đồng
nghĩa với giết người mà.
Các Anh hãy nhìn, hãy suy
ngẫm, và suy ngẫm từ nơi sâu thẳm của trái tim Các Anh. Và Các Anh có đồng ý với
những dẫn chứng của tôi không? Nếu không, sao Các Anh lại vô cảm hoặc là
chủ quan đến như vậy? Nếu có, thì Các Anh đang nghĩ gì cho những thế hệ
đương thời có cả thân nhân thân quyến Các Anh, và những thế hệ tương lai .....
Chẳng lẽ Các Anh vẫn chịu gói mình trong cái xã hội chủ nghĩa dối trá và hèn nhục
đến như vậy hay sao?
Thứ ba, Hải Quân Việt Nam
và Biển Đông.
Trong tình hình Biển Đông
như đang thấp thoáng cơn giông bão, ngày 7/7/2012, Chủ Tịch của Các Anh là ông Trương
Tấn Sang, đến thăm Vùng 3 Hải Quân tại Đà Nẳng. Nói chuyện với các cấp của đơn vị này, ông
Sang yêu
cầu các binh sĩ phải huấn luyện làm chủ vũ khí trang bị mới. Theo bản tin Thông tấn xã Việt Nam, ông Sang chỉ thị Hải Quân phải kiên quyết bảo vệ
toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ trên biển. Tuy nhiên, ông cũng đặc biệt nhắc
nhở phải kiên trì, khôn khéo trong xử lý các tình huống để giữ
vững ổn định, hòa bình, tạo điều kiện cho ngư dân
đi biển và phát triển các ngành kinh tế biển của đất nước. Theo trang điện tử Đài Tiếng Nói Việt Nam (VOV), cấp lãnh đạo của Vùng 3 Hải Quân đã khẳng định với ông Sang rằng:
“Lực
lượng Vùng 3 Hải Quân sẽ bảo vệ vững chắc
chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ các hoạt động kinh tế trong vùng đặc quyền của Việt Nam
dù đối mặt với nhiều khó khăn”. Trước đó, ông Sang cũng đến thăm Quân Khu 5, ông cũng đã đề cập đến bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, và cấp lãnh đạo của họ cũng hứa sẽ bảo vệ chủ quyền lãnh
thổ.
Xin nhắc lại. Ngày
21/6/2012, Quốc Hội Việt Nam thông qua Luật Biển gồm 55 Điêu trong 7 Chương, đã
chánh thức ban hành ngày 16/7/2012, và sẽ có hiệu lực từ ngày 1/1/2013. Trong
Điều 1 Chương 1 qui định rằng “Luật này quy định về đường cơ sở, nội thủy,
lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo,
quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền
chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt
Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý và bảo vệ biển, đảo”.
Nội dung của Luật Biển, phủ
định điều mà Trung Cộng nhiều lần tự mình tuyên bố giành chủ quyền trên các quần
đảo, đảo, và vùng biển thuộc Việt Nam. Đây là điều tốt, nhưng liệu lãnh đạo
CSVN có dám ra lệnh cho Hải Quân Nhân Dân và Cảnh Sát Biển ra khơi, để bảo vệ
ngư phủ khi bị tàu của Trung Cộng rượt đuổi, ủi chìm, tịch thu tài sản, và bắt
ngư phủ đưa tiền chuộc không? Hay vẫn cứ như “không nghe không thấy không biết”
như lâu nay, vì “người lạ tàu lạ” luôn nắm quyền chủ động trên biển hành động
tàn bạo với “người quen tàu quen”, cứ để Dân Quân Biển tự lo? Luật Biển rất cần
thiết, nhưng bảo vệ biển đảo và bảo vệ ngư dân thật sự là điều cần thiết hơn,
thậm chí là tối cần thiết. Nếu không hành động như vậy, Luật Biển chỉ có tác dụng
trước mắt làm giảm sự phẫn uất của đồng bào phẫn nộ hành động của Trung Cộng lấn
chiếm đảo biển Việt Nam, cũng như Hiến Pháp chỉ có tác dụng phô trương đường lối
chớ không phải thực hiện đường lối đó. Nói cho đúng, lãnh đạo CSVN chỉ áp dụng
Hiến Pháp để bảo vệ độc tài và bao che tham nhũng mà thôi. Vậy là, quanh đi quẫn lại, lãnh đạo CSVN vẫn là dối trá!
Vậy, liệu hai ông đó -nhất
là Tư Lệnh V3HQ- có dám ra lệnh cho tàu chiến ra khơi rượt đuổi lại tàu của
Trung Cộng để bảo vệ ngư phủ không? Với phản ứng hèn hạ nhục nhã trên hồ sơ Biển
Đông trong thời gian qua, tôi tin hai ông ấy “chỉ dám tuyên bố chớ không dám
hành động”. Nói cho đúng là tôi không tin nhóm lãnh đạo CSVN dám ra lệnh cho
chiến hạm của Hải Quân chống lại tàu cá Trung Cộng được sự bảo vệ bảo
vệ bởi các chiến hạm của quốc gia họ.
Tiếp đây là vài sự kiện
sau ngày Luật Biển được thông qua:
Ngày
21/6/2012, song song với phản đối LUẬT BIỂN VIỆT NAM, Trung Cộng cho thành lập
thành phố Tam Sa cấp địa khu, bao gồm toàn bộ Biển Đông Việt Nam trong phạm vi
“đường lưỡi bò” mà Trung Cộng tự vẽ và công bố với thế giới vào năm 2009.
Ngày
23/6/2012, Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung cộng (CNOOC) thông báo mời thầu
quốc tế 9 khu vực rộng 160.000 cây số vuông thuộc vùng đặc quyền kinh tế 200 hải
lý và thềm lục địa của Việt Nam.
Ngày
26/6/2012, Cơ quan Giám sát hàng hải (CMS) Trung Cộng điều động 4 tàu Hải Giám
rời căn cứ tại thành phố Nam Á thuộc đảo Hải Nam để thực hiện chuyến tuần tra
trên Biển Đông. Cũng trong ngày này, Hồng Lỗi,
người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Trung Cộng tuyên bố trong cuộc họp báo rằng: “Quân
đội đã thiết lập chế độ tuần tra bình thường để đề phòng chiến tranh vùng biển
Nam Sa” (tức quân đảo Trường Sa của Việt Nam).
Ngày
13/7/2012, Trung Cộng đưa 30 “tàu đánh cá”, gồm 1 tàu tiếp liệu có trọng tải
3.000 tấn, và 29 tàu cá trọng tải 140 tấn mỗi chiếc. Đoàn tàu cá này hướng đến
quần đảo Trường Sa và hoạt động trong vùng này 20 ngày. Ngày 16/7/2012, đoàn
tàu cá đã đến đảo Chữ Thập. Theo báo chí TRung Cộng thì đây là đoàn tàu cá lớn
nhất của tỉnh Hải Nam.
Ngày
19/7/2012, Trung Cộng điều động chiến hạm đổ bộ xuống khu vực Trường Sa, theo
báo chí nước này thì đây là con tàu chở lính và phương tiện tiếp liệu.
Tân
Hoa xã ngày 20/7 dẫn các nguồn tin từ Bộ Tư Lệnh quân khu Quảng Châu, thì Quân Ủy
Trung Ương Trung Cộng
đã phê chuẩn thành lập bộ chỉ huy quân đồn trú tại “thành phố Tam Sa”. Đây có
thể xem như hợp pháp hóa sự chiếm đóng về quân sự trên đảo đã và sẽ chiếm được
trong tương lai.
Ngày
21/7/2012, Trung Cộng cho bầu “Đại Biểu Hội Đồng Nhân Dân” thành phố Tam Sa, “hành chính hóa” toàn bộ phần biển Đông trong phạm vi “đường lưỡi
bò”.
“Phải chăng hành động trên
đây của Trung Cộng là một thách thức mạnh mẽ và trực tiếp với nhóm lãnh đạo
CSVN?” Nếu không, thì tại sao những hành động xảy ra chỉ mấy ngày sau
ngày Luật Biển được Quốc Hội Việt Nam thông qua, với lại nội dung Luật Biển
chánh thức phủ nhận đường lưỡi bò tự Trung Cộng vẽ ra rồi tuyên bố với các quốc
gia trong vùng là của họ, còn thêm nhóm chữ “không thể tranh cãi” nữa chớ. Nếu
phải, thì liệu lãnh đạo CSVN phản ứng thế nào, vì đến nay CSVN mới phản ứng
như trước đây đã từng phản ứng, tuy lời lẽ có phần cứng rắn.
Liệu Trung Cộng còn dám
ngang nhiên rượt đuổi tàu thuyền của ngư phủ như trước đây nữa không?
Viết xong câu tự hỏi trên
đây thì tôi nhận được các bản tin như sau:
(1) Ngày 5 & 6/7/2012, tàu Trung Cộng bắt 6 tàu cá Việt Nam
đang bỏ lưới ngoài khơi Hoàng Sa. Ba ngày sau, 3 tàu có giá trị thấp được Trung
Cộng cho về nhưng tất cả tài sản trên tàu bị chúng tịch thu, con lại 3 tàu có
giá trị cao vẫn bị chúng cầm giữ.
(2) Ngày 13/7/2012, đại diện Ủy Ban Biên Giới Quốc Gia thuộc Bộ Ngoại Giao CSVN ra phản ứng: “Lập trường của Việt
Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được khẳng định nhiều lần. Hoạt
động khai thác của ngư dân Trung Quốc ở khu vực quần đảo Trường Sa là phi pháp,
xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này. Việt Nam yêu cầu phía
Trung Quốc có trách nhiệm giáo dục, hướng dẫn ngư dân tôn trọng chủ quyền, lãnh
thổ của Việt Nam, tuân thủ luật pháp quốc tế".
Vậy là, Bộ Ngoại Giao CSVN
chỉ tốn một trang giấy với khoảng 30 phút là tối đa để phổ biến văn bản nói lên
phản ứng trước hành động ngang ngược của Trung Cộng, là xong. Với lời khẳng
định của ông Tư Lệnh Vùng 3 Hải Quân trước mặt ông Sang “lực lượng của ông luôn bảo
vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc” cũng là xong.
Vậy là đoàn tàu cá 30 chiếc của Trung Cộng, cứ ung dung mà tha hồ đánh cá trong
vùng biển Việt Nam, cứ như đang trong ao hồ của chúng nó vậy. Trong khi 3 tàu
cá Việt Nam tiếp tục “bị nghỉ ngơi” trong tay của Trung Cộng tại Hoàng Sa.
Còn ghê gớm hơn nữa. Theo
bản tin của nhật báo Hải Nam, tính đến 1 giờ trưa ngày 1/8/2012, Trung Cộng đã
“đổ ra Biển Đông” 8.994 chiếc tàu đánh cá của tỉnh Hải Nam và Quảng Đông đánh bắt
cá trên Biển Đông mà họ gọi là “ngư trường Tam Sa”. Vậy là Trung Cộng thật sự
biến Biển Đông thành ao nhà của chúng rồi, nhưng không thấy những chiến hạm tối
tân, những phi cơ tối tân, những hỏa tiển tối tân của Việt Nam đem ra mà hành sử
chủ quyền của Việt Nam cho Trung Cộng biết tay. Chẳng lẽ cấp lãnh đạo của Vùng 3 Hải Quân đã khẳng định với ông Trương Tấn Sang rằng: “Lực lượng Vùng 3 Hải Quân
sẽ bảo
vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ các hoạt động kinh tế trong vùng đặc quyền của Việt Nam
dù đối mặt với nhiều khó khăn”. Vậy
là xong rồi sao?
Kết luận.
Với chính sách dối trá
trong giáo dục, đẵ dẫn đến một xã hội băng hoại mà các nhà giáo cũng như các
nhà trí thức hằng quan tâm, phơi trải nỗi uất ức trên những trang Bloggers. Với
chính sách bóp nghẹt tin tức chính trị và đời sống, đã dẫn đến một xã hội phẫn
uất đến nghẹt thở mà giới nhà báo đã thố lộ, như những lời than từ đáy sâu tâm
hồn của người “biết cầm bút và còn giữ gìn đạo nghĩa”, dù sống trong xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Hy vọng là tôi vừa giúp Các Anh có được nét nhìn từ góc cạnh
khác với nét nhìn thường ngày của Các Anh, vừa gợi lên những điều mà Các Anh cần
suy nghĩ để đánh giá lãnh đạo đảng với lãnh đạo nhà nước Các Anh đã dối trá che
giấu xấu xa như thế nào với đồng bào, đã hèn hạ nhục nhã với Trung Cộng như thế
nào, đã cắt xén cướp đoạt trấn lột như thế náo mà tài sản của họ kinh khủng
trong khi đa số người dân và chính Các Anh cùng gia đình Các Anh sống trong
nghèo khổ thiếu thốn, nhất là thiếu hẳn tình người trong xã hội chủ nghĩa!
Tôi mong Các Anh bình tâm
mà nhìn chuỗi sự kiện đã và đang diễn ra, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của
chính mình. Các Anh hãy dứt khoát mà đứng vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng
bào, giành lại quyền sống thật sự đúng nghĩa cho bản thân Các Anh, cho gia đình
Các Anh, và cho toàn dân được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, được ngẫng
cao đầu khi cầm “Sổ Thông Hành” mà trong nước gọi là “Hộ Chiếu” mỗi khi đến các
quốc gia văn minh lịch sự, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt
Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm
trước.
Tôi vững tin rằng, bà con
trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những `Người
Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ
làm nên lịch sử.
“Tự Do, phải chính
chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.
Texas, tháng 8 năm 2012
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment