Friday, September 21, 2012

Thư số 10 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Việt Nam


 

Thư số 10 gởi

Người Lính Quân Đội Nhân Việt Nam
*********
Phạm Bá Hoa

Tôi tên Phạm Bá Hoa, chào đời năm 1930 tại đồng bằng sông Cửu Long. Tôi phục vụ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 21 năm trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, sau đó tôi bị tù không án 12 năm 3 tháng trong các “trại tập trung” mà lãnh đạo của Các Anh gọi là “trại cải tạo”. Hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam khi mà quê hương tôi chưa có dân chủ, tự do, và nhân quyền thật sự.

Xin được gọi “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam” là Các Anh để tiện trình bày. Chữ “người lính” mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng, gọi chung là “cấp lãnh đạo”. Là người lính trong quân đội “Nhân Dân”, chắc rằng Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Các Anh trong quân đội nhân dân mà. Với lại, Tổ Quốc & Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng chính trị nào cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Với thư này, tôi giúp Các Anh nhận ra “Chân Dung Xã Hội Chủ Nghĩa” về dối trá, hèn hạ, đồng thời giúp Các Anh có nét nhìn từ góc cạnh xã hội dân chủ văn minh, để hiểu “tại sao xã hội Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của CSVN lại hèn hạ với Trung Cộng như vậy”.

Thứ nhất, vẫn là dối trá trong giáo dục.

Với bài “Giả dối lên ngôi, đạo đức suy đồi”, phóng viên Thanh Quang, đài phát thanh Á Châu Tự Do ngày 24/6/2012, nhận xét rằng: “Tình trạng đạo đức suy đồi dẫn tới nhiều tệ nạn xã hội trong nước, vẫn làm trĩu nặng nỗi trăn trở của những người có tâm huyết với quê hương, dân tộc”.

Một trong những nhà giáo dục luôn quan tâm cho đất nước dân tộc là Giáo sư Hà Văn Thịnh từ Huế, cảnh báo rằng: “Trong bản chất xã hội Việt Nam có sự giả dối, vô cảm, ích kỷ, và tàn nhẫn. Đó là tất cả những gì biểu hiện của văn hoá Việt Nam hiện nay. Nói ra chẳng ai thích đâu, nhưng đó là sự thật. Vì sao? Vì bây giờ người ta giả dối từ A tới Z, giả dối từ trên xuống dưới. Ai muốn làm gì thì làm, ai muốn lừa ra sao thì lừa, muốn tự tung tự tác hay ăn cướp thế nào đó vẫn được.”

Với bài “Lạm bàn về căn bệnh dối trá tại Việt Nam”, Giáo sư Trần Kinh Nghị từ Hà Nội, đề cập tới điều có thể nói là hài hước, nhưng rất chua chát: Ở Việt Nam, mọi thứ đều giả, chỉ có dối trá là thật! Dối trá, thoạt nghe qua cũng chỉ là một thói đời không mấy tốt đẹp, vốn nhan nhản trong xã hội loài người, nên người ta dễ tưởng rằng “không có gì nguy hại lắm”...... Vẫn theo Giáo Sư Nghị: “Thói làm thì láo, báo cáo thì hay” cùng thói “chạy theo thành tích” vốn phát xuất từ thời xã hội chủ nghĩa Miền Bắc, đã góp phần làm trầm trọng thêm căn bệnh dối trá ở Việt Nam hiện nay, và đã trở thành “căn bệnh trầm kha” bám sâu rễ trong toàn xã hội đến mức ai không biết nói dối, không biết làm dối, và không biết “ăn theo nói leo” thì không thể tồn tại. Tệ nạn bè phái và tham nhũng nghiêm trọng đến mức tràn lan trên khắp miền đất nước hiện nay, cũng có nguyên nhân sâu xa từ căn bệnh dối trá ấy, để từ đó, sinh sôi và dung dưỡng cho những kẻ bất tài, những kẻ vô đạo đức, nhưng thích làm quan”.

Nhà văn Trần Mạnh Hảo, cũng không tránh khỏi âu lo khi căn bệnh giả dối ấy “đang thống trị xã hội” Việt Nam, mà chủ yếu bắt nguồn từ tình trạng thiếu trung thực của nền giáo dục nước nhà, nhưng toàn bộ hệ thống đã hư, đã sai rồi, thì phải thay đổi cả hệ thống mới cải tạo được xã hội hiện nay. Ông nhấn mạnh: “Sự giả dối tồn tại ở xã hội Việt Nam lâu rồi.

Theo Giáo Sư Hoàng Tụy. Không thể nào tái cấu trúc xã hội được, bởi vì tái cấu trúc là những bộ phận rời, nhưng toàn bộ hệ thống đã hư, đã sai rồi, thì phải thay đổi cả hệ thống mới cải tạo được xã hội hiện nay. Hiện sự giả dối đang thống trị xã hội chúng ta.”

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện với bài viết “Chiều Cuối Năm Nhìn Lại” (2011), cho thấy ông không quan tâm đến những vụ giết người cướp của ngày càng táo bạo mà tuổi đời càng trẻ thì cách giết người càng dã man độc ác hơn, vì điều đó đã có nhiều người khẳng định rồi. Ngay cả Nghị viên Quốc Hội Việt Nam Dương Trung Quốc cũng nói rằng: “Thế hệ chúng ta là thế hệ mất gốc, mà mất gốc là mất những giá trị tốt đẹp của Việt Nam. Còn xã hội Việt Nam hiện nay, về mặt đạo đức, xuống cấp chưa từng thấy. Tình trạng này đầy tràn những mặt báo “lề phải” (báo quốc doanh. PB Hoa). Ngày nào cũng cướp, cũng giết, cũng có những tội phạm xã hội khủng khiếp. Nó tràn lan, không còn là hiện tượng riêng lẻ, mà cả hệ thống như khiến cho những người có tâm huyết với quê hương vừa trăn trở vừa cảm thấy bất an”.

Nhận thức của Các Anh như thế nào về “chính sách giáo dục của xã hội chủ nghĩa” thì tôi không biết, nhưng nhận thức của tôi như thế này:

“Giáo dục là nền tảng trang bị con người về nhân cách và kiến thức”. Nhân cách, cần kiến thức hậu thuẫn những lý lẽ để tránh bị lợi dụng vào mục đích không tử tế. Kiến thức, cần nhân cách trợ giúp biến kiến thức trở thành những dự án những công trình hữu ích trong cuộc sống, đồng thời tạo môi trường cho con người gần gủi nhau hơn, bởi ngày nay mọi sinh hoạt trong xã hội đều có mối tương quan tác động lẫn nhau, ngay cả sinh hoạt từ thiện cũng vậy.

Giáo dục bao gồm: “Giáo dục gia đình , giáo dục học đường, và giáo dục xã hội”.

- Giáo dục gia đình, do bẩm sinh, huyết thống, và cung cách sống của các thành viên trong gia đình, nhất là ông bà cha mẹ.

- Giáo dục học đường, do chính sách của chánh phủ, hệ thống tổ chức, biên soạn sách giáo khoa, chính sách hỗ trợ nhà giáo, hỗ trợ học sinh sinh viên, phương pháp giảng dạy, cung cách của thầy dạy.

- Giáo dục xã hội, do những chính sách cùng hệ thống điều hành của chánh phủ, những sự kiện phát sinh và những phương cách giải quyết trong các lãnh vực sinh hoạt xã hội.

Giáo dục thể hiện đường lối của lãnh đạo thực hiện mục tiêu quốc gia. Muốn đất nước phát triển như thế nào, chánh phủ phải hoạch định chính sách chiến lược như thế ấy:

- Các ngành, căn cứ vào đó soạn thảo những chính sách dài hạn và những kế hoạch ngắn hạn để thực hiện, và cung cấp nhu cầu chuyên viên chuyên gia theo từng giai đoạn cho ngành giáo dục.

- Ngành giáo dục, đào tạo chuyên viên chuyên gia thích ứng cho nhu cầu đó. Đồng thời liên tục đào tạo và phát triển đội ngũ sư phạm về đạo đức lẫn kiến thức, cải tiến và phát triển sách giáo khoa phục vụ cho nhu cầu chiến lược, cải tiến dụng cụ trợ giáo, phương thức giảng dạy, cơ sở và trang bị, ..v..v...

Với nhận thức đó, tôi khẳng định là từ khi cộng sản cai trị toàn cõi Việt Nam đến nay, là một xã hội toàn dối trá, dối trá đến mức mà những nhà văn nhà báo nhà chính trị trên đây, phải thốt lên lời than nghe như đau đớn từ trong đáy tâm hồn của những vị ấy, rằng: “Xã hội Việt Nam ngày nay bị thống trị bởi giả dối. Xã hội Việt Nam, nếu ai không biết dối trá thì không thể tồn tại, đến mức mà ngày nay tất cả đều giả, chỉ có dối trá là thật. Với một xã hội như vậy đã dẫn đến tình trạng mà mọi người không còn tin vào bất cứ điều gì chung quanh họ, thậm chì là cũng không tin ngay bản thân của họ nữa, chỉ vì nếu họ thành thật với chính mình thì họ không thể tồn tại trong cuộc sống! Xin Các Anh hãy nhớ, đó không phải là ngẫu nhiên, mà là bắt nguồn từ chính sách giáo dục của nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị, vì sau khi Liên Sô mà lãnh đạo Các Anh tôn vinh là “thành trì vững chắc của chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ hoàn toàn” từ đầu những năm 1990, kéo theo các quốc gia cộng sản vùng Đông Âu Châu sụp đổ, để từ đó chế độ dân chủ tự do tái sinh, thì CSVN chỉ có thể tồn tại trong một xã hội dối trá hiện nay mà thôi.

Tôi tóm tắt để Các Anh có nét nhìn trung thực vào một góc của Chân Dung Xã Hội Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ngày nay. Với dân số 89 triệu người trong một khoảng không gian 331.000 cây số vuông, đã và đang sống với nhau dưới chế độ cộng sản độc tài, dối trá, và tham nhũng, dẫn đến một xã hội băng hoại đạo đức, đến mức mà ngày nay Hồ Chí Minh lưu manh đĩ điếm, Hồ Chí Minh trộm cắp cướp giật, Hồ Chí Minh lừa đảo dối trá, trở thành chuyện thường ngày trên đường phố thủ đô kinh tế Việt Nam. Viết đến đây tôi chợt có ý nghĩ: “Biết đâu là vào thời gian nào đó, lãnh đạo đảng với nhà nước CSVN sẽ phá bỏ hệ thống nhà tù vì số người không lương thiện chiếm đa số trong xã hội, và xây dựng Những Trung Tâm Bảo Vệ Người Lương Thiện để nhận những người lương thiện trở thành thiểu số vào sống ở đó, trong khi người không lương thiện sống trong xã hội phải đi hành nghề của họ và đóng thuế đầy đủ, để chánh phủ có tiền nuôi người lương thiện trong các Trung Tâm. Điều kiện để được nhận vào các Trung Tâm Bảo Vệ là phải làm đơn kèm theo giấy tờ chứng minh là người lương thiện, và mang tay đến nộp cho Hội Đồng Cứu Xét theo tiêu chuẩn gắt gao để ngăn chận đám người không lương thiện trà trộn vào sống trong các Trung Tâm. Sở dĩ phải mang tay, vì các cấp địa phương lúc ấy thuộc thành phần đa số, tức thành phần không lương thiện, nên lời phê của họ không có giá trị đối với Hội Đồng Cứu Xét”.

Các Anh hiểu theo nghĩa ĐEN hay nghĩa BÓNG đều đúng cả, và từ đó Các Anh suy nghĩ .......

Thứ hai, cái hèn của giới cầm bút Việt Nam.

Với bài viết “Nó Tự Cắt Nó” hay “Sự Hèn Mạt Của Báo Chí” của Trương Duy Nhất. Chỉ riêng cái tựa bài thôi, cũng đủ cho người đọc cảm nhận được nỗi đắng cay của tác giả nói riêng, và của những người “được” nhà nước cộng sản cấp cho cái “thẻ nhà báo” nói chung.

Tác giả Trương Duy Nhất kể lại: “Vài năm trước, trong một bữa nhậu nhân “hội nghị tuyên giáo toàn quốc” tại Đà Nẳng, một lão bá vai tôi nói một câu rất hách, báo chí các cậu hèn bỏ mẹ. Rồi tác giả giải thích: “Một tay nó bóp “chỗ nhược” bên dưới (mạn phép thay một chữ trong nguyên bản. PB Hoa), còn tay kia nó dán băng keo bịt miệng mình, thế mà nó lớn tiếng chê mình hèn. Định vung cho nó một đấm, nhưng nghĩ lại hắn nói không sai. Báo chí kiểu gì mà trong vụ cưỡng chế đất đai ở Văn Giang (Hưng Yên), chỉ một cú điện thoại, một lệnh miệng đã khiến cho 700 tờ báo câm nín, không dám cử phóng viên đến nơi đưa tin. Thậm chí khi hai phóng viên của đài tiếng nói Việt Nam (VOV) đến đó đã bị đánh đập, trấn áp dã man, bị còng tay bắt giữ như tội phạm, thu máy ảnh, thu thẻ nhà báo, thẻ đảng, thẻ luật gia… mà không một tờ báo nào dám lên tiếng, kể cả cơ quan của họ. Và bản thân 2 nhà báo bị đánh, cũng không dám công khai nói lên sự thật.

Chưa bao giờ báo chí lại sợ hãi đến như vậy. Chưa bao giờ báo chí kỳ lạ như giai đoạn này, xa lánh, tránh né hầu hết các vấn đề nhạy cảm mà lẽ ra nhà báo phải có mặt tại chỗ. Vì sao tránh, vì sao không đăng, vì sao không can dự? Vì đó là vấn đề “nhạy cảm”..... Nhưng vấn đề nhạy cảm mới cần báo chí can dự, nếu không nhạy cảm thì viết để làm gì, tuyên truyền làm gì, can dự làm gì?

Với blogger Mười Sáu:

(1) Một độc giả. Là người dân đang sống tại Việt Nam, tôi thấy cần phải nói sự thật một điều. Đó là từ nhiều năm nay tôi chẳng đọc một bài báo nào do báo chính thống (tức báo của nhà nước. PB Hoa) đăng tải, gần đây cứ bật truyền hình từ địa phương đến truyền hình trung ương là tôi “dựng cả da gà”. Vì sao thế? Vì tôi không thấy ở những phương tiện ấy phát ra những câu nói của “những người yêu nước thực sự”. Chỉ thấy những tiếng nói mang tính bênh vực, chụp mũ, phản cách mạng, toàn thấy những bài viết cũng như những lời nói sáo rỗng, những lời nói tự khen ...Thử nghĩ xem có thời đại nào như thời buổi này, có dạng truyền thông nào như ở Việt Nam, ... đến cả việc dân chúng xuống đường biểu tình chống Trung Cộng (xin phép thay chữ Trung Quốc của tác giả bằng chữ Trung Cộng. PB Hoa), một hành động thật đậm đà truyền thống dân tộc, noi gương các anh hùng, những cha ông, một hành động thể hiện lòng yêu nước, thì báo chí làm ngơ!”

(2) Blogger Trường Sa. Nếu chúng ta (ở hải ngoại) có phương tiện và thì giờ, nên tìm đọc cho biết, đồng thời giúp đồng bào mình một tay trong việc phổ biến rộng rãi tin tức báo chí ngược về Việt Nam (qua email), bởi đây cũng là một phương cách hữu hiệu ngăn chặn, giảm thiểu những tội ác, những bất công, đầy dẫy trong xã hội vô thần cộng sản mà người dân Việt Nam là những nạn nhân đang phải gánh chịu thảm họa”.

(3) Nguyễn Chính, cựu phóng viến báo Đại Đoàn Kết nhận định: “Cái sợ cái hèn của người cầm bút, nhất là làm báo, nguy hiểm lắm. Rất vô thức, nhưng anh ta sẽ làm “lây nhiễm” cái sợ cái hèn nhát cho đồng bào mình”.

(4) Blogger Phan Văn Tú. Với câu nói rất đau: “Trong đầu thằng nhà báo Việt Nam nào hình như cũng có một cái kéo. Nó tự cắt (bài) nó trước khi bị người khác cắt. Cái thói tự biên tập, tự ra lệnh, tự cột nhốt đã hình thành như một thói nết tệ hại trong làng báo..

(5) Nhà báo Đào Tuấn, được giới thiệu là một “cây bút kỳ cựu của báo Đại Đoàn Kết, nay sang tờ Dân Việt”: “Nhiều người cầm bút giờ đây còn bi kịch hơn khi hàng ngày phải viết những điều không đúng với sự thật… Những chuyện hằng ngày, cho dù tin hay không tin cũng phải viết ra một điều không thật -một cách khéo léo gọi là dối trá- để thuyết phục người đọc tin rằng đó là sự thật.” Cuối cùng, Trương Duy Nhất kết luận, đay đi nghiến lại nhiều lần, trong nhiều câu khác nhau, trong suốt nửa sau của bài viết: Chưa bao giờ báo chí lại sợ hãi đến vậy. Run sợ đến dối trá. Báo chí chưa bao giờ nhạt chán, hèn nhục đến như vậy. Ở Việt Nam, nếu không mù chữ, ai cũng có thể làm báo được cả” (vì chỉ làm theo lệnh của đảng với nhà nước, nên dễ ợt. PB Hoa).

(6) Nói đến cái hèn của người cầm bút Việt Nam, không thể không nhớ đến bài “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa” của Nguyễn Minh Châu. Ông là cây viết có tâm huyết, tiêu biểu cho phong trào đổi mới văn học Việt Nam. Bài viết của ông để lại nhiều suy nghĩ cho người đọc, chính là vấn đề cái hèn. Có lúc ngỡ như ông vừa viết vừa nghẹn ngào với giọng văn đầy cảm xúc: “Văn chương gì mà muốn viết một câu trung thì phải viết một câu nịnh? Hèn. Hèn chứ? Nhà văn nước mình tận trong tâm can ai mà chẳng thấy mình hèn? Cái sợ, nó làm mình hèn. Vì thế mà từ xưa tới nay có bao nhiêu nhà văn nhà thơ đã đi ở ẩn ngay trong tác phẩm của họ? Chúng ta vắng thiếu những cây thông đứng sừng sững. Có một nhà văn đàn anh nâng chén rượu lên giữa đám đàn em mà nói rằng: “Tao còn sống, còn cầm bút được đến bây giờ, là nhờ tao biết sợ!. Rồi ông ngửa mặt lên trời cười run giường trong khi nước mắt tuôn lã chã, giọt đổ xuống đất, giọt đổ ngược vào lòng”. Có người cầm bút đến lúc sắp bước sang thế giới bên kia, vẫn chưa dám thốt lên một lời nói thật tự đáy lòng, “không dám viết hồi ký thực, vì sợ để liên lụy đến đời con cái. […] Sao mà khổ vậy?”

Tôi nghĩ, khi mà Các Anh hiểu được chính sách giáo dục người dân trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà tôi nói ở trên, Các Anh sẽ không ngạc nhiên khi nhận ra chân dung các lãnh vực sinh hoạt trong xã hội đều băng hoại mà nặng nhất là trong giới giáo dục và giới cầm bút. Mà “khi giới nhà giáo nhận rõ sự dối trá trong giáo dục, và khi giới cầm bút, nhìn rộng hơn là giới truyền thông nhận mình là hèn”, thì mọi người trong xã hội không còn một chỗ nào để tránh né, cũng không còn một điều gì để tin nữa! Các Anh thử nhìn sang xã hội dân chủ tự do để thấy giới nhà giáo được tôn trọng là “những nhà kiến trúc” đào tạo con người phục vụ xã hội, còn giới cầm bút được mọi người tín nhiệm, vì họ là những nguời có khả năng giúp mọi người nhận ra chân dung xã hội với những góc cạnh khác nhau trong cuộc sống, đồng thời hướng dẫn dư luận đưa xã hội ngày càng phát triển, đặc biệt về văn hoá xã hội.

Nhưng tại sao hèn? Tại vì giới này luôn luôn sợ hãi, sợ hãi đến mức tự mình cắt xén sự thật trong bài viết của mình, sợ hãi đến mức phải tự nhận mình còn sống chính là nhờ biết sợ hãi. Tại sao sợ hãi? Tại vì chính sách giáo dục dạy cho mọi người phải biết sợ hãi mà phục tùng mệnh lệnh của lãnh đạo đảng với lãnh đạo nhà nước, rồi hệ thống truyền thông quốc doanh biến chính sách giáo dục đó thành những bài viết, những hình ảnh chuyển tải cho toàn xã hội. Tại sao đảng với nhà nước lại dạy dân phải sợ hãi? Tại vì lãnh đạo đảng cộng sàn là đảng độc tài, lại giành độc quyền lãnh đạo, mà độc tài thì người dân không chấp nhận cho nên đảng với nhà nước lúc nào cũng nơm nớp sợ hãi người dân nổi dậy lật đổ giết chết. Tôi dẫn chứng: Từ khi có chế độ cộng sản độc tài trên thế giới từ đầu thế kỷ 20 đến nay, không người dân nào từ xã hội dân chủ tự do, lại bỏ làng xã quê hương mà chạy sang định cư tại bất cứ quốc gia nào bị cộng sản cai trị, như cộng sản Liên Sô, các quốc gia cộng sản Đông Âu, cộng sản Bắc Hàn, cộng sản Cu Ba, cộng sản Trung Hoa ..v..v.. Ngược lại, chỉ có người dân từ các quốc gia cộng sản trốn chui trốn nhủi, chấp nhận mọi hiểm nguy để vượt lên sự chết mà đi tìm sự sống tại các quốc gia dân chủ tự do, Việt Nam chúng ta là trường hợp điển hình chính xác nhất: (1) Sau Hiệp Định Đình Chiến ký ngày 20/7/1954 tại Geneve, Thụy Sĩ, Việt Nam bị nhuộm đỏ nửa nước phía bắc, đã có 875.478 người trên đât bắc 20 năm xã hội chủ nghĩa chạy trốn cộng sản vào Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi định cư. (2) Theo tài liệu của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc phổ biến năm 2000, từ năm 1976 đến năm 1995, tức sau 20 năm cộng sản nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam, đã có 839.200 người Việt Nam vượt biên và vượt biển đến định cư tại 91 quốc gia tự do. Đồng thời ước tính khoảng 450.000 đến 500.000 người Việt Nam đã chết trên biển cả cũng như trong rừng sâu! Thậm chí đến tháng 5/2012 vừa rồi, vẫn có đồng bào cùng tỉnh với ông Hồ dùng tàu vượt biển sang Australia xin tị nạn!

Các Anh biết tại sao không? Tại vì xã hội chủ nghĩa là đồng nghĩa với chủ nghĩa giết người. Tôi dẫn chứng: “Ngày 12/6/2007, Tổng Thống Bush chủ tọa lễ khánh thành “Tượng Đài Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản thế Giới” tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, với sự tham dự của đại diện 25 quốc gia đã và đang bị cộng sản cai trị. Trong bài diễn văn của Tổng Thống Hoa Kỳ, có đoạn: “... Đây là biểu tượng thảm họa kinh hoàng trong thế kỷ 20 của nhân loại nói chung, và 25 quốc gia bị cộng sản cai trị nói riêng. Từ nay, oan hồn của hơn 100.000.000 (100 triệu) nạn nhân cộng sản trên thế giới, được những thế hệ hôm nay và những thế hệ ngày mai tưởng nhớ”....

Chưa hết, Các Anh nên đọc vài con số mà tôi trích ở trang 14 trong quyển “Le Livre Noir du Communisme”, tạm dịch là “Sách Đen về Chủ Nghĩa Cộng Sản” của Stéphane Courtois và 5 tác giả nữa, ấn hành năm 1997 tại Pháp. Theo các tác giả, thì: (1) Cộng sản Liên Sô đã giết 20.000.000 người. (2) Cộng sản Trung Hoa đã giết 65.000.000 người. (3) Cộng sản Bắc Hàn đã giết 2.000.000 người. (4) Cộng sản Cam-Bốt đã giết 2.000.000 người. (5) Các quốc gia cộng sản vùng đông Châu Âu đã giết 1.000.000 người.

Riêng về cộng sản Việt Nam đã giết bao nhiêu người, thì tài liệu trong nước và ngoại quốc mà tôi tham khảo, cho thấy: Trong cải cách ruộng đất giai đoạn 1953-1955 trên đất bắc xã hội chủ nghĩa, theo nhật báo “Nhân Dân” ngày 20/7/1955 cho biết, sau 6 đợt cải cách ruộng đất đã có 10.303.004 nạn nhân. Trong Tết Mậu Thân năm 1968 trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, theo tác giả David T. Zabecki trong quyển “The Vietcong Massacre at Hue” ấn hành năm 1976, số hài cốt tìm được do cộng sản Việt Nam đã giết trong 21 ngày chiếm giữ một phần thành phố Huế, và chôn tập thể trong các hầm là 2.810 người trong tổng số dân ghi mất tích hơn 5.000 người! (trích bài viết của tác giả Lữ Giang. PB Hoa) Trong chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi 1954 - 30/4/1975, theo tài liệu đúc kết từ Đại Hội 4 của CSVN, ít nhất là 4.000.000 thanh niên miền Bắc đã chết trong cuộc chiến xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa, gồm cả số người chết trên đường xâm nhập từ Bắc vào Nam, do lời của Trung Úy Khảm nói với chúng tôi khi chúng tôi bị giam tại Trại 2, Liên Trại 1, Đoàn 776 tỉnh Hoàng Liên Sơn năm 1977. Nhưng theo nhà văn nữ Dương Thu Hương (cựu đảng viên cộng sản) thì số người chết lên đến 10.000.000 người!

Hãy nghe Thủ Tướng CSVN Phạm Văn Đồng, nói trong bài diễn văn dài lê thê ngày 1/5/1975, rằng: “Thống nhất để đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Việt Nam là lá cờ đầu, là đội quân tiên phong tiến hành cuộc Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa trên toàn thế giới”. Được hiểu là đảng CSVN còn tiếp tục giết chết người dân xã hội chủ nghĩa dưới quyền cai trị của họ nữa, vì xã hội chủ nghĩa đồng nghĩa với giết người mà.

Các Anh hãy nhìn, hãy suy ngẫm, và suy ngẫm từ nơi sâu thẳm của trái tim Các Anh. Và Các Anh có đồng ý với những dẫn chứng của tôi không? Nếu không, sao Các Anh lại vô cảm hoặc là chủ quan đến như vậy? Nếu có, thì Các Anh đang nghĩ gì cho những thế hệ đương thời có cả thân nhân thân quyến Các Anh, và những thế hệ tương lai ..... Chẳng lẽ Các Anh vẫn chịu gói mình trong cái xã hội chủ nghĩa dối trá và hèn nhục đến như vậy hay sao?

Thứ ba, Hải Quân Việt Nam và Biển Đông.

Trong tình hình Biển Đông như đang thấp thoáng cơn giông bão, ngày 7/7/2012, Chủ Tịch của Các Anh là ông Trương Tấn Sang, đến thăm Vùng 3 Hải Quân tại Đà Nẳng. Nói chuyện với các cấp của đơn vị này, ông Sang yêu cầu các binh sĩ phải huấn luyện làm chủ vũ khí trang bị mới. Theo bản tin Thông tấn xã Việt Nam, ông Sang chỉ thị Hải Quân phải kiên quyết bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ trên biển. Tuy nhiên, ông cũng đặc biệt nhắc nhở phải kiên trì, khôn khéo trong xử lý các tình huống để giữ vững ổn định, hòa bình, tạo điều kiện cho ngư dân đi biển và phát triển các ngành kinh tế biển của đất nước. Theo trang điện tử Đài Tiếng Nói Việt Nam (VOV), cấp lãnh đạo của Vùng 3 Hải Quân đã khẳng định với ông Sang rằng: “Lực lượng Vùng 3 Hải Quân sẽ bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ các hoạt động kinh tế trong vùng đặc quyền của Việt Nam dù đối mặt với nhiều khó khăn. Trước đó, ông Sang cũng đến thăm Quân Khu 5, ông cũng đã đề cập đến bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, và cấp lãnh đạo của họ cũng hứa sẽ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.

Xin nhắc lại. Ngày 21/6/2012, Quốc Hội Việt Nam thông qua Luật Biển gồm 55 Điêu trong 7 Chương, đã chánh thức ban hành ngày 16/7/2012, và sẽ có hiệu lực từ ngày 1/1/2013. Trong Điều 1 Chương 1 qui định rằng “Luật này quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý và bảo vệ biển, đảo”.

Nội dung của Luật Biển, phủ định điều mà Trung Cộng nhiều lần tự mình tuyên bố giành chủ quyền trên các quần đảo, đảo, và vùng biển thuộc Việt Nam. Đây là điều tốt, nhưng liệu lãnh đạo CSVN có dám ra lệnh cho Hải Quân Nhân Dân và Cảnh Sát Biển ra khơi, để bảo vệ ngư phủ khi bị tàu của Trung Cộng rượt đuổi, ủi chìm, tịch thu tài sản, và bắt ngư phủ đưa tiền chuộc không? Hay vẫn cứ như “không nghe không thấy không biết” như lâu nay, vì “người lạ tàu lạ” luôn nắm quyền chủ động trên biển hành động tàn bạo với “người quen tàu quen”, cứ để Dân Quân Biển tự lo? Luật Biển rất cần thiết, nhưng bảo vệ biển đảo và bảo vệ ngư dân thật sự là điều cần thiết hơn, thậm chí là tối cần thiết. Nếu không hành động như vậy, Luật Biển chỉ có tác dụng trước mắt làm giảm sự phẫn uất của đồng bào phẫn nộ hành động của Trung Cộng lấn chiếm đảo biển Việt Nam, cũng như Hiến Pháp chỉ có tác dụng phô trương đường lối chớ không phải thực hiện đường lối đó. Nói cho đúng, lãnh đạo CSVN chỉ áp dụng Hiến Pháp để bảo vệ độc tài và bao che tham nhũng mà thôi. Vậy là, quanh đi quẫn lại, lãnh đạo CSVN vẫn là dối trá!

Vậy, liệu hai ông đó -nhất là Tư Lệnh V3HQ- có dám ra lệnh cho tàu chiến ra khơi rượt đuổi lại tàu của Trung Cộng để bảo vệ ngư phủ không? Với phản ứng hèn hạ nhục nhã trên hồ sơ Biển Đông trong thời gian qua, tôi tin hai ông ấy “chỉ dám tuyên bố chớ không dám hành động”. Nói cho đúng là tôi không tin nhóm lãnh đạo CSVN dám ra lệnh cho chiến hạm của Hải Quân chống lại tàu cá Trung Cộng được sự bảo vệ bảo vệ bởi các chiến hạm của quốc gia họ.

Tiếp đây là vài sự kiện sau ngày Luật Biển được thông qua:

Ngày 21/6/2012, song song với phản đối LUẬT BIỂN VIỆT NAM, Trung Cộng cho thành lập thành phố Tam Sa cấp địa khu, bao gồm toàn bộ Biển Đông Việt Nam trong phạm vi “đường lưỡi bò” mà Trung Cộng tự vẽ và công bố với thế giới vào năm 2009.

Ngày 23/6/2012, Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung cộng (CNOOC) thông báo mời thầu quốc tế 9 khu vực rộng 160.000 cây số vuông thuộc vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa của Việt Nam.

Ngày 26/6/2012, Cơ quan Giám sát hàng hải (CMS) Trung Cộng điều động 4 tàu Hải Giám rời căn cứ tại thành phố Nam Á thuộc đảo Hải Nam để thực hiện chuyến tuần tra trên Biển Đông. Cũng trong ngày này, Hồng Lỗi, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Trung Cộng tuyên bố trong cuộc họp báo rằng: “Quân đội đã thiết lập chế độ tuần tra bình thường để đề phòng chiến tranh vùng biển Nam Sa” (tức quân đảo Trường Sa của Việt Nam).

Ngày 13/7/2012, Trung Cộng đưa 30 “tàu đánh cá”, gồm 1 tàu tiếp liệu có trọng tải 3.000 tấn, và 29 tàu cá trọng tải 140 tấn mỗi chiếc. Đoàn tàu cá này hướng đến quần đảo Trường Sa và hoạt động trong vùng này 20 ngày. Ngày 16/7/2012, đoàn tàu cá đã đến đảo Chữ Thập. Theo báo chí TRung Cộng thì đây là đoàn tàu cá lớn nhất của tỉnh Hải Nam.

Ngày 19/7/2012, Trung Cộng điều động chiến hạm đổ bộ xuống khu vực Trường Sa, theo báo chí nước này thì đây là con tàu chở lính và phương tiện tiếp liệu.

Tân Hoa xã ngày 20/7 dẫn các nguồn tin từ Bộ Tư Lệnh quân khu Quảng Châu, thì Quân Ủy Trung Ương Trung Cng đã phê chuẩn thành lập bộ chỉ huy quân đồn trú tại “thành phố Tam Sa”. Đây có thể xem như hợp pháp hóa sự chiếm đóng về quân sự trên đảo đã và sẽ chiếm được trong tương lai.

Ngày 21/7/2012, Trung Cộng cho bầu “Đại Biểu Hội Đồng Nhân Dân” thành phTam Sa, “hành chính hóa” toàn bộ phần biển Đông trong phạm vi “đường lưỡi bò”.

“Phải chăng hành động trên đây của Trung Cộng là một thách thức mạnh mẽ và trực tiếp với nhóm lãnh đạo CSVN?” Nếu không, thì tại sao những hành động xảy ra chỉ mấy ngày sau ngày Luật Biển được Quốc Hội Việt Nam thông qua, với lại nội dung Luật Biển chánh thức phủ nhận đường lưỡi bò tự Trung Cộng vẽ ra rồi tuyên bố với các quốc gia trong vùng là của họ, còn thêm nhóm chữ “không thể tranh cãi” nữa chớ. Nếu phải, thì liệu lãnh đạo CSVN phản ứng thế nào, vì đến nay CSVN mới phản ứng như trước đây đã từng phản ứng, tuy lời lẽ có phần cứng rắn.

Liệu Trung Cộng còn dám ngang nhiên rượt đuổi tàu thuyền của ngư phủ như trước đây nữa không?

Viết xong câu tự hỏi trên đây thì tôi nhận được các bản tin như sau:

(1) Ngày 5 & 6/7/2012, tàu Trung Cộng bắt 6 tàu cá Việt Nam đang bỏ lưới ngoài khơi Hoàng Sa. Ba ngày sau, 3 tàu có giá trị thấp được Trung Cộng cho về nhưng tất cả tài sản trên tàu bị chúng tịch thu, con lại 3 tàu có giá trị cao vẫn bị chúng cầm giữ.

(2) Ngày 13/7/2012, đại diện Ủy Ban Biên Giới Quốc Gia thuộc Bộ Ngoại Giao CSVN ra phản ứng: “Lập trường của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được khẳng định nhiều lần. Hoạt động khai thác của ngư dân Trung Quốc ở khu vực quần đảo Trường Sa là phi pháp, xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này. Việt Nam yêu cầu phía Trung Quốc có trách nhiệm giáo dục, hướng dẫn ngư dân tôn trọng chủ quyền, lãnh thổ của Việt Nam, tuân thủ luật pháp quốc tế".

Vậy là, Bộ Ngoại Giao CSVN chỉ tốn một trang giấy với khoảng 30 phút là tối đa để phổ biến văn bản nói lên phản ứng trước hành động ngang ngược của Trung Cộng, là xong. Với lời khẳng định của ông Tư Lệnh Vùng 3 Hải Quân trước mặt ông Sang “lực lượng của ông luôn bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc cũng là xong. Vậy là đoàn tàu cá 30 chiếc của Trung Cộng, cứ ung dung mà tha hồ đánh cá trong vùng biển Việt Nam, cứ như đang trong ao hồ của chúng nó vậy. Trong khi 3 tàu cá Việt Nam tiếp tục “bị nghỉ ngơi” trong tay của Trung Cộng tại Hoàng Sa.

Còn ghê gớm hơn nữa. Theo bản tin của nhật báo Hải Nam, tính đến 1 giờ trưa ngày 1/8/2012, Trung Cộng đã “đổ ra Biển Đông” 8.994 chiếc tàu đánh cá của tỉnh Hải Nam và Quảng Đông đánh bắt cá trên Biển Đông mà họ gọi là “ngư trường Tam Sa”. Vậy là Trung Cộng thật sự biến Biển Đông thành ao nhà của chúng rồi, nhưng không thấy những chiến hạm tối tân, những phi cơ tối tân, những hỏa tiển tối tân của Việt Nam đem ra mà hành sử chủ quyền của Việt Nam cho Trung Cộng biết tay. Chẳng lẽ cấp lãnh đạo của Vùng 3 Hải Quân đã khẳng định với ông Trương Tấn Sang rằng: “Lực lượng Vùng 3 Hải Quân sẽ bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ các hoạt động kinh tế trong vùng đặc quyền của Việt Nam dù đối mặt với nhiều khó khăn. Vậy là xong rồi sao?

Kết luận.

Với chính sách dối trá trong giáo dục, đẵ dẫn đến một xã hội băng hoại mà các nhà giáo cũng như các nhà trí thức hằng quan tâm, phơi trải nỗi uất ức trên những trang Bloggers. Với chính sách bóp nghẹt tin tức chính trị và đời sống, đã dẫn đến một xã hội phẫn uất đến nghẹt thở mà giới nhà báo đã thố lộ, như những lời than từ đáy sâu tâm hồn của người “biết cầm bút và còn giữ gìn đạo nghĩa”, dù sống trong xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hy vọng là tôi vừa giúp Các Anh có được nét nhìn từ góc cạnh khác với nét nhìn thường ngày của Các Anh, vừa gợi lên những điều mà Các Anh cần suy nghĩ để đánh giá lãnh đạo đảng với lãnh đạo nhà nước Các Anh đã dối trá che giấu xấu xa như thế nào với đồng bào, đã hèn hạ nhục nhã với Trung Cộng như thế nào, đã cắt xén cướp đoạt trấn lột như thế náo mà tài sản của họ kinh khủng trong khi đa số người dân và chính Các Anh cùng gia đình Các Anh sống trong nghèo khổ thiếu thốn, nhất là thiếu hẳn tình người trong xã hội chủ nghĩa!

Tôi mong Các Anh bình tâm mà nhìn chuỗi sự kiện đã và đang diễn ra, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình. Các Anh hãy dứt khoát mà đứng vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, giành lại quyền sống thật sự đúng nghĩa cho bản thân Các Anh, cho gia đình Các Anh, và cho toàn dân được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, được ngẫng cao đầu khi cầm “Sổ Thông Hành” mà trong nước gọi là “Hộ Chiếu” mỗi khi đến các quốc gia văn minh lịch sự, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước.

Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những `Người Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

“Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.

Texas, tháng 8 năm 2012


No comments:

Post a Comment

Thanks for your Comment

Featured Post

Bản Tin cuối ngày-10/11/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link