Các tổ chức xã hội dân sự yêu cầu
VN tôn trọng quyền tự do lập hội
Ông Đinh Đăng Định,
Nguyễn Đan Quế, Đinh Nhật Uy, Phạm Chí Dũng, Phạm Bá Hải và vợ ông Định - bà
Đặng Thị Dinh, hình chụp ngày 16/2/2014 (http://fvpoc.org)
- Tin liên hệ
- Ủy Ban
Tự Do Tôn Giáo Quốc tế Mỹ đề nghị đưa VN vào danh sách CPC
- Hoa Kỳ
thêm 8 nước vào danh sách vi phạm tự do tôn giáo
- Dân
biểu Mỹ đáp trả sự chỉ trích của báo chí Việt Nam
- Bs Nguyễn Đan Quế được đề cử Giải Nobel
Hòa Bình và Giải Nhân quyền Gwangju 2014
- Nhà
hoạt động Nguyễn Tiến Trung hối tiếc vì nhận tội, xin khoan hồng
- Các nhà
hoạt động VN tới Mỹ vận động cho tự do báo chí
- Ai đã
vận động cho tự do của tiến sỹ luật Cù Huy Hà Vũ?
CỠ CHỮ
05.05.2014
Các tổ chức xã hội dân
sự tại Việt Nam ra Tuyên bố chung yêu cầu nhà nước tôn trọng quyền tự do lập
hội của công dân theo đúng Hiến pháp Việt Nam và các công ước quốc tế mà Hà Nội
đã tham gia ký kết.
Tuyên bố ngày 4/5 của 13 tổ chức trong nước được đưa ra sau khi Hội Cựu Tù nhân Chính trị bị an ninh sách nhiễu và yêu cầu phải chấm dứt hoạt động.
Thành viên ban điều hành Hội Cựu Tù nhân Chính trị, cựu tù nhân lương tâm Phạm Bác Hải, nói với VOA Việt ngữ:
“Chúng tôi muốn nhấn mạnh quyền tự do lập hội cho các tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam và quyền không bị quấy nhiễu. Chính quyền không thể cứ tiếp cận gia đình những người bất đồng chính kiến, quấy nhiễu và áp lực để những người bất đồng chính kiến ngưng các hoạt động bảo vệ nhân quyền. Đó là hai ý chính trong bản Tuyên bố chung chúng tôi vừa đưa ra.”
Ông Hải cho biết an ninh Việt Nam cáo buộc hoạt động của Hội là bất hợp pháp vì không xin phép nhà nước. Về vấn đề ‘đăng ký’ và ‘xin phép’ đối với các tổ chức xã hội dân sự trong nước, ông Hải nói:
“Việt Nam không hề có luật về lập hội, dường như không hề có cơ hội cho các tổ chức độc lập ngoài nhà nước được hình thành và hoạt động. Cụ thể như Hội Bạch Đằng Giang, sau khi tôi ra tù, tôi đã cố gắng đăng ký với nhà nước, nhưng rõ ràng không những họ không cho phép mà còn quấy nhiễu những thành viên tham gia đứng đơn đăng ký. Cho nên, với Hội Cựu Tù nhân Chính trị, theo cơ chế hiện hành, cũng sẽ không bao giờ có cơ hội để đăng ký, cho nên chúng tôi vẫn tiếp tục hoạt động.”
Tuyên bố chung của 13 tổ chức xã hội dân sự trích dẫn điều 21 trong Công ước quốc tế về Quyền Chính trị và Dân sự được Việt Nam ký năm 1982 nêu rõ ‘quyền hội họp ôn hòa phải được công nhận’ và ‘không bị hạn chế’.
Tuyên bố cũng đề nghị quốc hội Việt Nam khẩn trương ban hành luật lập hội để các tổ chức xã hội dân sự trong nước có thể tiến hành các thủ tục hoạt động theo quy định.
Các tổ chức xã hội dân sự đồng ký tên trong Tuyên bố khẳng định họ bác bỏ yêu cầu của nhà cầm quyền buộc họ phải chấm dứt hoạt động.
Họ cảnh báo rằng nếu tiếp tục bị gây sức ép hoặc bị sách nhiễu, họ sẽ xét tới việc khiếu nại lên các cấp thẩm quyền trong nước và quốc tế.
Đây là lần đầu tiên các tổ chức xã hội dân sự độc lập trong nước đồng ký tên vào một Tuyên bố chung phản ứng trước các vi phạm về quyền tự do lập hội của người dân giữa bối cảnh xã hội dân sự tại Việt Nam đang manh nha phát triển.
Tuyên bố ngày 4/5 của 13 tổ chức trong nước được đưa ra sau khi Hội Cựu Tù nhân Chính trị bị an ninh sách nhiễu và yêu cầu phải chấm dứt hoạt động.
Thành viên ban điều hành Hội Cựu Tù nhân Chính trị, cựu tù nhân lương tâm Phạm Bác Hải, nói với VOA Việt ngữ:
“Chúng tôi muốn nhấn mạnh quyền tự do lập hội cho các tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam và quyền không bị quấy nhiễu. Chính quyền không thể cứ tiếp cận gia đình những người bất đồng chính kiến, quấy nhiễu và áp lực để những người bất đồng chính kiến ngưng các hoạt động bảo vệ nhân quyền. Đó là hai ý chính trong bản Tuyên bố chung chúng tôi vừa đưa ra.”
Ông Hải cho biết an ninh Việt Nam cáo buộc hoạt động của Hội là bất hợp pháp vì không xin phép nhà nước. Về vấn đề ‘đăng ký’ và ‘xin phép’ đối với các tổ chức xã hội dân sự trong nước, ông Hải nói:
“Việt Nam không hề có luật về lập hội, dường như không hề có cơ hội cho các tổ chức độc lập ngoài nhà nước được hình thành và hoạt động. Cụ thể như Hội Bạch Đằng Giang, sau khi tôi ra tù, tôi đã cố gắng đăng ký với nhà nước, nhưng rõ ràng không những họ không cho phép mà còn quấy nhiễu những thành viên tham gia đứng đơn đăng ký. Cho nên, với Hội Cựu Tù nhân Chính trị, theo cơ chế hiện hành, cũng sẽ không bao giờ có cơ hội để đăng ký, cho nên chúng tôi vẫn tiếp tục hoạt động.”
Tuyên bố chung của 13 tổ chức xã hội dân sự trích dẫn điều 21 trong Công ước quốc tế về Quyền Chính trị và Dân sự được Việt Nam ký năm 1982 nêu rõ ‘quyền hội họp ôn hòa phải được công nhận’ và ‘không bị hạn chế’.
Tuyên bố cũng đề nghị quốc hội Việt Nam khẩn trương ban hành luật lập hội để các tổ chức xã hội dân sự trong nước có thể tiến hành các thủ tục hoạt động theo quy định.
Các tổ chức xã hội dân sự đồng ký tên trong Tuyên bố khẳng định họ bác bỏ yêu cầu của nhà cầm quyền buộc họ phải chấm dứt hoạt động.
Họ cảnh báo rằng nếu tiếp tục bị gây sức ép hoặc bị sách nhiễu, họ sẽ xét tới việc khiếu nại lên các cấp thẩm quyền trong nước và quốc tế.
Đây là lần đầu tiên các tổ chức xã hội dân sự độc lập trong nước đồng ký tên vào một Tuyên bố chung phản ứng trước các vi phạm về quyền tự do lập hội của người dân giữa bối cảnh xã hội dân sự tại Việt Nam đang manh nha phát triển.
Mỹ thúc đẩy Việt Nam tôn trọng tự do ngôn luận của người dân
Nghệ sĩ Kim Chi và ông
Ngô Nhật Đăng
@thanhnienconggiao
Tú Anh
Trong những tuần qua tại Hoa Kỳ và Việt Nam diễn ra hàng loạt sự
kiện trong chiều hướng tranh đấu nhân quyền, tự do ngôn luận và báo chí độc
lập. Phía chính quyền Việt Nam cũng có một số cử chỉ thiện chí tuy chỉ mang
tính biểu tượng, thả một số nhà dân chủ như Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Tiến Trung, Vi
Đức Hồi. Hà Nội cũng có một số động thái kêu gọi « hòa giải » nhưng thực hư
chưa rõ ra sao.
|
Các động thái « trao đổi
này » mang ý nghĩa gì ? Chính phủ và Xã hội dân sự Mỹ làm gì để giúp hình thành
hệ thống thông tin đa chiều tại Việt Nam?
Từ Washington, nhà báo
Phạm Trần phân tích :
“Nếu nhìn lại chặng đường
gần 20 năm bang giao Việt-Mỹ thì trong 5 tháng đầu năm 2014 phải được coi là
thời gian thành công nhất của Hoa Kỳ trong nỗ lực đòi thả tù chính trị và tăng
cường áp lực để Việt Nam phải nhìn nhận quyền tự do ngôn luận của người dân.
Hai nữ dân biểu Loretta
Sanchez và Zoe Lofgren và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng đã thành công trong việc
đưa được một số Blogger và nữ nghệ sĩ Kim Chi đến Washington để họ trình bày về
thực trạng tự do ngôn luận ở VN.
Mặt khác, hai công ty
Google và Access của Mỹ chuyên về cung cấp các phương tiện truyền thông đã hứa
sẽ giúp cho các Blogger Việt Nam phương tiện để hoạt động ngay trên lãnh thổ
của mình để hướng tới một nền báo chí độc lập, bên cạnh nền báo chí của nhà
nước…”
Có thể nói Hoa Kỳ trong
thời gian gần đây đã thành công trong việc thúc đẩy Nhà cầm quyền Việt Nam trả
tự do cho Tiến Sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ, ông Vi Đức Hồi và anh Nguyễn Tiến
Trung,nhưng cái giá mà Hoa Kỳ sẽ phải "đáp lại thiện chí của Việt
Nam" có thể giúp Việt Nam gia nhập Hiệp ước Hợp tác Xuyên Thái Bình Dương,
TPP (Trans-Pacific Partners) hay không….? "
Xung đột về đất đai và sở hữu toàn dân
Kính
Hòa, phóng viên RFA
2014-05-05
2014-05-05
Căn nhà của gia đình
nông dân Đoàn Văn Vươn, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng bị đập phá trong ngày chính
quyền tiến hành lệnh cưỡng chế 10/2/2012. Ông Đoàn Văn Vươn hiện đang bị tù.
AFP photo
Cuối tháng tư, gần đến
ngày mà lý thuyết cộng sản trên thực tế phủ lên trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam,
thì tại một làng quê không xa thủ đô Hà Nội, gần 1000 người của lực lượng công
quyền dẹp tan sự kháng cự cuối cùng của vài gia đình nông dân, và thế là hoàn tất
việc trưng thu đất đai mà nhà nước cho là để phục vụ các kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội.
Làng quê đó tên là Dương
Nội, cũng như nhiều làng quê khác từ bắc chí Nam, trong những năm qua đã chứng
kiến những xung đột giữa nông dân và chính quyền trong chuyện đất đai. Xung đột
đó đôi khi dẫn đến đổ máu như ở Tiên lãng Hải phòng cách đây vài năm, hay vụ
Đặng Ngọc Viết ở Thái Bình hồi năm ngoái.
Danh sách các làng quê
đó ngày càng dài, hai làng mới nhất mà người ta ghi nhận sự hiện diện của bạo
lực, là Bắc Sơn tại tỉnh Hà Tĩnh, và Sơn Hải tại tỉnh Ninh Thuận. Tại Bắc Sơn,
dân làng chống việc lấy đất “của họ” làm nghĩa trang cao cấp. Tại Sơn Hải, dân
làng chống việc lấy đất “của họ” để khai thác khoáng sản, tàn phá môi trường
trong lành.
Điều trớ trêu là về
nguyên tắc những người nông dân được hình ảnh một lưỡi liềm vàng rất đẹp đại
diện cho họ trên lá cờ của đảng cộng sản. Nay những đội quân đứng dưới lá cờ
này lại kéo nhau đến những làng quê ấy lấy đi những miếng đất mà người nông dân
cho là “của họ.”
Nguyên nhân của sự trớ
trêu đó chính là nguyên tắc công hữu về tư liệu sản xuất của chủ nghĩa cộng
sản, mà trong trường hợp những người nông dân, chính là đất đai. Đất đai ấy
thuộc về toàn dân chứ không phải là “của họ.”
Tuy nhiên trên thực tế
người nông dân vẫn xem những miếng đất mà họ cày cấy nhiều thế hệ là “của họ”
và họ sẽ để lại cho con cháu, và đó cũng là những mảnh tài sản đất đai mà tổ
tiên để lại cho họ. Một người dân ở Sơn Hải, Ninh Thuận nói về những mảnh đất
“của họ” bị lấy để khai thác quặng titan:
“Nói chung đất đó là
của tổ tiên ông bà, nhưng mà người ta về người ta khai thác quặng titan. Họ cứ
làm cái công ty khai thác cát đen, vô trong xã làm giấy tờ với xã vậy thôi à.”
Sở hữu toàn dân về đất
đai ở Sơn Hải như vậy được ủy ban xã Sơn Hải đại diện. Và kết cục là khu nhà
của công ty khai thác quặng bị đốt cháy, vài trăm người dân xuống đường bạo
động, vài người bị cầm giữ vì tội gây rối trật tự công cộng.
Đương nhiên gây rối trật
tự công cộng thì phải bị trừng phạt, nhưng phải chăng là phải tìm cho được
nguyên nhân nào dẫn đến chuyện liên tục dân chúng gây rối trật tự công cộng đến
nỗi bị cầm tù.
Khát khao có quyền sở
hữu
Nông dân Dương Nội trong
một lần lên thành phố Hà Nội khiếu kiện về đất đai. AFP photo
Một làng quê khác là
Trịnh Nguyễn tại tỉnh Bắc Ninh cũng chứng kiến sự xung đột giữa cơ quan công
quyền và những người nông dân giữ đất. Nỗ lực giữ đất cuối cùng đã bị dẹp tan
vào tháng 10 năm 2013. Nhiều nông dân cũng bị bỏ tù. Người ở tù lâu nhất là ba
tháng trao đổi với chúng tôi về quyền sở hữu ruộng đất sau khi ông ra tù:
“Dân mất đất rồi, hết
đất rồi. Đúng ra nếu nói cái quan điểm trong vấn đề làm chủ ruộng đất, thì khi
người ta làm chủ ruộng đất thì đó là cái sự sinh nhai, là quyền lợi sống. Người
nông dân chỉ có ít đất để sống thôi. Thế thì cái quyền lợi đấy người dân phải
được.”
Sự khát khao ấy về quyền
sở hữu trên chính mảnh đất nuôi sống bao thế hệ nông dân đã một lần nữa bị phủ
nhận bằng Hiến pháp 2013. Hiến pháp này không công nhận quyền sở hữu tư nhân về
đất đai. Người nông dân làng Trịnh Nguyễn nói tiếp với chúng tôi về cái ông cảm
nhận được từ pháp luật và Hiến pháp:
“Nhân dân làm chủ thì
cái góc độ nhân dân và nhà nước nó giới hạn như thế nào. Làm chủ mà có giới
hạn, người ta không có quyền gì so với thực tế. Thế cho nên tôi mới thấy là
không có sự logic trong cái Hiến pháp để mà hai bên thỏa thuận, hai bên rõ
ràng, vì thế nên mới sinh ra đụng độ.”
Khi bản Hiến pháp 2013
được ra đời, Tiến sĩ xã hội học Trịnh Hòa Bình nói với đài RFA về mối nguy hại
khi quyền sở hữu tư nhân về đất đai không được công nhận:
“Ở nông thôn chúng tôi
gọi là vấn đề dân cày cách nay hàng mấy chục năm đã được xới lên và vẫn chưa
kết thúc. Còn ở thành thị, không phải là ruộng cày nhưng miếng đất để cư trú,
đồng thời cũng là tài sản lớn nhất và liên quan đến quyền sở hữu của người dân
thì chính là khâu tôi nghĩ rằng là 1 bài toán đang rất bức xúc, đòi hỏi phải có
lời giải”.
Một trớ trêu nữa của
lịch sử chiến tranh và cách mạng ở Việt Nam là những người nông dân đã từng ủng
hộ đảng cộng sản trong quá khứ chính vì khẩu hiệu ruộng đất cho dân
cày. Ông Lê Hiếu Đằng, một đảng viên kỳ cựu cho chúng tôi biết như thế
lúc còn sinh thời.
Nữ nghệ sĩ Kim Chi,
người có mặt tại thủ đô Hoa Kỳ vào tháng tư năm nay để vận động cho nhân quyền
và tự do báo chí nói với chúng tôi về quyền sở hữu đất đai cho người nông dân
trong một cuộc phỏng vấn:
“Người ta phải dùng
cả mạng sống của mình để đòi lại đất đai các thứ. Và tôi thấy rằng là một chế
độ gì mà kỳ như vậy, người nông dân người ta phải có cái sở hữu. Chính cái hình
ảnh đó ghim vào đầu tôi làm tôi đau lắm. Hay như hàng ngày tôi đi qua con đường
Thanh Niên tôi thấy dân oan đeo cái biển Trả đất cho tôi. Ai đẩy họ ra đường
như vậy? ”
Và bà cũng cho rằng
quyền sở hữu đó là quyền tự nhiên của mọi người.
Một quốc gia thất bại là
thế nào?
Một gia đình nông dân
Hmong ăn trưa trên cánh đồng. AFP photo
Tháng năm 2013, Nhà xuất
bản Trẻ tại TP HCM xuất bản quyển sách mang tựa đề Tại sao các quốc
gia thất bại (Why Nations Fail?) của hai tác giả là Daron Acemoglu
và James Robinson từ đại học MIT hàng đầu của Hoa kỳ.
Trong quyển sách này các
tác giả cho rằng các quốc gia nghèo khó, kém phát triển vì mô hình kinh tế xã
hội của họ theo kiểu khai thác cạn kiệt, loại trừ mọi sáng kiến (Extractive).
Một điểm chung của nhiều quốc theo mô hình này là không có quyền sở hữu tư
nhân, trong đó có các quốc gia cộng sản.
Tiến sĩ Nguyễn Quang A,
một trong những người thành lập tổ chức tư vấn độc lập đầu tiên tại Việt Nam,
là tác giả của một trong số các bản dịch của quyển sách này. Ông nói rõ hơn về
hai mô hình kinh tế xã hội được nêu:
“Một thể chế gọi là
bao hàm, dung nạp, coi trọng người dân, làm cái gì cũng kéo người dân vào, và
phục vụ cho người dân. Nói chung đó là thể chế của những nền dân chủ hiện đại,
có một nền pháp trị nghiêm minh. Còn chế độ kia gọi là khai thác, khai thác tất
cả các tài nguyên. Ví dụ như kiểu chế độ Liên xô trước đây chẳng hạn.
Hai tác giả đã đưa ra
những dẫn chứng lịch sử cả trăm, thậm chí cả ngàn năm để cho thấy các quốc gia
giàu có là theo chế độ dung nạp, còn chế độ khai thác thì làm cho quốc gia
nghèo khó. Nó cũng có thể phát triển trong một lúc nào đó nhưng không thể bền
vững được.”
Quyền định đoạt là động
lực của phát triển
Tiến sĩ Nguyễn Quang A
cũng giải thích thêm về sự quan trọng của quyền sở hữu, và tại sao quyền sở hữu
lại được xem là thành phần quan trọng của các thể chế làm cho các quốc gia trở
nên giàu có.
“Quan trọng của vấn
đề sở hữu, mà nói toạc ra là sở hữu tư nhân về tài sản, về tư liệu sản xuất, về
đất đai, về máy móc, về nhà máy. Những thể chế có tính năng ấy thì chưa chắc đã
làm cho chế độ trở nên dung nạp, nhưng mà nếu không có thì chắc chắn là không.
Sở dĩ vấn đề sở hữu nó
quan trọng là vì trong bất kể nền kinh tế nào, dù người kinh doanh là cá nhân,
là gia đình, hay là một công ty thì nếu cái sở hữu tư nhân của người ta được
tôn trọng thì người ta được khuyến khích, được một động lực rất là lớn, làm cho
tài sản sinh sôi nảy nở ra. Còn ở các chế độ không coi trọng quyền sở hữu thì
nó sẽ không khuyến khích những người làm kinh tế, vì người ta không có quyền
định đoạt dù người ta làm vất vả.”
Giải thích của Tiến Sĩ
Nguyễn Quang A về quyền định đoạt thực sự giống với lời nói của người nông dân
làng Trịnh Nguyễn sau khi được trả tự do vì xung đột đất đai.
Tuy nhiên cho đến nay,
chính phủ Việt Nam vẫn thường xuyên nêu cao vai trò của thành phần kinh tế nhà
nước làm chủ đạo, và thế là sự can thiệp của nhà nước là rất lớn trong định chế
kinh tế xã hội của Việt Nam. Nhưng mặt khác, chính phủ Việt Nam thường lên
tiếng với các quốc gia đối tác quan trọng như Hoa Kỳ, yêu cầu sự công nhận của
họ rằng Việt Nam có nền kinh tế thị trường. Điều này thể hiện rõ qua câu khẩu
hiệu khó hiểu: Kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Một chuyên gia kinh tế
từ Hà Nội là Tiến sĩ Nguyễn Minh Phong dường như cố gắng giải thích câu khẩu
hiệu đó khi ông cho rằng “kinh tế nhà nước gồm cả những phần tài sản
liên quan tới tài nguyên thiên nhiên, đất đai, tài nguyên trên trời cũng như
dưới lòng lãnh hải của Việt Nam”
Điều ông Nguyễn Như Phong
phát biểu hòan toàn đúng theo Hiến pháp 2013, nói rằng đất đai là sở hữu toàn
dân.
Lịch sử quyền tư hữu ở
Việt Nam và tương lai
Một nông dân ở Hà Nội.
AFP photo
Tiến sĩ Nguyễn Quang A
cho rằng trong quá khứ người nông dân Việt Nam cũng đã từng có quyền sở hữu đất
đai của mình.
“Chúng ta xem xét
luật Hồng Đức (đời nhà Hậu Lê) chẳng hạn thì có sự quy định rất chi tiết. Có
đất gọi là đất công, của nhà nước hay là của Vua. Có đất thuộc cộng đồng tức là
thuộc làng, thuộc dòng họ. Và có đất tư nhân. Nếu ai đó nói rằng Việt Nam thời
quân chủ không có sở hữu đất tư nhân thì không đúng.”
Không hoàn toàn đồng ý
với ý kiến này về lịch sử của quyền sở hữu đất đai ở Việt Nam, ông Dương Trung
Quốc, hiện là đại biểu quốc hội tỉnh Đồng Nai nói:
“Tôi nghĩ rằng trong
chế độ phong kiến thì các cơ cấu xã hội chủ yếu nằm ở làng xã. Về mặt nguyên lý
thì đất là của Vua. Người ta phải giải quyết quan hệ đất công tư trong các làng
xã. Nó không giải quyết được mối quan hệ đó cho nên nó mới thực hiện chế độ
quân điền. Tức là khi sở hữu tư nhân phát triển đến mức độ nào đó tạo nên mâu
thuẫn xã hội đụng đến lợi ích quốc gia nên phải có chuyện điều chỉnh lại trong
các làng xã. Vì thế qui định của luật Hồng Đức cũng chỉ là nguyên tắc thôi.”
Điều ông Dương Trung
Quốc đưa ra về sở hữu ruộng đất dưới chế độ phong kiến như vậy cũng giống nhận
định của hai tác giả quyển sách Tại sao các dân tộc thất bại? khi
hai ông dẫn chứng về các chế độ chuyên chế phương Đông. Và đó cũng là các chế
độ đi đến ngõ cụt, không phát triển được như lịch sử đã chứng minh về sự gục
ngã của đế chế Trung Hoa.
Điều đáng nói là sở hữu
của nhà nước hay của Vua ấy được lập lại trong Hiến pháp 2013 khi qui định đất
đai sở hữu toàn dân. Hơn nữa còn lại ghi thêm rằng nhà nước có quyền thu hồi vì
những dự án phát triển kinh tế xã hội. Ông Dương Trung Quốc nói:
“Trong luật còn qui
định nhà nước có quyền thu hồi đất cho lợi ích công cộng, thế nhưng lợi ích
kinh tế phát triển là như thế nào thì mỗi người giải thích một cách khác nhau,
nó đụng chạm đến lợi ích của những người đang sử dụng mảnh đất ấy.”
Thực tế các vụ xung đột
về đất đai chính là do cái gọi là lợi ích kinh tế phát triển ấy. Tại làng Trịnh
Nguyễn là nhà máy xử lý nước thải trong khu dân cư, tại Dương Nội là khu đô thị
mới, tại Sơn Hải là lợi nhuận khai thác quặng titan,…tất cả đều được mang cái
áo khoác phát triển kinh tế xã hội.
Nếu thực sự sở hữu đất
đai của người nông dân Việt Nam trong quá khứ là đúng như ông Quốc nói thì sẽ
càng dễ giải thích hơn nữa sự khát khao về sở hữu tư nhân của họ hiện nay. Ông
Dương Trung Quốc nói tiếp:
“Tôi cho đó là điều
dễ hiểu vì bên cạnh sự phát triển tự thân của quốc gia thì còn có sự hội nhập
vào các mô hình các giá trị của thế giới nữa.
Các quốc gia có mô hình
sở hữu tư nhân về đất đai người ta vẫn tìm ra cách để giải quyết mâu thuẫn giữa
sở hữu tư nhân và lợi ích công để mà phát triển.”
Trong tình hình Việt Nam
hiện tại, nhà nước là sở hữu của toàn bộ đất đai, người quyết định thế nào là
lợi ích kinh tế xã hội cũng là nhà nước, xử lý những xung đột đất đai lại là bộ
phận tư pháp hoàn toàn không độc lập trong nhà nước ấy.
Xung đột đất đai và hình
ảnh dân oan mất đất có lẽ sẽ không biết mất trong thời gian gần.
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment